Thứ Năm, 30 tháng 6, 2011

Càng nhân nhượng, Trung Quốc càng lấn tới!

Báo Pháp Luật khẳng định: "Rõ ràng, Trung Quốc đang cho thấy bản chất ngang ngược và xảo quyệt qua cách hành xử mềm nắn rắn buông trong vấn đề Biển Đông. Trong vấn đề chủ quyền Biển Đông, càng nhân nhượng thì Trung Quốc càng lấn tới!"
Theo nhà báo Mỹ David Brown, việc Việt Nam tham gia các cuộc “đàm phán song phương” với Trung Quốc, “có vẻ như là một bước lùi” sau hàng tháng nhấn mạnh rằng mọi cuộc thương thuyết nên được tiến hành trong khuôn khổ Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Ngày 28/6, Tân Hoa Xã đã lại rêu rao một cách trắng trợn rằng Bắc Kinh có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các đảo ở Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi "kêu gọi Việt Nam thực hiện đầy đủ thỏa thuận trong vấn đề Biển Đông mà hai bên vừa đạt được." Theo giới quan sát, tuyên bố này mang ý nghĩa là một hành động gây sức ép của Bắc Kinh sau khi Việt Nam tỏ dấu hiệu hòa hoãn.

Theo đại diện Trung Quốc, cả hai nước đều “phản đối những thế lực bên ngoài can dự vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam cũng như cam kết sẽ tích cực định hướng công luận và ngăn ngừa những lời bình luận hoặc hành động làm tổn hại tới tình hữu nghị, sự tin cậy giữa nhân dân hai nước”.

Đối với giới quan sát, lời kêu gọi của Bắc Kinh là một hành động gây sức ép mới, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã có những dấu hiệu được coi là nhún nhường, cho dù đã liên tiếp bị Trung Quốc bức bách ngay tại vùng biển vốn thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mình trong thời gian gần đây.

Một trong những điểm mà Trung Quốc muốn Việt Nam thực hiện là đẩy mạnh các cuộc đàm phán song phương với họ để giải quyết tranh chấp, một điều mà bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh trong những ngày qua không ngừng nêu bật khi cực lực chỉ trích ý định của Mỹ muốn can dự vào vấn đề Biển Đông.

Theo nhà báo Mỹ David Brown, nguyên là một nhà ngoại giao, việc Việt Nam tham gia các cuộc “đàm phán song phương” với Trung Quốc, “có vẻ như là một bước lùi” sau hàng tháng nhấn mạnh rằng mọi cuộc thương thuyết nên được tiến hành trong khuôn khổ Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).

Một điểm khác mà Bắc Kinh muốn Việt Nam thực hiện là ngăn cản các cuộc biểu tình chống Trung Quốc, vốn không tốt cho hình ảnh của Bắc Kinh trên trường quốc tế.



Trung Quốc đang thể hiện sự ngang ngược bằng cả hành động trên Biển Đông và trong các tuyên bố ngoại giao

Câu hỏi mà giới quan sát đặt ra là áp lực của Trung Quốc lúc này liệu có hữu hiệu hay không, khi mà trong thời gian gần đây, Bắc Kinh đã nhiều lần tuyên bố thiện chí, nhưng ngay sau đó lại có những hành động hù dọa. Ví dụ gần đây nhất là vụ tàu Viking II bị tàu cá Trung Quốc sách nhiễu, chỉ vài ngày sau phát biểu có vẻ hữu hảo của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt tại cuộc Đối thoại An ninh Shangri La ở Singapore  hồi đầu tháng 6.

Thảo Hương

Sáu nguyên tắc gắn kết của đồng minh

Sau đây là sáu nguyên tắc có thể hướng dẫn Hoa kỳ và các đồng minh Châu Á hợp tác hiệu quả hơn.
Thứ nhất, mô hình "trục bánh xe và nan hoa" cần phải được thay thế bằng mô hình "Điểm đối điểm" hay còn gọi là mô hình "mạng lưới các đồng minh". Tất cả các đồng minh đều phải có phương tiện để tự phòng vệ ít nhất là trong một giai đoạn ngắn hoặc cùng tự bảo vệ trong một giai đoạn dài hơn, và nếu như Hoa kỳ không thể tới ứng cứu thì các đồng minh khác vẫn có thể hỗ trợ.
Thứ hai, các nước đồng minh cần hỗ trợ nhau giám sát mọi sự dịch chuyển gây mất ổn định của TQ trên biển Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Thứ ba, các nước đồng minh phải có đủ khả năng đảm bảo quyền tiếp cận các tuyến hàng hải quốc tế Đông - Tây và chế ngự được nó khi cần thiết.
Thứ tư, các đồng minh phải đủ khả năng để trợ giúp Hoa Kỳ triển khai lực lượng.
Thứ năm, chính phủ Mỹ cần phải thay đổi tư duy về vấn đề những hệ thống vũ khí nào thì Mỹ sẽ trực tiếp sản xuất và những công nghệ nào Mỹ có thể chuyển giao cho đồng minh. Trong một kỷ nguyên mà bất kể kẻ thù hay đối thủ nào cũng có thể thu thập được hầu như là mọi loại công nghệ mà chúng muốn có từ một hoặc vài nguồn cung cấp thì những ai trong chính phủ Hoa Kỳ xưa nay vẫn phản đối việc chuyển giao một số công nghệ cần thiết cho các nước đồng minh cần phải suy nghĩ lại.
Cuối cùng, hiện nay  một số quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân có thể trở thành những đối thủ (hoặc kẻ thù) tiềm năng nên các nước đồng minh phải phát triển  nhiều phương án (trong phạm vi công ước quốc tế) để đáp trả kẻ xâm lược gây hấn nhằm ngăn chặn sự leo thang hạt nhân. Các đồng minh mạnh nhất của Hoa kỳ trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và Ấn Độ đã có đủ năng lực để thực hiện tất cả 6 mục tiêu quân sự nêu trên.
Các đồng minh nhỏ hơn hoặc yếu hơn như: Philippines và Indonesia sẽ đặt mối quan tâm hàng đầu vào năng lực chống trả sự cưỡng bức, bắt nạt, cá lớn nuốt cá bé và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. (Thái Lan có thể chưa thể tham gia vào liên minh trong tương lai gần do còn quá bận bịu về vấn đề ổn định trong nước cũng như tình hình chính trị hỗn loạn hiện nay). Hãy cùng tham khảo một trường hợp tỏ ra rất xác đáng, đó là Đài Loan:
Trong những giai đoạn hòa bình, Đài Loan dễ bị lầm tưởng như là một vùng đất có những mối quan tâm và đặc thù riêng,  bị lãng quên từ thế kỷ trước, tuy nhiên nó sẽ rất khác một khi bị tấn công. Chiến lược đe dọa quân sự của TQ chống Đài Loan, tuy nhiên có thể được áp dụng đối với các quốc gia đồng minh khác của Mỹ. Thực tế là gần đây mối quan hệ Trung - Việt trở nên căng thẳng hơn thì TQ có thể đã điều thêm nhiều lữ đoàn binh chủng tên lửa vào vị trí ngắm bắn Việt Nam. (2).
Ảnh minh họa: BBC
Trong suốt mấy thập kỷ trước Bắc kinh luôn thể hiện rõ chiến lược quân sự được ưu tiên của mình là không ngừng hăm dọa Đài Loan. Đây cũng sẽ là một cơ hội để các quốc gia đồng minh suy nghĩ một cách nghiêm túc liệu chiến lược quân sự của TQ sẽ được áp dụng ra sao để chống lại bất kỳ ai trong số họ.
Tuy nhiên đã qua rồi cái thời mà các nước đồng minh cần thảo luận về sự đe dọa Đài Loan từ phía TQ và cách ngăn chặn điều đó hiệu quả nhất ra sao; hay tránh một cuộc chiến hạt nhân mà TQ dự tính như thế nào. Đồng minh đều hiểu rằng nếu Đài Loan rơi vào tay TQ thì Châu Á sẽ bị cắt mất một nửa; sự điều hành của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương sẽ ngày càng trở nên bất lực tới mức nguy hiểm, biển Đông sẽ chỉ là cái ao nhà của TQ và Nhật Bản sẽ mất đi vị trí có tầm chiến lược.
TQ đã xây dựng tiềm lực đủ để trừng phạt năng nề Đài Loan bằng những đợt tấn công từ trên không và bằng tên lửa cũng như phong tỏa đường biển, đồng thời đang phát triển năng lực để triển khai chiến lược dùng không quân và hải quân  chống lại các cứ điểm tiền tiêu của Hoa kỳ và Nhật bản cũng như lực lượng tiếp viện được gửi đến khu vực.
Đài Loan, Nhật Bản và Hoa Kỳ là những nước giữ trọng trách chính trong việc làm thất bại nỗ lực này. Tuy nhiên Australia, Ấn Độ và có thể một số quốc gia ASEAN có thể được kêu gọi tham gia hỗ trợ thực hiện việc bao vây, phong tỏa, dọn dẹp đường hàng hải khỏi các chiến hạm TQ hoặc thực hiện các mệnh lệnh phân công khác.
Đài Loan sẽ cần bản lĩnh kiên cường để đối đầu với những đợt tấn công như vậy để chứng tỏ  rằng họ vẫn còn có thể điều hành nền kinh tế. Đài Loan cũng sẽ cần phải thể hiện một số phương tiện đánh trả vào các mục tiêu quân sự TQ như máy bay chiến đấu, tàu ngầm chạy Diesel, pháo binh và tên lửa đạn đạo tầm ngắn.
Cũng giống như những người khởi nghĩa đánh trả quân chiếm đóng, Đài Loan sẽ phải cho TQ thấy rằng không thể bắt hòn đảo này quỳ gối chỉ  bằng những đợt ném bom.
Để hỗ trợ Hoa Kỳ tham gia bảo vệ Đài Loan thì Nhật Bản cần trang bị thêm vũ khí hạng nặng trên chuỗi đảo Ryuku, xây thêm căn cứ không quân, nâng cấp những cái sẵn có và hình thành hàng rào chống tàu ngầm để chặn đường ra Thái Bình Dương của TQ khi hải quân TQ tìm cách ngăn chặn các lực lượng Hoa kỳ. Cuối cùng thì Nhật Bản cần xem xét việc triển khai bố trí các loại vũ khí thông thường, tàu đổ bộ và tên lửa đạn đạo của riêng mình để trả đũa TQ khi bị tấn công.
Với nhiều căn cứ không quân và quân cảng đã hoạt động nhiều năm ở Nhật Bản chính phủ Mỹ khi cần có thể gửi máy bay đến Đài Loan để thực hiện tuần tiễu trên không và đưa tàu chiến tới giúp bảo vệ hòn đảo này. Hoa Kỳ và Nhật có thể sử dụng đội tàu ngầm tấn công để bắn phá đường hàng hải và bẻ gãy mọi ý đồ bao vây eo biển Đài Loan đồng thời "đào bới" các cảng biển của TQ để kìm chân lực lượng hải quân quân giải phóng nhân dân.
Các nước đồng minh cần phát triển cách bài binh bố trận luôn biến hóa để đáp lại cuộc tấn công vào Đài Loan trước khi phải dùng đến các biện pháp kể cả các hành động bằng không quân hạn chế nhằm chống lại phần Đại lục có vũ khí hạt nhân. Nếu các lực lượng quân đội thông thường của Hoa Kỳ và Nhật Bản tỏ rõ rằng họ sẵn sàng tự đặt mình vào giữa Đài Loan và quân đội TQ bằng những đội hình phi cơ chiến đấu tuần tiễu trên không cùng sự có mặt trên hòn đảo và hoạt động chống trả lại sự bao vây, phong tỏa  thì khi đó, TQ sẽ phải suy nghĩ hai lần trước khi tấn công hòn đảo. Sự dịch chuyển nhanh chóng các lực lượng chiến đấu tới eo biển Đài Loan sẽ gửi tới TQ một thông điệp rõ ràng: nếu TQ tấn công Đài Loan, TQ sẽ sa lầy trong một cuộc xung đột dai dẳng và đau đớn.
Còn một phương án nữa đó là bao vây, phong tỏa từ xa con đường giao thương  hàng hải của TQ  trên Ấn Độ dương , điều này cũng tương đương với việc đóng cửa một ngả giao thương trọng yếu của TQ. Các hành động này chỉ có thể được tiến hành khi Nhật, Mỹ, Australia và Ấn Độ cùng hợp tác. Hình thức dụng binh theo lối "leo thang bề ngang" này có thể buộc TQ từ bỏ việc tấn công Đài Loan và Nhật Bản mà không cần tới Hoa kỳ phải gia tăng sự đánh trả bằng vũ khí thông thường.
Có thể Đài loan luôn đứng đầu bảng  bị đe dọa của TQ, tuy nhiên Bắc kinh cũng chứng tỏ rằng họ không do dự đe dọa các láng giềng khác. Do vậy các quốc gia đồng minh cần phải lấy Đài loan như một bài học thực tế về cách chống lại các loại chiến lược đe dọa láng giềng của TQ. Chỉ tính có 2 năm gần đây, Bắc Kinh đã  gia tăng các cuộc tranh chấp  với Nhật ở biển Đông Trung hoa, với Việt Nam ở biển Đông, với Ấn Độ ở Arunal Pradesh và với Indonesia ở quần đảo Natuna.
Một số chiến lược mà Nhật đã chuẩn bị để dùng vào việc bảo vệ Đài Loan bị tấn công cũng có thể sẽ hữu ích cho những trường hợp khác xảy ra. Nếu Nhật quân sự hóa đảo Ryuku và mở rộng căn cứ tàu ngầm cũng như tăng cường năng lực tấn công bằng vũ khí thông thường thì sẽ là bước chuẩn bị tốt nhằm chống trả lại những ý đồ tàn phá của TQ nhằm gây áp lực cho những yêu sách của họ ở biển Đông Trung Hoa.
Bằng việc nâng cấp các căn cứ quân sự sẽ có nhiều lực lượng không quân hơn có thể xuất phát trên vùng trời bán đảo và Nhật bản sẽ tham gia nhiều hơn vào việc bảo vệ Hàn quốc. Sự hợp tác chặt chẽ hơn với hải quân Hàn Quốc sẽ giúp lực lượng hải quân phòng vệ Nhật bản giữ gìn những hành lang trên biển bao quanh Hàn quốc luôn được thông thoáng.
Cuối cùng, với lực lượng tàu ngầm mạnh, các tàu khu trục trang bị hệ thống bảo vệ Aegis có tên lửa chống hạm , các chiến đấu cơ tàng hình và các loại tàu nhỏ tấn công nhanh, Nhật Bản có khả năng giữ cho thông thoáng (hoặc phong tỏa lại khi cần) con đường hàng hải huyết mạch nối với biển biển Đông- ND), eo biển Malacca và  Lombok.
Với những khả năng như vậy Nhật bản có thể ngăn chặn hải quân TQ không cho tiếp cận một số tuyến hành lang huyết mạch trên biển trong trường hợp xảy ra xung đột (tất cả những hoạt động nêu trên của Nhật chỉ có thể thực hiện được nếu những nỗ lực chính trị nội bộ nhằm bãi bỏ những ràng buộc tự đặt ra về hoạt động tự phòng vệ tập thể thành công, tất nhiên đây là một bài toán không dễ).
Việc Ấn Độ và Australia tiến hành phong tỏa và xua đuổi tầu ngầm và tàu chiến TQ tại các điểm trung chuyển hàng hải ở khu vực Đông Nam Á sẽ nâng cao lợi ích chiến lược của họ ngoài phạm vi câu chuyện về kịch bản  Đài Loan. Ấn Độ rõ ràng không muốn sự có mặt của TQ ở Ấn Độ Dương. Với hạm đội tàu ngầm, các khu trục hạm, tàu sân bay, chiến đấu cơ và các phương tiện C4ISR đã triển khai tại các đảo Nicobar và Andaman Ấn Độ có thể hợp tác với Nhật bản, Mỹ và Australia để ngăn chặn mọi mưu đồ  của TQ nhằm bao vây hoặc khống chế trên biển. Canbera cũng mong muốn củng cố vị trí chiến lược của mình khi có được hiệu quả cao hơn trong việc khống chế, phong tỏa và tấn công trên biển.
CÁC TRƯỜNG HỢP CÓ THỂ XẢY RA KHÁC
Một Bắc Triều Tiên có vũ khí hạt nhân đang đặt ra cục diện đe dọa chủ yếu đối với Hàn quốc. Trong những hoàn cảnh nhất định thì bán đảo lại có thể trở thành bãi chiến trường nơi các sức mạnh khủng khiếp gặp nhau. Căn cứ vào sự kiện gần đây quân đội bắc Triều Tiên bất ngờ pháo kích giết hại binh lính và dân thường vô tội Nam Hàn chính phủ nước này sẽ phải phục hồi lại hệ thống phòng thủ và tấn công đáp trả Bình Nhưỡng trang bị vũ khí thông thường. Hàn Quốc không nhất thiết phải xin phép Hoa Kỳ để triển khai các hoạt động trả đũa cường độ thấp dưới nước, trên không, có sử dụng các lực lượng bí mật và đặc nhiệm (tất nhiên do Washington đảm bảo vấn đề hạt nhân nên Sêul cần thỏa thuận về những động thái mang tính rủi ro cao).
Có hai kịch bản liên quan đòi hỏi sự trao đổi bàn bạc giữa các đồng minh.
Thứ nhất, đó là trường hợp tấn công Hàn Quốc và Nhật Bản với cường độ mạnh hơn các lần trước. Tình thế này đòi hỏi Washington và Tokyo phải hợp tác nhằm đánh đuổi sự xâm phạm lãnh thổ, đáp trả lại hàng phòng ngự bằng tên lửa, đảm bảo việc ngăn ngừa vũ khí hạt nhân và ngăn cản con đường giao thương của bắc Triều Tiên trên biển.
Trong kịch bản thứ hai, đó là chế độ Bình Nhưỡng sụp đổ khiến Bắc Kinh phải đơn phương gửi quân tới bán đảo Triều Tiên. Kịch bản này có thể dẫn tới việc nhiều nước đồng minh phải gửi một thông điệp rõ ràng, không mập mờ rằng họ mong muốn một bán đảo Triều Tiên thống nhất dưới sự điều hành của Sêul. Một mạng lưới được phối hợp nhịp nhàng giữa các quốc gia đồng minh sẽ huy động lực lượng một cách hiệu quả và cho TQ thấy rằng những hành động thiếu tính toán sẽ phải trả giá đắt.
Việc TQ quấy rối  các tàu của Việt Nam trên biển Nam Trung Hoa (biển Đông - ND ) và các tàu đánh cá của Indonesia trong  hải phận Indonesia đã cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng gây áp lực để thỏa mãn những đòi hỏi ngông cuồng về biển, đảo. Việt Nam có thể đối phó với sự đe dọa này bằng cách vũ trang cho hải quân nhiều tàu chiến loại nhỏ và các tàu ngầm có lắp tên lửa đối hạm, đồng thời nâng cao tính kết nối giữa hỏa lực phòng không và tấn công trên biển.
Trong khi mối quan tâm chính của Indonesia là vấn đề toàn vẹn lãnh thổ và sự an toàn của các hành lang giao thương trên biển , chẳng hạn như eo biển Malacca và Lombok thì những vụ cướp bóc, đột nhập của TQ ngay bên trong và  lân cận lãnh hải Indonesia đang làm cho cuộc sống của quốc gia này càng thêm khó khăn. Như Nhật bản và Việt Nam đã trải nghiệm , sự đột nhập và cướp bóc của TQ sẽ nhanh chóng xoay chuyển thành thái độ ép buộc và đe dọa.
Trước khi điều đó xảy ra,  Washington và Jakarta cần phải lên kế hoạch để làm sao cơ quan tình báo Indonesia có một bức tranh chính xác hơn về vùng biển và vùng trời của mình. Từ đó mới có thể tổ chức bảo vệ hải phận bằng tàu khu trục,  tàu hộ tống và các lực lượng tấn công đường biển khác. Indonesia có đầy đủ tiềm năng để trở thành một thế lực xứng tầm nhất Đông Nam Á , tuy nhiên những thói quen cũ rất khó mất đi.
Mặc dù chính quyền Obama đã hứa hẹn dỡ bỏ cấm vận vũ khí đối với Jakarta nhưng quá trình này vẫn diễn ra với những bước tiến như sên bò. Do hệ thống hộ trợ an ninh trục trặc của Mỹ mà cho tới giờ Indonesia vẫn chưa thể có được các phương tiện để lập cầu hàng không - một thứ rất cấn thiết cho đất nước bao gồm tới 17.000 hòn đảo. Điều này đã khiến cho chính sách hỗ trợ an ninh và công nghiệp quốc phòng của Mỹ bị mắc kẹt trong trạng thái của thời dĩ vãng.
CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG VÀ HỖ TRỢ AN NINH
Để Hoa Kỳ tiếp tục dẫn đầu , điều cần phải làm là thay đổi chính sách phát triển ngành công nghiệp  và công nghệ phục vụ quốc phòng. Những nhiệm vụ chung sẽ được thực hiện tốt hơn nếu như các nước đồng minh có những năng lực tương đương và được hỗ trợ bởi những hình ảnh hướng dẫn vận hành thống nhất. Hoa Kỳ có khả năng trợ giúp to lớn trong cả hai lĩnh vực, tuy nhiên để thành công việc đầu tiên phải làm là đổi mới cơ bản chính sách.
Ngày nay, các đối thủ (hoặc kẻ thù) có thể tìm kiếm được hầu như mọi loại công nghệ mà chúng muốn, do đó tính cân bằng rủi ro trong quản lý xuất khẩu đã thay đổi tận gốc rễ. Sẽ rủi ro hơn không phải là vì không bán F- 22s cho Nhật hay F- 16s cho Đài Loan và do không có một liên minh rộng rãi cho chương trình C4ISR. Trong môi trường mới hôm nay, điều giả định về mua bán vũ khí luôn nghiêng về câu " YES' (có- ND) thay cho câu " NO" (không- ND ) một cách thuyết phục.
Chính phủ Mỹ cũng cần sẵn sàng tiếp nhận và bán cho các nước đồng minh những phương tiện  phù hợp với khả năng sử dụng và nhu cầu của họ. Ví dụ như chương trình trang bị chiến hạm vùng duyên hải cần phải tách ra từng phần cho phù hợp với từng quốc gia đồng minh Châu Á. Các chiến hạm phải nhỏ hơn, ít "mạ vàng" hơn và có khả năng linh hoạt hơn.
Hoa Kỳ cũng nên xem xét lại quyết định từ bỏ hoàn toàn  việc sản xuất tàu ngầm chạy Diesel , đặc biệt là khi tất cả các đồng minh đều đang sử dụng chúng và đội tàu ngầm chạy Diesel của TQ vẫn là một mối rủi ro to lớn đối với lực lượng hải quân Mỹ ở vùng Thái Bình Dương. Từ bỏ loại chiến đấu cơ cất cánh ,hạ cánh mà chỉ  cần đường băng ngắn F-35 cũng là một điều không khôn ngoan và thiếu thận trọng. Ở khu vực Châu Á nơi mà hỏa lực tên lửa của TQ có thể cắt ngang tầm cất cánh-hạ cánh thì rõ ràng cần phải có những phương tiện khác nữa. Hiện nay đang có nhu cầu rất lớn đối với các công nghệ do thám mới và tên lửa phòng thủ, từ máy bay do thám không người lái tới các loại vũ khí năng lượng cao.
Á Châu là một trong những thị trường vũ khí lớn nhất thế giới và cũng là nơi Hoa Kỳ có lợi ích chiến lược khi ở vị trí chiếm ưu thế vượt trội. Không có thế lực nào trong khu vực Châu Á - Thái bình dương có lợi khi nước Nga vượt trội hơn Hoa Kỳ về bán vũ khí. Điều này dễ hiểu vì nó không thúc đẩy các hoạt động tác chiến của liên minh hoặc củng cố khả năng tự vệ trong khu vực.
Quá trình hiện đại hóa quân đội TQ  cho thấy chiến lược quân sự của Hoa Kỳ sau Thế chiến II ở Châu Á nay đã lỗi thời. Chiến lược đó nhìn nhận các đồng minh như những đại diện của phe thiểu số, ngoại trừ Australia. Trong quá khứ Hoa Kỳ chỉ cần các đối tác chủ yếu về căn cứ đóng quân mà không phải là một bộ phận gắn kết hữu cơ của một liên minh. Tuy vậy, Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn là những ví dụ  thành công cho quan điểm truyền thống của Mỹ. Các quốc gia đó nay đã trở thành những thế lực mạnh có đủ khả năng độc lập tự bảo vệ mình và đóng góp cho an ninh khu vực. Cả hai quốc gia đó cần có sức mạnh và tư duy mới để có thể hành động độc lập về vấn đề phòng thủ của mình trong khi vẫn tận dụng được sự bảo trợ mang tính nền tảng của Hoa Kỳ.
Sêul và Tokyo do đó cần hình thành một liên minh 3 bên với Washington đóng vai trò như viên gạch làm nền móng cho mạng lưới an ninh Á Châu mới. Nên nhớ lại rằng Pháp và Anh đã tiếp nhận Đức vào NATO  chỉ có vài năm sau khi chủ nghĩa phát xít  bị đánh bại. Nước Nhật quân phiệt, đế quốc đã lùi vào dĩ vãng nhiều thập kỷ nên chắc chắn là Nam Hàn có thể vứt bỏ những nghi kỵ về người hàng xóm của mình và giúp Nhật tham dự vào hệ thống đồng minh Châu Á. Một khi Hàn Quốc đi theo hướng đó thì các quốc gia đồng minh Á Châu khác sẽ noi theo.
Tất nhiên sẽ có nhiều cản trở khi hình thành một liên minh vừa mang tính độc lập lại vừa mang tính  gắn kết giữa các thành viên. Napoleon đã từng nói :" người lính cần phải cùng nhau ăn súp đủ lâu trước khi họ có thể cùng nhau chiến đấu ". Nói như vậy để thấy các quốc gia đồng minh phải cùng xây dựng những thói quen của sự hợp tác, khắc phục những sự nghi kỵ và tập trung ý chí để vượt qua sự chống đối của TQ (có lẽ  yêu cầu cuối này cần phải áp dụng nhiều nhất cho chính Washington). Các nhà lãnh đạo của Hoa kỳ cần thay đổi những giả định đã lỗi thời của mình về việc cần sản xuất phương tiện quân sự nào, mua và bán cái gì cho đồng minh. Sách lược quân sự của Mỹ cần phải được điều chỉnh. Quá trình hiện đại hóa quân đội của TQ đang cho thấy một điều là tất cả chúng ta sẽ gặp nhiều rủi ro hơn nếu những lợi ích đáng kể của trật tự hình thành sau thế chiến II vẫn được bảo lưu.
Có lẽ trở ngại lớn nhất lại là chính việc chính quyền Hoa Kỳ đã bị xúi giục rút bớt quân ở nước ngoài về trong khi TQ lại tăng cường sự hiện diện. Không có gì lại có thể làm thương tổn an ninh Châu Á hơn thế. Các đồng minh sẽ bị xúi giục trang bị vũ khí hạt nhân và Mỹ sẽ khó khăn hơn khi muốn tiếp cận khu vực Châu Á trong những giai đoạn có  khủng hoảng xảy ra. Và, nếu như quá tự tin vào chiến lược tấn công tầm xa thì Washington sẽ tự thấy bị bó tay trong trường hợp TQ tấn công hạn chế mang tính chất "phẫu thuật".
Đúng ra, Mỹ cần tiếp tục cam kết và các lực lượng Hoa Kỳ vẫn phải ở nguyên vị trí như họ đã làm ở Châu Âu trong thời kỳ chiến tranh lạnh, bất chấp chiến lược không tiếp cận gần nhưng với những đồng minh có năng lực hơn và khả năng phòng vệ mạnh mẽ hơn.
Chính sách của Washington từ thời chính quyền Nixon đã chào đón Bắc Kinh tham gia vào hệ thống quốc tế. Điều đáng buồn là Bắc kinh nhận lời mời, nhưng ngay lập tức đã tham gia vào một cuộc chạy đua quân sự với Hoa kỳ (thời gian đầu còn kín đáo theo lối "ẩn mình chờ thời" như binh pháp Tôn Tử vẫn dạy - ND).
Hành động này rõ ràng đã phá hoại ngầm hệ thống an ninh hình thành sau thế chiến II mà chính TQ đã được hưởng lợi rất nhiều. Cạnh tranh hay chạy đua quân sự không nên dẫn tới xung đột và ưu thế lớn nhất của Washington chính là tập hợp được các nước đồng minh có năng lực đáng kể. Giờ đây là lúc cần phải giúp đỡ họ trở nên mạnh mẽ hơn như một tổng thể gắn kết chứ không phải là tổng của những phần rời rạc.
--------------------
Tài liệu tham khảo:
"1Blair, "Military Power Projection in Asia", in Ashley J. Tellis, Mercy Kuo and Andrew Marble, eds.,Strategic Asia 2008: Challenges and Choices (National Bureau of Asian Research, September 2008).2See Mark Stokes and Tiffany Ma, "Second Artillery Anti-Ship Ballistic Missile Brigade Facilities under Construction in Guangdong?" Asia Eye, Project 2049, August 3, 2010.
  • TS. Phạm Gia Minh dịch từ American Interests" số tháng 5-6 /2011 


Nguồnhttp://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-06-28-sau-nguyen-tac-gan-ket-cua-dong-minh-

Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011

Những thông số cơ bản về tàu ngầm và tên lửa tàu ngầm của Trung Quốc

(GDVN) - Theo ước tính, trong biên chế của Hải quân Trung Quốc hiện nay đang có khoảng 13 chiếc tàu ngầm (tính cả những chiếc vừa hoàn thành trong năm 2010), trong đó có 5 chiếc tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo (1 chiếc lớp  Hạ, 3-4 chiếc lớp Tấn) và 8 chiếc tàu ngầm nguyên tử mang đầu đạn phi hạt nhân (4 chiếc lớp Hán và 3-4 chiếc lớp Thượng).
Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa chiến lược lớp Hạ
Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa chiến lược lớp Hạ thuộc dự án
091.
 
Những chiếc tàu ngầm nguyên tử đa năng đầu tiên của Hải quân Trung Quốc là tàu ngầm lớp Hán thuộc dự án 091 đã bắt đầu chế tạo vào cuối những năm 60 của thế kỷ trước theo phiên bản tàu ngầm nguyên tử lớp Rubis của Pháp.

Chiếc tàu ngầm đầu tiên lớp này mang số hiệu 401 đã được xây dựng trong khoảng 7 năm nhưng mãi đến những năm 80 mới có thể bắt đầu thử nghiệm do gặp phải một số lỗi kỹ thuật.
Bốn chiếc tàu ngầm tiếp theo lớp này đã được cung cấp cho Hải quân Trung Quốc vào cuối những năm 90. Chúng được trang bị động cơ điện hạt nhân, vỏ thân cứng có chiều dài 8 m, được trang bị tên lửa hành trình đối hạm YJ-1 bắn trong trạng thái nổi nên khó giữ được bí mật khi hoạt động tác chiến.

Trung Quốc dự kiến trong thời gian tới sẽ sẽ nâng cấp loại tàu ngầm này để nó có thể trang bị tên lửa hành trình đối hạm YJ-8Q bắn trong trạng thái chìm dưới nước để tránh bộc lộ khi tác chiến. 2 trong số 4 chiếc tàu ngầm loại này đã được đại tu vào năm 1998-2000 để làm nhiệm vụ trinh sát kỹ thuật vô tuyến.

Chiếc tàu ngầm đầu tiên mang số hiệu 401 đã được đưa ra khỏi biên chế vào năm 2005. Trên phiên bản tàu ngầm nguyên tử lớp Hán Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu, phát triển tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo lớp Hạ dự án 092 với sự giúp đỡ kỹ thuật của các chuyên gia Pháp vào năm 1978, đến năm 1981 bắt đầu hạ thủy và chuyển giao cho Hải quân vào năm 1987.
alt
 
 
Tàu ngầm loại này được trang bị 12 ống phóng tên lửa đạn đạo dạng thẳng đứng sử dụng tên lửa đạn đạo loại JL-1 (CSS-N-3 hay còn gọi là DF-21) hai lớp nhiên liệu cứng và đầu đạn hạt nhân công suất 350 kt. Trung Quốc đã bắt tay vào chế tạo tên lửa đạn đạo JL-1 vào giữa những năm 60 của thế kỷ trước, thử nghiệm đầu tiên vào năm 1970 trên Hoàng Hải, tiếp đó vào năm 1982 trên tàu ngầm nguyên tử lớp “Golf” và năm 1985-1987 trên tàu ngầm nguyên tử lớp Hạ.

Tuy nhiên, do vẫn chưa đạt được một số tính năng kỹ-chiến thuật như trong thiết kế nên tàu ngầm nguyên tử lớp Hạ mang tên lửa đạn đạo JL-1 vẫn chưa chính thức đưa vào biên chế tác chiến thường xuyên, đồng thời cũng chưa một lần ra khỏi lãnh hải của Trung Quốc. Do vậy, từ năm 1995 Trung Quốc đã bắt đầu triển khai dự án nghiên cứu phiên bản tên lửa hành trình JL-2 (DF-31 hay Đông phong 31) có đặc tính bay tốt hơn và tầm bắn xa hơn so với JL-1.

Mặc dù trong suốt giai đoạn từ 1995-1998, Trung Quốc đã tiến hành sửa chữa và nâng cấp tàu ngầm nguyên tử lớp Hạ, song vẫn không thể trang bị được loại tên lửa hành trình mới DF-31do chưa tương xứng. Do vậy, Trung Quốc đành phải chuyển trang bị tên lửa đạn đạo DF-31 cho tàu ngầm nguyên tử thế hệ mới lớp Tấn dự án 094.

Trung Quốc bắt đầu triển khai nghiên cứu các dự án tàu ngầm nguyên tử mới cho Hải quân nước này vào năm 2000. Tàu ngầm nguyên tử đa năng thế hệ mới lớp Thượng dự án 093 là phiên bản phát triển từ dự án 671RTM của Nga. Tàu ngầm loại này đã hạ thủy vào năm 2002, thử nghiệm đến năm 2005 và chính thức chuyển giao cho Hải quân vào cuối năm 2006. Chiếc tàu ngầm thứ hai lớp này đã được hạ thủy vào năm 2003 và đưa vào biên chế cho Hải quân Trung Quốc vào năm 2008.
Tàu ngầm nguyên tử lớp Tấn thuộc dự án
Tàu ngầm nguyên tử lớp Tấn thuộc dự án 094.
 
Trung Quốc dự kiến sẽ chế tạo khoảng 5 chiếc tàu ngầm loại này, trong đó 4 chiếc đã chuyển giao cho Hải quân, chiếc còn lại sẽ được chuyển giao nốt trong một vài năm tới. Tàu ngầm loại này được trang bị tên lửa hành trình đối hạm YJ-83, ngư lôi hạng nặng Yu-6 (tương tự như ngư lôi Mk-48 của Mỹ) và tên lửa hành trình trên biển để tấn công vào các mục tiêu trên bộ.

Với những loại vũ khí này, trong bất kỳ trường hợp nào cũng có thể tác chiến được với tàu nổi của đối phương hoạt động cách xa bờ biển của Trung Quốc, trong đó có cả cụm tàu sân bay tấn công hoạt động trên đại dương. Về độ ồn, tàu ngầm nguyên tử lớp Thượng có thể sánh ngang cùng các tàu ngầm thế hệ mới lớp Los Angeles của Mỹ.

Trên cơ sở tàu ngầm nguyên tử lớp Thượng, Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu, phát triển dự án tàu ngầm nguyên tử thế hệ mới lớp Tấn dự án 094 có thêm khoang chứa tên lửa riêng biệt, trang bị 12 thiết bị phóng tên lửa dạng thẳng đứng dùng cho tên lửa đạn đạo DF-31 mang nhiên liệu cứng 3 lớp, đầu đạn phóng có trọng lượng 40 tấn, tầm bắn xa 8-10.000 km.

Bên cạnh đó, tên lửa DF-31 còn có khả năng mang từ 1 đầu đạn tác chiến có công suất 1Mt cho tới 3 đầu đạn tác chiến tự tách công suất 90 kt. Năm 2004 Trung Quốc đã bắt đầu thử nghiệm loại tên lửa này, song chưa thành công. Chiếc tàu ngầm nguyên tử đầu tiên trong 5 chiếc lớp Tấn đã được hạ thủy vào tháng 7/2004 và kết thúc quá trình thử nghiệm trên biển vào cuối năm 2006, song mãi đến năm 2008-2009 mới chính thức đưa vào thực thi nhiệm vụ tuần tiễu trên biển do phải khắc phục một số sự cố kỹ thuật.
alt
 
 
Chiếc tàu ngầm thứ hai loại này đã được hạ thủy vào năm 2006 và đưa vào biên chế tác chiến vào năm 2008-2009, hai chiếc tiếp theo đã được chuyển giao cho Hải quân vào cuối năm 2010, đầu năm 2011, chiếc cuối cùng sẽ được chuyển giao nốt trong một vài năm tới. Bên cạnh đó, hiện nay, Trung Quốc cũng đang bắt đầu triển khai phát triển dự án tàu ngầm nguyên tử thế hệ mới thuộc dự án 095.

Một số đặc tính kỹ-chiến thuật cơ bản của tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc

Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo lớp Hạ dự án 092

Năm đóng: 1987

Lượng giãn nước (tấn): 6.900 khi nổi và 8.000 khi hoạt động ngầm dưới mặt nước

Các kích cỡ (m): dài 120, rộng 10, cao 8

Tốc độ hành trình (hải lý): khi nổi 13, khi chìm 22

Độ sâu hoạt động (m): thông thường 200, tối đa 300

Biên chế kíp lái (người): 140 thủy thủ, trong đó có 40 sỹ quan

Vũ khí: 12 thiết bị phóng tên lửa đạn đạo JL-1 (CSS-N-3), 6 thiết bị phóng ngư lôi cỡ 533 mm mang 12 quả ngư lôi Yu-6

Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo lớp Tấn dự án 094

Năm đóng: 2006-2010

Lượng giãn nước (tấn): 8.100 khi nổi và 9.000 khi hoạt động ngầm dưới mặt nước

Các kích cỡ (m): dài 137, rộng 11,8, cao 7,5

Tốc độ hành trình (hải lý): khi nổi 15, khi chìm 28

Độ sâu hoạt động (m): thông thường 320, tối đa 400

Biên chế kíp lái (người): 140 thủy thủ

Vũ khí: 12 thiết bị phóng tên lửa đạn đạo Đông phong 31, 6 thiết bị phóng ngư lôi cỡ 533 mm mang 12 quả ngư lôi Yu-6
Tên lửa đạn đạo JL-1 hay còn gọi là DF-21 (Đông Phong - 21).
Tên lửa đạn đạo JL-1 hay còn gọi là DF-21 (Đông Phong - 21).
 
Tàu ngầm nguyên tử lớp Hán dự án 091

Năm đóng: 1980-1990

Lượng giãn nước (tấn): 4.800 khi nổi và 5.850 khi hoạt động ngầm dưới mặt nước

Các kích cỡ (m): dài 108, rộng 10, cao 7,5

Tốc độ hành trình (hải lý): khi nổi 12, khi chìm 25

Độ sâu hoạt động (m): thông thường 200, tối đa 300

Biên chế kíp lái (người): 75 thủy thủ, trong đó có 20 sỹ quan

Vũ khí: 6 thiết bị phóng ngư lôi cỡ 533 mm mang 6 tên lửa đối hạm YJ-8Q, 14 ngư lôi Yu-3 và Yu4, 36 thuỷ lôi

Tàu ngầm nguyên tử lớp Thượng dự án 093

Năm đóng: 2006-2010

Lượng giãn nước (tấn): 5.000 khi nổi và 6.500 khi hoạt động ngầm dưới mặt nước

Các kích cỡ (m): dài 107, rộng 11, cao 7,5

Tốc độ hành trình (hải lý): khi nổi 15, khi chìm 30

Độ sâu hoạt động (m): thông thường 350, tối đa 400

Biên chế kíp lái (người): 100 thủy thủ

Vũ khí: 6 thiết bị phóng ngư lôi cỡ 533 mm mang tên lửa đối hạm YJ-8Q và ngư lôi Yu-6
Tên lửa đạn đạo chiến lược JL-2 hay còn gọi là DF-31 (Đông Phong - 31).
Tên lửa đạn đạo chiến lược JL-2 hay còn gọi là DF-31
(Đông Phong - 31).
 
Một số đặc tính kỹ-chiến thuật của tên lửa đạn đạo trang bị trên tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc

Tên lửa đạn đạo JL-1 (DF-21)

Trọng lượng phóng (tấn): 14,7

Chiều dài tên lửa (m): 10,7  

Đường kính thân (m): 1,4

Tầm bắn xa tối đa (km): 2.450

Loại động cơ: RDTT

Số lớp nhiên liệu: 2

Số đầu đạn tác chiến: 1

Công suất mỗi đầu đạn (Kt): 350

Sai số tiêu diệt mục tiêu (km): 1,3

Tên lửa đạn đạo JL-2 (DF-31)

Trọng lượng phóng (tấn): 40

Chiều dài tên lửa (m): 10,5  

Đường kính thân (m): 2,1

Tầm bắn xa tối đa (km): 8.000

Loại động cơ: RDTT

Số lớp nhiên liệu: 3

Số đầu đạn tác chiến: 1-3

Công suất mỗi đầu đạn (Kt): 1.000

Sai số tiêu diệt mục tiêu (km): 0,7


Nguồnhttp://giaoduc.net.vn/kham-pha/81/4278.html

Khả năng ứng dụng tác chiến của tàu sân bay Mỹ

(GDVN) Trong biên chế của mỗi cụm tàu sân bay xung kích, ngoài tàu sân bay, tuần dương hạm còn có 2 chiếc khu trục hạm và chiến hạm mang tên lửa có điều khiển.
t
Mỗi cụm tàu sân bay của Mỹ bao gồm có tàu sân bay, tuần dương
hạm, khu trục hạm và chiến hạm mang tên lửa.
 
Lực lượng tàu sân bay tấn công khi tham gia tác chiến thường tổ chức thành đội hình cụm hoặc liên đoàn tàu sân bay tấn công trong biên chế của các Hạm đội triển khai hoạt động tại các khu vực nhạy cảm nhất trên đại dương thế giới (Vịnh Ba Tư, Biển Ả Rập, Địa Trung Hải và khu vực phía Tây Thái Bình Dương).
Khi triển khai tác chiến trong đội hình của các Hạm đội 5,6 và 7 hoặc tiến hành các cuộc tập trận lớn trong biên chế của các Hạm đội 2,3 và 4, trên cơ sở liên đội tàu của lực lượng không quân hải quân sẽ thành lập ra các cụm tàu sân bay xung kích tác chiến nhanh.
Trong biên chế của mỗi cụm tàu sân bay xung kích ngoài tàu sân bay, tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển còn có 2 chiếc khu trục hạm và chiến hạm mang tên lửa có điều khiển, đồng thời cả tàu ngầm nguyên tử đa năng (khi cần thiết) và đội tàu tiếp tế, bảo đảm.
Do phải thường xuyên duy trì đại tu 1 trong số 11 tàu sân bay nên mỗi khi ra khơi, tàu sân bay sẽ được tiếp nhận 1 liên đội không quân tương ứng (1, 2, 3, 5, 7, 8, 9, 11, 14 và 17).
t
Lực lượng tàu sân bay tấn công khi tham gia tác chiến thường tổ
chức thành đội hình cụm hoặc liên đoàn tàu sân bay tấn công. 
 
Hiện nay, lực lượng không quân của Hạm đội Đại Tây Dương đang được triển khai tại căn cứ hải quân Osheana (bang Virginia), của Hạm đội Thái Bình Dương ở Lemoore (bang California) và liên đội không quân số 5 đang được triển khai tại căn cứ hải quân Atsugi (Nhật Bản).
Mỹ cho rằng, trong tương lai gần, các mối nguy cơ tiềm năng đe dọa tới lợi ích quốc gia của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ ngày càng gia tăng, đặc biệt là từ phía Trung Quốc. Do vậy, Mỹ sẽ cần phải tăng cường sự hiện diện của mình ở khu vực này.
Sự thật, trong năm 2010 Mỹ đã thành lập thêm 1 cụm tàu sân bay tấn công (nâng tổng số cụm tàu sân bay tấn công lên 6 cụm) trong đội hình lực lượng không quân Hạm đội Thái Bình Dương sau khi di chuyển các tàu sân bay nguyên tử đa năng George Washington và Carl Vinson từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương.
Tuy nhiên, kế hoạch hoàn thiện lực lượng tàu sân bay tấn công của Hải quân Mỹ đã vấp phải sự chỉ trích mạnh mẽ từ phía các nhà phân tích quân sự Mỹ. Họ cho rằng, việc duy trì thường xuyên trong biên chế tác chiến của Hải quân 11 tàu sân bay nguyên tử cùng số lượng máy bay chiến đấu, máy bay trực thăng tương ứng sẽ rất tốn kém và làm thâm hụt tài chính của các chương trình quân sự ưu tiên khác, đặc biệt là dự án chế tạo tàu ngầm nguyên tử.
t
Một số hoạt động đặc trưng trên tàu sân bay Mỹ.
 
Do vậy, Hải quân Mỹ sẽ chỉ cần duy trì tác chiến thường xuyên từ 7-8 tàu sân bay thế hệ mới nhất cùng các loại máy bay chiến đấu hiện đại, trang bị vũ khí công nghệ cao. Với số lượng tàu sân bay này cũng đủ khả năng phối hợp hành động cùng lực lượng không quân chiến lược và chiến thuật để thực hiện các nhiệm vụ tác chiến đặt ra cho lực lượng Hải quân.
Cơ cấu tổ chức, biên chế và triển khai tàu sân bay của Mỹ (theo số liệu từ tháng 1/2010)
Lực lượng không quân (liên đội tàu) Hạm đội Đại Tây Dương
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 2

Số lượng tàu: 6

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-70  (Norfolk - Virginia); tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-77; Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-66 (Mayport - Florida); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-68 (Norfolk); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-72; Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-61.
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 8

Số lượng tàu: 3

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-69 (Norfolk); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-60; Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-64 (Mayport – Florida).
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 10
Số lượng tàu: 3
Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-75 (Norfolk); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-55; Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-58.
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 12

Số lượng tàu: 3

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-65 (Norfolk); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-56; Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-69 (Mayport - Floriada).
alt
Mỹ coi an ninh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương là đặc biệt
quan trọng.
 
Lực lượng không quân (liên đội tàu) Hạm đội Thái Bình Dương
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 1

Số lượng tàu: 2

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-70 (Căn cứ hải quân San Diego - California); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-52.
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 3

Số lượng tàu: 3

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-74 (căn cứ hải quân Kitsap - Washington); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-57 (Căn cứ hải quân San Diego); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-54.
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 5

Số lượng tàu: 3

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-73 (Yukoshuka - Nhật Bản); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-63; Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-67.
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 7

Số lượng tàu: 3

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-76 (Coronado - California); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-62 (căn cứ hải quân San Diego); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-71.
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 7

Số lượng tàu: 3

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-76 (Coronado - California); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-62 (căn cứ hải quân San Diego); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-71.
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 9

Số lượng tàu: 2

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-72 (Everett - Washington); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-53 (căn cứ hải quân San Diego).
Đơn vị: Cụm tàu sân bay tấn công số 11

Số lượng tàu: 2

Tên tàu, số hiệu và căn cứ triển khai: Tàu sân bay nguyên tử đa năng CVN-68 (căn cứ hải quân San Diego); Tuần dương hạm mang tên lửa có điều khiển CG-59.
alt
 
 
Thành phần, cơ cấu tổ chức và triển khai của các đơn vị không quân trên tàu sân bay của Hải quân Mỹ
Lực lượng không quân Hạm đội Đại Tây Dương
Liên đội máy bay tiêm-cường kích triển khai tại căn cứ Osheana bang Virginia
Số lượng phi đội (máy bay, máy bay trực thăng) bao gồm có 18 (262) đơn vị, trong đó có 10 phi đội (140 F/A-18E/F) và 8 phi đội (122 F/A-18A/B/C/D).
Liên đội không quân chỉ huy tác chiến và bảo đảm hậu cần triển khai tại căn cứ Norfolk (Virginia) và Osheana.
Số lượng phi đội (máy bay, máy bay trực thăng) bao gồm có 7 (45) đơn vị, trong đó có 6 (32 E-2C) phi đội và 1 (13 C-2A).
Liên đội trực thăng tấn công triển khai tại căn cứ Mayport (Florida)
Số lượng phi đội (máy bay, máy bay trực thăng) bao gồm có 5 (66 SH-60B) phi đội.
Liên đội trực thăng tác chiến triển khai tại căn cứ Norfolk, Jacksonville (Florida)
Số lượng phi đội (máy bay, máy bay trực thăng) bao gồm có 12 (115) phi đội, trong đó có 5 (45 SH-60F/HH-60H) phi đội, 5 (45 MH-60S) phi đội, 1 (11 MH-53E) phi đội và 1 (14 MH-53E) phi đội.
alt
 
 
Lực lượng không quân Hạm đội Thái Bình Dương
Liên đội tiêm – cường kích triển khai tại căn cứ Lemur (California)
Số lượng phi đội (máy bay, máy bay trực thăng) bao gồm có 20 (321) đơn vị, trong đó có 10 (140 F/A-18E/F) phi đội và 10 (181 F/A-18A/B/C/D).
Liên đội máy bay tác chiến điện tử triển khai tại căn cứ Whidbey Island (Washington)
Số lượng phi đội (máy bay, máy bay trực thăng) bao gồm có 14 (69 EA-6B/EA-18G) phi đội.
Liên đội không quân chỉ huy và bảo đảm hậu cần triển khai tại căn cứ Point Mugu (California) và North Island
Số lượng phi đội (máy bay, máy bay trực thăng) bao gồm có 6 (46) phi đội, trong đó có 5 (26 E-2CO) phi đội và 1 (20 C-2A) phi đội.
Liên đội trực thăng tấn công triển khai tại căn cứ North Island với biên chế tác chiến 7 (90 máy bay, máy bay trực thăng) phi đội, trong đó có 6 (78 SH-60B) phi đội và 1 (12 MH-60R) phi đội.
Liên đội trực thăng tác chiến triển khai tại căn cứ North Island và Korpus-Kristri (Texas) với biên chế tác chiến bao gồm có 11 phi đội (115 máy bay trực thăng), trong đó có 5 (50 SH-60F, HH-60H) phi đội, 5 (51 MH-60S) phi đội và 1 (14 MH-53E) phi đội.


Nguồnhttp://giaoduc.net.vn/kham-pha/81-vu-khi/4513-kh-nng-ng-dng-tac-chin-ca-tau-san-bay-m.html

Thượng viện Mỹ đồng lòng “phản đối” việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc trên biển Đông


Washington, DC – Hôm nay, Thượng viện Mỹ nhất trí thông qua một nghị quyết phản đối việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc trên biển Đông và kêu gọi một giải pháp đa phương, hòa bình về các tranh chấp lãnh hải ở Đông Nam Á. Thượng nghị sĩ Jim Webb (đảng Dân chủ – bang Virginia), Chủ tịch Tiểu ban Đông Á – Thái Bình Dương, thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ, giới thiệu nghị quyết ngày 13 tháng 6 cùng với thành viên tiểu ban, ông James Inhofe (đảng Cộng hòa – bang Oklahoma). Thượng nghị sĩ Joseph Lieberman (đảng Dân chủ – Connecticut) và Daniel Inouye (đảng Dân chủ – bang Hawaii) là những người đồng tài trợ ban đầu.
Ngày 9 tháng 6, ba tàu an ninh hàng hải của Trung Quốc đã chạy vào và phá hỏng cáp của một tàu thăm dò dầu khí Việt Nam, tàu Viking 2, trong khu vực 200 hải lý, thuộc thềm lục địa của Việt Nam và được luật pháp quốc tế công nhận trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Sự cố này theo sau các sự cố tương tự ngày 26 tháng 5, ở Việt Nam và tháng 3 ở Philippines, cũng như các sự cố trên biển hồi năm ngoái trên quần đảo Senkaku, quần đảo dưới sự quản lý hợp pháp của Nhật Bản. Sau khi quốc tế lên án sự cố ngày 9 tháng 6, Trung Quốc đã đưa một tàu an ninh biển lớn nhất đến biển Đông. Một số quốc gia khác trong khu vực cũng đã đưa các tàu quân sự đến khu vực.
Thượng nghị sĩ Webb đã nói: “Ngày càng có nhiều nước xung quanh biển Đông hiện đang bày tỏ mối quan ngại nghiêm trọng về sự đe dọa có hệ thống của Trung Quốc. Những nước này gồm có Việt Nam và Philippines, cũng như Singapore, là nước không có tranh chấp lãnh thổ. Đây là một diễn biến quan trọng trong việc cỗ vũ phương cách tiếp cận đa phương để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ một cách hòa bình, tôn trọng chủ quyền của tất cả các bên tranh chấp“.
Mỹ có lợi ích chiến lược rõ ràng trong việc thúc đẩy một phương pháp tiếp cận đa phương như thế, bảo đảm việc đi vào vùng biển quốc tế và vùng trời, và thúc đẩy việc tuân thủ luật pháp quốc tế“, Thượng nghị sĩ Webb cho biết.
Nghị quyết đã được thông qua tại Thượng viện hôm nay:
(1) tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ để giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh hải trên biển Đông, và cam kết tiếp tục các nỗ lực, tạo điều kiện cho một quá trình hòa bình, đa phương để giải quyết các tranh chấp này;
(2) phản đối việc sử dụng vũ lực của các tàu giám sát biển Trung Quốc trên biển Đông;
(3) kêu gọi tất cả các bên tranh chấp lãnh thổ kiềm chế, không đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để khẳng định các yêu sách lãnh thổ; và
(4) hỗ trợ việc tiếp tục các hoạt động của Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ để hỗ trợ quyền tự do đi lại trên vùng biển quốc tế và trên vùng trời ở biển Đông.
Thượng nghị sĩ Webb đã bày tỏ mối quan ngại về các vấn đề chủ quyền trong khu vực này hơn hơn mười lăm năm qua. Lần điều trần đầu tiên để trở thành chủ tịch Tiểu ban Đông Á và Thái Bình Dương, thuộc Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ về các vấn đề chủ quyền và tranh chấp lãnh hải ở châu Á vào tháng 7 năm 2009.
Thượng nghị sĩ Webb đã làm việc và đi khắp Đông Á và Đông Nam Á hơn bốn thập kỷ qua, là một sĩ quan Thủy quân Lục chiến, là người lên kế hoạch phòng thủ, một nhà báo, người viết tiểu thuyết, là viên chức cao cấp trong Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Hải quân, và là một nhà tư vấn kinh doanh. Trong chuyến đi gần đây nhất của ông đến khu vực hồi tháng 4 năm 2011, ông đã gặp các quan chức chính phủ, các lãnh đạo doanh nghiệp và các nhà ngoại giao Mỹ và các viên chỉ huy quân sự tại Nhật Bản, Nam Hàn, Việt Nam và Guam.
Nội dung của Nghị quyết Thượng viện 217 (S.Res.217) như sau:
Tiêu đề: Kêu gọi một giải pháp đa phương và hòa bình về các tranh chấp lãnh hải ở Đông Nam Á.
Xét rằng, vào ngày 9 tháng 6 năm 2011, 3 tàu từ Trung Quốc, trong đó có 1 tàu cá và 2 tàu an ninh biển, chạy vào và phá hỏng cáp của một tàu thăm dò Việt Nam, tàu VIKING 2;
Xét rằng, việc sử dụng vũ lực xảy ra trong vòng 200 hải lý của Việt Nam, một khu vực được công nhận là vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam;
Xét rằng, ngày 26 tháng 5 năm 2011, một tàu an ninh hàng hải của Trung Quốc đã cắt cáp một tàu thăm dò khác của Việt Nam, tàu BÌNH MINH, trên biển Đông, trong vùng biển gần vịnh Cam Ranh;
Xét rằng, hồi tháng 3 năm 2011, Chính phủ Philippines đã báo cáo, các tàu tuần tra của Trung Quốc đã cố đâm vào một trong các tàu giám sát của Philippines;
Xét rằng, những sự cố này đã xảy ra trong lãnh hải tranh chấp trên biển Đông, bao gồm cả quần đảo Trường Sa, gồm 21 đảo và đảo san hô, 50 đảo san hô ngập nước, và 28 rạn san hô ngập nước một phần, trên diện tích 340.000 dặm vuông, và quần đảo Hoàng Sa, một nhóm đảo nhỏ hơn nằm ở phía Nam của đảo Hải Nam, Trung Quốc;
Xét rằng, Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Đài Loan, Malaysia, và Brunei có các tuyên bố tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa, và Trung Quốc và Việt Nam có tranh chấp trên quần đảo Hoàng Sa;
Xét rằng, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố hầu hết 648.000 dặm vuông trên biển Đông, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ;
Xét rằng, vào năm 2002, Hiệp hội các nước Đông Nam Á và Trung Quốc đã ký Tuyên bố về quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông;

Xét rằng, tuyên bố đó cam kết tất cả các bên tranh chấp lãnh thổ “tái khẳng định sự tôn trọng của họ và cam kết tự do lưu thông trong vùng biển và trên vùng trời ở Biển Đông” và “giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và tài phán bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực“;
Xét rằng, biển Đông có các đường vận chuyển thương mại quan trọng và các điểm đi vào Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương;
Xét rằng, mặc dù không phải là một bên trong các tranh chấp này, Hoa Kỳ có lợi ích an ninh và kinh tế quốc gia trong việc bảo đảm rằng, không bên nào đơn phương dùng vũ lực để khẳng định tuyên bố lãnh hải ở Đông Á;
Xét rằng, trong tháng 9 năm 2010, Chính phủ Trung Quốc cũng cố tình gây nên một cuộc tranh cãi trong vùng biển tại đảo Senkaku, lãnh thổ dưới sự quản lý hợp pháp của Nhật Bản trên biển Hoa Đông;
Xét rằng, các hành động của Chính phủ Trung Quốc trên biển Đông ảnh hưởng đến các tàu hàng hải và quân sự của Hoa Kỳ, quá cảnh qua vùng biển và vùng trời quốc tế, gồm cả sự va chạm của một máy bay chiến đấu của Chính phủ Trung Quốc với một máy bay giám sát của Hoa Kỳ năm 2001, sự sách nhiễu tàu USNS Impeccable hồi tháng 3 năm 2009, và vụ va chạm của một tàu ngầm Trung Quốc với cáp phát hiện tàu ngầm của tàu USS John McCain hồi tháng 6 năm 2009;
Xét rằng, cũng như mọi quốc gia, Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia về tự do đi lại trên biển và tự do đi vào vùng biển chung ở Châu Á;
Xét rằng, Chính phủ Hoa Kỳ đã bày tỏ sự ủng hộ đối với Tuyên bố của Hiệp hội các nước Đông Nam Á và Trung Quốc hồi năm 2002 về Quy tắc ứng xử của các bên trên biển Đông, và hỗ trợ quá trình hợp tác ngoại giao của tất cả các bên tranh chấp, để giải quyết các tranh chấp lãnh hải khác nhau mà không cần cưỡng chế;
Xét rằng, Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia về tự do hàng hải và trong phát triển kinh tế và thương mại không bị cản trở;
Xét rằng, ngày 11 tháng 10 năm 2010, Bộ trưởng [Quốc phòng Hoa Kỳ, ông Robert] Gates xác nhận “Hoa Kỳ luôn luôn thực hiện quyền của chúng tôi và ủng hộ quyền của các nước khác để quá cảnh qua, và hoạt động trong vùng biển quốc tế“;
Xét rằng, ngày 3 tháng 6 năm 2011, tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Gates tuyên bố rằng “An ninh hàng hải vẫn là một vấn đề đặc biệt quan trọng trong khu vực, với các câu hỏi về yêu sách lãnh thổ và sử dụng thích hợp lãnh hải, liên quan đến các thách thức đang diễn ra để ổn định và thịnh vượng trong khu vực“;

Xét rằng, ngày 4 tháng 6 năm 2011, tại Đối thoại Shangri-La, Lương Quang Liệt, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc, nói: “Trung Quốc cam kết duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông“;
Xét rằng, vào ngày 11 tháng 6 năm 2011, Chính phủ Việt Nam đã tổ chức một cuộc tập trận quân sự có bắn đạn thật trên đảo không có người ở, tại Hòn Ông, 25 dặm ngoài khơi bờ biển Việt Nam trên Biển Đông, và
Xét rằng, vào ngày 11 tháng 6 năm 2011, Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, tuyên bố, “[Trung Quốc] sẽ không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực” để giải quyết tranh chấp lãnh thổ: do đó, bây giờ là
Đã quyết định, rằng, Thượng viện:
(1) tái khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Kỳ để giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh hải trên biển Đông, và cam kết tiếp tục các nỗ lực nhằm tạo điều kiện cho một quá trình hòa bình, đa phương để giải quyết các tranh chấp này;
(2) phản đối việc sử dụng vũ lực của các tàu hải quân và các tàu an ninh biển của Trung Quốc trên biển Đông;
(3) kêu gọi tất cả các bên tranh chấp lãnh thổ kiềm chế, không đe dọa vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để khẳng định các tuyên bố lãnh thổ; và
(4) hỗ trợ việc tiếp tục các hoạt động của Lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ, để hỗ trợ quyền tự do đi lại trên biển, trong vùng biển quốc tế và vùng trời trên biển Đông.


Nguồnwww.danchimviet.info/archives/37809