Lời nói đầu: Chính sách quốc phòng phác họa ở đây có thể áp dụng nếu đảng cộng sản Việt Nam quyết định dân chủ hóa đất nước một cách tiệm tiến, khởi đầu bằng hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp hiện hành. Nền quốc phòng của Việt Nam không thể vững mạnh dưới một chế độ độc đảng như hiện nay.
Chính sách quốc phòng của một nước Việt Nam dưới một chế độ dân chủ cần hoàn thành 3 nhiệm vụ chính:
1. Bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ
2. Bảo vệ tiềm năng kinh tế quốc gia.
3. Bảo vệ nhân dân
1. Bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ
2. Bảo vệ tiềm năng kinh tế quốc gia.
3. Bảo vệ nhân dân
Bối cảnh thế giới của thế kỷ 21 là cuộc tranh chấp để giành thế siêu cường số 1 trên thế giới giữa Trung quốc và Hoa Kỳ. Mặt trận trước mắt là Biển Đông. Nền quốc phòng của Việt Nam phải đặt trong khung cảnh tranh chấp đó.
Về phía Hoa Kỳ: Hoa Kỳ đang thiết lập một vòng cung kềm chế Trung Quốc, kéo dài từ Ðông Á (Nhật Bản, Ðại Hàn, Ðài Loan) xuống Ðông Nam Á (các quốc gia ASEAN), Nam Á (Úc Ðại Lợi), qua Ấn Ðộ Dương (Ấn Ðộ, Pakistan, Afghanistan) đến tận các quốc gia Trung Á. Vòng cung này bao gồm mọi lãnh vực từ quân sự, đến chính trị, kinh tế và tài chánh.
Về phía Trung quốc: Vào đầu thập niên 80, do tình hình tại eo biển Đài Loan cũng như nhu cầu ngày càng tăng trong việc bảo vệ hải trình chở nhiên liệu và hàng hóa từ Trung Đông qua eo biển Malacca, Trung Quốc bắt đầu canh tân Hải Quân. Sự tan rã của Liên Bang Xô Viết vào cuối thập niên 80 và sự dính chân của Hoa Kỳ vào hai cuộc chiến Iraq, Afghanistan từ các năm 2001, 2003 giúp Trung Quốc có thì giờ phát triển kinh tế và quân sự và nuôi ý chí siêu cường.
Mục tiêu dài hạn của Hải quân Trung quốc gồm ba điểm:
· Nâng cấp Hải Quân để đẩy mạnh ảnh hưởng trong khu vực. Trung quốc không giấu diếm kế hoạch thiết lập hai vòng phòng thủ đảo biển, bao quát toàn bộ Biển Đông và khu vực Đông Nam Á. Vòng phòng thủ thứ nhất (First islands chain) chạy từ Đài Loan qua quần đảo Trường Sa tới Singapore ở cuối bán đảo Malaysia bên trong có một số đảo thuộc Nhật Bản, Okinawa, Philippines và Brunei. Tham vọng của Bắc Kinh là kiểm soát vòng thứ nhất này vào năm 2010.
· Phát triển hạm đội nước sâu của mình trong 4 thập niên đầu của thế kỷ 21 để có thể mở rộng vòng phòng thủ thứ hai (Second islands chain) từ Ấn Độ Dương bọc eo biển Malacca, Úc châu chạy lên đến quần đảo Aleutian. Chương trình của Bắc Kinh là kiểm soát vòng thứ hai vào năm 2040.
· Trở thành một lực lượng Hải Quân mạnh nhất nhì trên thế giới, có khả năng đối chọi ngang ngữa với Hải Quân Hoa Kỳ. Tầm hoạt động là Ấn Ðộ Dương qua đến nửa phía Tây của Thái Bình Dương kéo dài đến đảo Guam của Hoa Kỳ. Trung quốc dự trù hoàn tất giai đoạn 3 vào hậu bán thế kỷ 21.
Do vị trí địa lý, Việt Nam cần ý thức rằng Việt Nam nằm giữa hai lằn đạn. Trong khung cảnh đó để hòan thành 3 nhiệm vụ quốc phòng trên Việt Nam cần có:
1. Một thể chế chính trị dân chủ
2. Một chính sách ngoại giao mềm dẻo
3. Một quân đội hùng mạnh
2. Một chính sách ngoại giao mềm dẻo
3. Một quân đội hùng mạnh
Chính trị dân chủ:
Kiện toàn chế độ chính trị đa đảng qua bầu cử tự do bằng cách tiệm tiến từ chế độ độc đảng hiện nay sang chế độ dân chủ đa đảng (đa đảng không có nghĩa càng nhiều đảng càng tốt). Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là một đảng chính trị có quyền tham dự vào sinh hoạt quốc gia nếu tôn trọng luật chơi dân chủ .
Ngoại giao mềm dẻo:
- Quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ để cân bằng quan hệ với Trung Quốc. Quan hệ này đã được khởi đầu với những lời tuyên bố của bà Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton tháng 7 năm 2010 tại Hà Nội. Việt Nam đã tỏ thái độ phấn khởi nhưng cần thận trọng trong mối quan hệ không thể thiếu đối với Trung quốc. Chính sách “3 Không” (không tham gia các liên minh quân sự hoặc là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, và không dựa vào nước này để chống nước kia) là một hướng ngoại giao đúng đắn trong mối quan hệ tế nhị đối với Hoa Kỳ và Trung quốc hiện nay. Việt Nam cũng nên nghiên cứu mô hình ngoại giao của Nhật Bản và Ðại Hàn đối với Hoa Kỳ và Trung quốc để ưu tiên hóa những điều cần làm.
- Kết thân với thế giới, đặc biệt với Liên bang Nga, Cộng đồng Âu châu, Ấn Độ và Nhật Bản, Đại Hàn, Úc châu…
- Vươn lên chia sẽ trách nhiệm với Indonesia để giữ vai trò chủ chốt trong khối Asean.
Quân đội hùng mạnh:
Thứ nhất: Hải, Lục, Không Quân nhất là Hải Quân có khả năng bảo vệ đất, bảo vệ biển và bảo vệ vùng trời với sự trợ lực của Liên hiệp quốc qua quan hệ quốc tế.
Thứ hai: Trang bị vũ khí hiện đại quy ước và bất quy ước. Phát huy hiểu biết áp dụng hòa bình nguyên tử lực.
- Lục quân: Ngoài các sư đoàn chính quy, lục quân Việt Nam cần có: binh đoàn tổng trừ bị, binh chủng đặc công, lực lượng dân quân và phương tiện chuyên chở nhanh chóng để bộ binh có thể tham chiến trong mọi hoàn cảnh và thời tiết.
- Hải quân: Tập trung vào hai mặt: Phòng thủ cận duyên và Phòng thủ viễn duyên. Ngoài hạm đội quy ước, Hải quân Việt Nam cần có hạm đội Khinh tốc đỉnh, hạm đội Tàu ngầm, các Dàn trọng pháo và Hỏa tiễn phòng duyên, các đoàn Tàu đánh cá vũ trang và Hải không quân khi có khả năng. Nhiệm vụ của Hải quân là ngăn chận một cuộc đổ bộ vào ven bờ biển Việt Nam và bảo vệ sự tấn công lấn chiếm các hải đảo quan trọng tại Trường Sa (như năm 1988) đồng thời bảo vệ sự hành nghề hợp luật quốc tế của ngư dân Việt Nam trong vùng Đặc quyền kinh tế (Exclusive Economic Zone) và Thềm lục địa ngoại biên (Extended Continental Shelf) có đăng ký hợp lệ.
Hạm đội Khinh tốc đỉnh: Dùng trong chiến thuật đánh du kích biển trước một hải lực áp đảo. (Kamikaze của Nhật Bản trong những tháng cuối cùng của Thế chiến 2 là một hình thức đánh du kích)
Hạm đội tàu ngầm : Hạm đội tàu ngầm giúp tăng cường khả năng tuần thám, phòng thủ chống tàu ngầm địch, tiêu diệt tàu chiến của đối phương và bảo vệ các căn cứ quân sự trên bờ.
Hạm đội tàu ngầm : Hạm đội tàu ngầm giúp tăng cường khả năng tuần thám, phòng thủ chống tàu ngầm địch, tiêu diệt tàu chiến của đối phương và bảo vệ các căn cứ quân sự trên bờ.
Trọng pháo và Hỏa tiễn phòng duyên: Chống đổ bộ và yểm trợ hạm đội cận duyên.
Tàu đánh cá vũ trang: Tự bảo vệ trước khi hạm đội có thể can thiệp. Các tàu đánh cá vũ trang này sẽ là đội quân tiên phong hy sinh trên tuyến đầu trong nhiệm vụ bảo vệ lãnh hải và bảo vệ ngư dân Việt Nam trong vùng đánh cá hợp pháp khi đụng đầu với một lực lượng mạnh hơn.
Hải Không quân : Nòng cốt của Hải Không quân là những mẫu hạm dùng làm sân bay nổi cho khu trục cơ cất cánh và đáp xuống. Một đơn vị Hải Không quân tấn công (Group Attack) gồm một số chiến hạm hoạt động chung quanh một mẫu hạm có khả năng vừa tấn công vừa tự bảo vệ và hoạt động xa bờ biển.
Tuy nhiên bờ biển Việt Nam chạy dài theo Biển Đông nên việc yểm trợ của Không quân cho Hải quân là một thuận lợi to lớn. Nếu Việt Nam chấp nhận một vị trí khiêm nhường đối với Hải quân Trung quốc và Hoa Kỳ thì Việt Nam không cần Hải Không quân cũng như không cần các chiến hạm khổng lồ (battleships).
- Không quân: Cần trang bị các phi đoàn phóng pháo, không chiến (dog fight), vận tải, tiếp tế trên không, tuần thám, tình báo, vận tải và cứu hộ.
Sự chuẩn bị hiện nay của chính quyền Cộng sản Việt Nam về mặt vũ khí đang đi theo các hướng phát triển cần thiết này, nên có thể dễ dàng cho hướng phát triển quân lực dưới một chính quyền dân chủ tương lai.
Thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng
1. Bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ : Đó là nhiệm vụ chính của các lực lượng vũ trang nhằm:
- Chống một cuộc tấn công của Trung quốc vào biên giới phía Bắc
- Chống một cuộc tấn công của Cambốt vào biên giới phía Nam
- Bảo vệ vùng yết hầu (Thanh Hóa, Nghệ An) chống một cuộc đổ bộ từ biển vào cắt đôi Việt Nam và uy hiếp thủ đô Hà Nội từ phía nam.
- Chống một cuộc tấn công của Trung quốc vào biên giới phía Bắc
- Chống một cuộc tấn công của Cambốt vào biên giới phía Nam
- Bảo vệ vùng yết hầu (Thanh Hóa, Nghệ An) chống một cuộc đổ bộ từ biển vào cắt đôi Việt Nam và uy hiếp thủ đô Hà Nội từ phía nam.
- Tham gia hợp tác quốc tế bảo vệ quyền lưu thông tự do trên Biển Đông
- Đòi lại Hoàng Sa
- Bảo vệ Trường Sa chống sự xấm lấn của Trung quốc và của các nước trong khối Asean.
- Bảo vệ hải cảng Cam Ranh để duy trì tính trung lập của hải cảng Cam Ranh bằng mọi giá
- Bảo vệ vùng Đặc quyền kinh tế và bảo đảm quyền kinh tế trên Thềm lục địa ngoại biên theo Luật Biển 1982.
- Đòi lại Hoàng Sa
- Bảo vệ Trường Sa chống sự xấm lấn của Trung quốc và của các nước trong khối Asean.
- Bảo vệ hải cảng Cam Ranh để duy trì tính trung lập của hải cảng Cam Ranh bằng mọi giá
- Bảo vệ vùng Đặc quyền kinh tế và bảo đảm quyền kinh tế trên Thềm lục địa ngoại biên theo Luật Biển 1982.
Khả năng thiết yếu của quân đội là đủ sức ngăn chận một cuộc tiến công của Trung quốc qua biên giới vào Hà Nội hay một cuộc đổ bộ vào yết hầu tại miền Trung trong thời gian đầu (ít nhất là 10 ngày) trước khi quốc tế kịp can thiệp.
2. Bảo vệ tiềm năng kinh tế quốc gia:
Tiềm năng lớn nhất của Việt Nam là con người. Người Việt cần cù, chịu khó và nhất là khả năng trí tuệ cao. Người Việt Nam có kỹ luật nếu được làm gương và lãnh đạo tốt. Để khai thác tiềm năng này cần có một nền giáo dục khai phóng và tự do, một ý thức không ràng buộc bởi giáo điều nào.
Tiềm năng lớn nhất của Việt Nam là con người. Người Việt cần cù, chịu khó và nhất là khả năng trí tuệ cao. Người Việt Nam có kỹ luật nếu được làm gương và lãnh đạo tốt. Để khai thác tiềm năng này cần có một nền giáo dục khai phóng và tự do, một ý thức không ràng buộc bởi giáo điều nào.
Tiềm năng khác là đất đai, biển cả. Tiềm năng đất đai của Việt Nam rất to lớn. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sông Hồng là nơi sản xuất lúa gạo, thịt cá, rau có thể nuôi cả nước. Cao nguyên miền Trung đất đai thích hợp cho việc trồng cây kỹ nghệ. Sinh thái thích hợp cho viêc chăn nuôi.
Biển Việt Nam dài, nước ấm, nhiều cá, thích hợp cho việc đánh cá, một nguồn thực phẩm cần thiết rẽ và bổ dưỡng và là một nhu yếu xuât khẩu
Hầm mỏ: Việt Nam còn nhiều hầm mỏ chưa khai thác vì chiến tranh. Mỏ bauxít trên cao nguyên miền Trung là một thí dụ. Cần bảo vệ khoáng sản. Không nên quá dễ dãi để nước ngoài khai thác với lý do mình chưa đủ khả năng kỹ thuật.
Dầu khí ngoài khơi Biển Đông: Theo ước lượng của các cuộc đo lường Biển Đông có trữ lượng khỏang 213 tỉ thùng (barrel). Và riêng trong vùng Trường Sa và Hoàng Sa trữ lượng có thể đến 105 tỉ thùng. Theo ước lượng của Trung quốc vùng Trường Sa có khả năng sản xuất 1.9 triệu thùng mỗi ngày (nguồn Google)
Bảo về nguồn lợi kinh tế nơi Biển Đông là nhiệm vụ quốc phòng quan trọng nhất. Thất bại trong nhiệm vụ này Việt Nam sẽ mất tất cả và không tránh được suy vong trước tham vọng bành trướng của Trung quốc .
Trong bối cảnh tranh chấp với Trung quốc, chính sách khả dĩ hữu hiệu nhất là quốc tế hóa Biển Đông và biến Cam Ranh thành thương cảng quốc tế. Một khi Biển Đông và Cam Ranh được quốc tế hóa, Trung quốc khó thể thành công trong việc giành giựt Biển Đông. Việt Nam sẽ ít bị đe dọa hơn và triển vọng duy trì hòa bình trong vùng cũng cao hơn.
Trong bối cảnh tranh chấp với Trung quốc, chính sách khả dĩ hữu hiệu nhất là quốc tế hóa Biển Đông và biến Cam Ranh thành thương cảng quốc tế. Một khi Biển Đông và Cam Ranh được quốc tế hóa, Trung quốc khó thể thành công trong việc giành giựt Biển Đông. Việt Nam sẽ ít bị đe dọa hơn và triển vọng duy trì hòa bình trong vùng cũng cao hơn.
3. Bảo vệ nhân dân:
Chính sách quốc phòng tối hậu là bảo vệ nhân dân trong một cuộc chiến tranh và chống thiên tai bão lụt.
Người dân Việt Nam sống với đe dọa hằng năm bởi bão lụt và trải qua những giai đoạn chiến tranh tàn khốc nên rất sợ chiến tranh và thiên tai. Nhưng 30 năm qua sống dưới một chế độ trong đó người dân không có quyền có ý kiến về an ninh của đất nước, và phương tiện phòng chống thiên tai rất thô sơ nên sinh ra tính “bầt cần” đến đâu hay đó. Tâm lý này cũng là tâm lý của đảng cầm quyền đứng trước đe dọa của thiên tai.
Cho nên nhiệm vụ của chính quyền là chuẩn bị phương tiện loan báo tin tức về bão lụt, động đất, sóng thần để có thể chuyển đạt đến dân chúng trong vùng bị đe dọa một cách nhanh chóng, và huấn luyện phương cách cứu hộ.
Bài học động đất và sóng thần tại Nhật Bản tháng 3/2011 cho thấy đứng trước “tính khí” bất thường của vỏ quả đất và thời tiết, sẽ không có sự chuẩn bị nào là đủ (Nhật Bản được trang bị và dân Nhật được huấn luyện chống thiên tai cao nhất thế giới vẫn phải khoanh tay chịu đựng những thiệt hại vật chất và sinh mạng to lớn). Nhưng chuẩn bị trong khả năng là trách nhiệm quốc phòng của người cầm quyền.
Cần tổ chức hệ thống tiếp tế thực phẩm dân sự gồm dự trữ, vận tải và nhân sự. Cần nhắm vào nhân sự dự trữ là quân đội.
Tổ chức ngăn chận mưu đồ lợi dụng tình hình để cướp bóc trấn lột. Công tác này đòi hỏi một chương trình giáo dục quần chúng tự lo tự quản, và huấn luyện nhân sự (không riêng lực lượng cảnh sát mà còn gồm công nhân viên nhà nước)
Tổ chức ngăn chận mưu đồ lợi dụng tình hình để cướp bóc trấn lột. Công tác này đòi hỏi một chương trình giáo dục quần chúng tự lo tự quản, và huấn luyện nhân sự (không riêng lực lượng cảnh sát mà còn gồm công nhân viên nhà nước)
Sau cùng và trên hết Việt Nam chỉ được an ninh và duy trì được độc lập nếu:
(1) có khả năng tự túc kinh tế,
(2) Có khả năng kỹ nghệ và sản xuất cơ giới quốc phòng,
(3) đoàn kết được toàn dân
(2) Có khả năng kỹ nghệ và sản xuất cơ giới quốc phòng,
(3) đoàn kết được toàn dân
• Tự túc kinh tế có nghĩa là sống và phát triển trong trường hợp không nhận được một sự trợ giúp nào của các nước bạn. Ít nhất là đủ thực phẩm căn bản không cần nhập cảng và vẫn ổn định được sinh họat xã hội như giáo dục, y tế và giao thông, sản xuất.
• Có khả năng kỹ nghệ và sản xuất cơ giới quốc phòng. Khả năng nầy giúp Việt Nam không lệ thuộc vào nước khác. Điều này không phải đơn giản trong một thế giới mà mọi sinh hoạt đều có tính toàn cầu. Tuy nhiên khả năng tự túc càng cao quốc gia càng ít bị áp lực của sinh hoạt toàn cầu.
• Đoàn kết được toàn dân: Lịch sự Việt Nam chứng tỏ rằng khi toàn dân đoàn kết một lòng dưới một sư lãnh đạo vững vàng nhân dân Việt Nam có một khả năng chống xâm lăng và bảo vệ độc lập vô biên. Vua Trần nhờ đoàn kết được toàn dân đã khích lệ tướng tài Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên. Và muốn toàn dân đoàn kết cần có tự do và dân chủ. Tự do và dân chủ là điều kiện thiết yếu của quốc phòng vững mạnh.
15/4/ 2011
Trần Bình Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét