Thứ Hai, 24 tháng 2, 2020

Trận chiến giữa các tàu sân bay

Chúng tôi mới đăng các bài: “Cần bao nhiêu tên lửa, ngư lôi đánh chìm tàu sân bay? “và “Đánh chìm tàu sân bay: Vũ khí hạt nhân cũng khó nhằn”


Tran chien giua cac tau san bay

Những bài đăng trên (DVO, các ngày 19 và 20/2/2020),- hai bài trên đã nhận được tương đối nhiều ý kiến phản hồi từ độc giả.
Để cung cấp thêm một số thông tin giúp làm “dịu” một số ý kiến khá gay gắt và cũng tạo dịp để tranh luận tiếp, xin chọn và giới thiệu thêm (chúng tôi đã từng giới thiệu) một số trong loạt bài về chủ đề tàu sân bay của chuyên gia quân sự, Đại tá hải quân, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Pháo binh và Tên lửa Nga Konstantin Sivkov.
Bài đầu này tuy đăng đã hơi lâu (2017, khi tàu sân bay “Sơn Đông” Trung Quốc còn chưa hạ thủy), nhưng chủ yếu là bàn về các vấn đề lý thuyết nên, vẫn có thể tham khảo được. Sau đây là nội dung bài báo:

Đô đốc Kuznetsov“Liêu Ninh”, “Nimitz”: Ai, đáng giá bao nhiêu?
Nếu tính mức độ (tỷ lệ so sánh) giữa hiệu quả chiến đấu của tàu với những yêu cầu thực hiện nhiệm vụ (hiệu quả/chức năng- nôm na: khả năng thực hiện nhiệm vụ được giao-ND), tàu sân bay của chúng ta thua kém "người Mỹ" (tức “Nimitz”-ND) nếu tham chiến trong các cuộc xung đột cục bộ- khoảng 14%, còn trong một cuộc chiến quy mô lớn - khoảng 10%. Nhưng “ Kuznetsov” Nga sẽ vượt “Liêu Ninh” của Trung Quốc về các chỉ số tương tự lần lượt là 10% và 6%.
Các tàu sân bay- đó là lực lượng nòng cốt hiện nay của Hải quân Mỹ. Lẽ ra, tàu sân bay cũng đã phải chiếm một vị trí chủ đạo trong biên chế chiến đấu của Hải quân Liên Xô. Nhưng giấc mơ không thành.
Tuy nhiên, các tàu sân bay sẽ, và chỉ trong tương lai rất ngắn, khoảng từ 15 đến 20 năm nữa, trở thành lực lượng nòng cốt (nguyên văn- hạt nhân) của toàn bộ sức mạnh tàu nổi trong trang bị Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA).
Do vậy, so sánh các tàu sân bay là một nhiệm vụ quan trọng nhằm đánh giá khả năng chiến đấu của hải quân Mỹ- Nga- Trung nói chung.
Thêm nữa, chính các tàu sân bay là tấm gương phản ánh chân thực nhất những thành tựu vĩ đại nhất, trình độ tiên tiến nhất không chỉ của ngành đóng tàu, mà cả ngành chế tạo máy bay.
Chính vì thế mà một công trình phân tích so sánh (tàu sân bay) cũng sẽ cũng rất cần thiết nếu xét từ góc độ đánh giá trình độ công nghệ của mỗi quốc gia trong những lĩnh vực như vậy (đóng tàu và chế tạo máy bay-ND).
Cân nhắc
Phương pháp so sánh (các tàu sân bay) đã được những bạn đọc thường xuyên của báo (“Bình luận quân sự độc lập”) biết đến (qua bài “Trận chiến trên biển với một cái bóng: “Matxcova đối đầu với Ticonderoga” và các bài khác).
Công việc so sánh bắt đầu từ việc chọn ra những tàu cần so sánh với nhau. Một trong số đó, dĩ nhiên, chắc chắn phải là chiếc tàu sân bay duy nhất (nói chính xác hơn thì đó là tàu tuần dương hạng nặng mang máy bay) dự án 1143.5 “Đô đốc Hải quân Liên Xô Kuznhetsov”, hay đơn giản hơn cứ gọi là “Kuznhetsov” của chúng ta (Nga).
Mỹ đã, đang và vẫn sẽ là đối thủ cạnh tranh chính của chúng ta (Nga) trên các biển và các đại dương, vì vậy, sẽ hoàn toàn hợp lý nếu chúng ta chọn kiểu tàu sân bay chủ yếu của nước Mỹ, tức các tàu lớp “Nimitz”, để so sánh.
Đến đây, lẽ ra là có thể chốt danh sách, nhưng do mới xuất hiện một bối cảnh mới- hiện Trung Quốc cũng đang bắt đầu ráo riết chinh phục (chiếm đoạt) không gian biển và triển khai một cuộc đối đầu hải quân với Mỹ.
Vì vậy, cũng nên lấy “Liêu Ninh” của Trung Quốc, tức cũng chính là “Varyag” Xô Viết ngày xưa của chúng ta, làm đối tượng để so sánh.
Giai đoạn (công việc) tiếp theo là phân tích các nhiệm vụ mà các tàu sân bay phải thực hiện. Các tàu thuộc lớp này (tàu sân bay) ở các quốc gia khác nhau, mặc dù có một điểm chung là đều có tính đa năng, nhưng lại có những tính năng đặc thù của từng nước.
Một số tàu (sân bay) có chức năng chủ yếu là giải quyết các nhiệm vụ chống ngầm, ví dụ như các tàu sân bay Anh lớp “Invincible”, một số tàu khác lại có định hướng chủ yếu là thực hiện nhiệm vụ phòng không cho các binh đoàn (cụm) tàu trên biển, như chính “Kuznhetsov” Nga, và nhóm thứ ba- thực sự là những tàu sân bay đa năng. Ví dụ điển hình nhất cho nhóm thứ ba này- chính là các tàu sân bay Mỹ.
Các tàu sân bay cũng khác nhau về kích thước, quy mô cụm không quân (phi đoàn) trên tàu cùng những khả năng tác chiến tương ứng. Số lượng các phương tiện bay (máy bay, máy bay lên thẳng, UAV) của các tàu sân bay các lớp khác nhau cũng dao động trong phạm vi rất lớn:
Từ 8 đến12 chiếc trên những tàu sân bay hạng nhẹ thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là chống ngầm cho đến từ 90 đến 95 chiếc trên các tàu sân bay đa năng hạng nặng Thêm nữa, do những đặc thù riêng, không phải hải quân nước nào trên thế giới cũng cần phải có những con quái vật khổng lồ như vậy.
Các tàu thuộc lớp tàu sân bay được sử dụng để thực hiện các gói nhiệm vụ cụ thể căn cứ vào học thuyết sử dụng hải quân trong tác chiến. Chính vì thế mà nếu so sánh các tàu sân bay của các nước khác nhau theo kiểu những tàu sân bay này sẽ đối đầu với tàu sân bay khác trong các trận hải chiến là rất không chính xác, bởi vì chúng sẽ hoạt động trong đội hình của các cụm quân đa binh chủng.
Và cho dù nếu xảy ra trường hợp các tàu sân bay hoạt động trong đội hình của các cụm quân trực tiếp đối đầu nhau, chúng cũng sẽ giải quyết các nhiệm vụ khác nhau. Một số sẽ đóng vai trò là lực lượng tấn công chủ yếu, số khác sẽ đảm bảo cho hoạt động tác chiến của cả binh đoàn (cụm quân) được giao trách nhiệm giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu.
Vì vậy, chỉ nên so sánh các tàu sân bay của các nước khác nhau theo tiêu chí là tỷ lệ (mức độ) so sánh giữa những khả năng của chúng với những gì mà người ta yêu cầu chúng phải làm.
Kế hoạch tác chiến
Những phân tích về các nhiệm vụ cho thấy- danh mục các nhiệm vụ đối với tất cả các tàu sân bay là gần như là tương đương nhau, tuy nhiên, giá trị (mức độ lớn nhỏ) của từng nhiệm vụ rất riêng biệt và theo phương pháp đánh giá như chúng ta đã nói ở trên- nên dành riêng cho mỗi một nhiệm vụ một chỉ số để đánh giá- đó là hệ số trọng lượng (của mỗi nhiệm vụ- tức tỷ trọng của nó trong toàn bộ các nhiệm vụ mà tàu sân bay phải thực hiện- xim xem tiếp sẽ rõ hơn thuật ngữ mới này-ND).
Theo kinh nghiệm của những năm sau chiến tranh, các tàu sân bay được sử dụng nhiều trong các cuộc xung đột vũ trang và các cuộc chiến tranh cục bộ quy mô khác nhau.
Và chúng sẽ là một trong những thành tố chủ yếu của các cụm quân của các lực lương phần hải quân đối đầu nhau ngay khi các bên bắt đầu phát động các hoạt động tác chiến nhằm vào nhau .
Thành thử, khi so sánh, cần phải tính tới hai phương án với các điều kiện sử dụng khác nhau: (1) trong một cuộc xung đột cục bộ chống lại một kẻ thù có lực lượng hải quân yếu hơn và (2) trong một cuộc chiến quy mô lớn.
Xét tổng thể, tất cả ba kiểu tàu sân bay sẽ tham gia giải quyết các nhiệm vụ chính sau đây, và chúng ta sẽ so sánh chúng (các tàu sân bay) căn cứ vào các nhiệm vụ đó: (1) tiêu diệt các cụm tàu sân bay tấn công và các cụm tàu đa năng của đối phương, (2) tiêu diệt các cụm tàu ​​mặt nước lớn,(3) chống tàu ngầm, (4) đánh trả các đòn tấn công từ trên không, (5) tác động hỏa lực (yểm hộ), và (5) tấn công các mục tiêu trên đất liền.
Trong một cuộc chiến tranh cục bộ chống lại một kẻ thù yếu, chúng ta có thể đánh giá (có tính đến xác suất sử dụng không quân trên tàu) các hệ số ý nghĩa (tầm quan trọng được lượng hóa qua hệ số-ND) của các nhiệm vụ theo cách sau:
tiêu diệt các cụm tàu (lớn) và các tàu nhỏ - 0,1, chống ngầm - 0,05, đánh trả đòn tấn công từ trên không của đối phương - 0,3, tấn công tiêu diệt các mục tiêu trên đất liền - 0,55.
Các tỷ lệ này được rút ra qua phân tích việc sử dụng các tàu sân bay trong các cuộc chiến cuối tranh thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI và áp dụng như nhau cho cả các tàu (sân bay) Nga, Mỹ và Trung Quốc. Rõ ràng là không có nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng tàu sân bay của kẻ thù trong trường hợp này.
Trong một cuộc chiến tranh quy mô lớn, các hệ số trọng lượng (ý nghĩa) được phân bổ theo cách khác và cũng khác nhau với tàu sân bay của những nước mà chúng ta đang xem xét.
Đối với “Kuznhetsov”, các giá trị có thể được ước tính như sau: tiêu diệt các cụm tàu sân bay tấn công và cụm tàu đa năng của kẻ thù - 0,15, các tàu mặt nước - 0,15, tàu ngầm - 0,25, đánh trả các cuộc tấn công đường không - 0,35, tấn công các mục tiêu trên mặt đất - 0,1.
Còn đối với “Nimitz”, các hệ số được phân bổ theo cách hoàn toàn khác: phá hủy các tàu sân bay của đối phương - 0,05 (các đối thủ địa- chính trị chính của Mỹ là Nga và Trung Quốc chỉ có một tàu sân bay với khả năng tấn công hạn chế, nên tầm quan trọng của nhiệm vụ tiêu diệt tàu sân bay đối với "người Mỹ"chỉ ở mức tối thiểu), tiêu diệt các cụm tàu nổi - 0,3, tiêu diệt tàu ngầm - 0,05, đánh trả tấn công đường không - 0,15, tấn công tiêu diệt các mục tiêu mặt đất - 0,45.
Chúng ta chỉ có thể xác định tầm quan trọng của các nhiệm vụ đối với “Liêu Ninh” Trung Quốc một cách rất tương đối, vì các nhiệm vụ của con tàu này không được công bố công khai trên các nguồn mở.
Nhưng được biết, về bản chất, đây là một con tàu thử nghiệm, việc đưa vào khai thác nó chủ yếu nhằm mục đích “học hỏi” để chế tạo các con tàu sân bay sau này “đặc sắc Trung Quốc” căn cứ vào những nhiệm vụ chuyên biệt của Hải quân Trung Quốc.
Tuy nhiên, những đặc điểm của thành phần cụm tàu sân bay cũng như các nét đặc thù của chiến trường cho phép chúng ta tạm đưa ra các nhận định sau: tiêu diệt các cụm tàu sân bay và cụm tàu đa năng của đối phương với Liêu Ninh có thể có giá trị là 0,2, các cụm tàu ​​mặt nước - 0,3, tàu ngầm - 0,05, đánh trả tấn công đường trên không - 0,4, tấn công các mục tiêu trên mặt đất - 0,05.
Sức mạnh đòn tấn công
Sức mạnh tấn công chủ yếu của các tàu được đem ra so sánh như trên là cụm không quân (phi đoàn) trên tàu sân bay. Các phương tiện phòng không và chống tàu ngầm được sử dụng để tự bảo vệ và do đó không ảnh hưởng đến việc đánh giá các khả năng tác chiến và các khả năng chiến thuật trong việc giải quyết các nhiệm vụ như đã nói ở trên.
Tran chien giua cac tau san bay
Các chỉ số quan trọng nhất đối với bất kỳ một tàu sân bay nào là (1) độ dài khoảng thời gian (mà nó) có thể tiến hành các hoạt động tác chiến tích cực cho đến thời điểm nó được bổ sung nguồn dự trữ và (2) nguồn lực có thể huy động (thực hiện nhiệm vụ) trong một ngày theo định mức của lực lượng không quân trên tàu.
Kinh nghiệm rút ra từ các hoạt động tác chiến trong các cuộc chiến tranh cục bộ và các tính toán cho thấy rằng tàu sân bay lớp “Nimitz” của Mỹ khi tiến hành các hoạt động tác chiến cường độ cao bằng cụm máy bay của mình, thì sau 7 đến 8 ngày là cần phải bổ sung các phương tiện vật chất và kỹ thuật, chủ yếu là nhiên liệu và đạn dược.
Trong khoảng thời gian đó (7 đến 8 ngày), tàu này có thể thực hiện tới 1.000 lần xuất kích cho máy bay, trong đó có 600 chuyến xuất kích của máy bay tiêm kích đa năng “Super Hornet”. Tàu sân bay có 40 vị trí để chuẩn bị cho máy bay cất cánh. Điều này có nghĩa là- số lượng máy bay tối đa có thể sử dụng cùng lúc là 40 chiếc.
Tàu sân bay Nga, căn cứ vào các tính toán dựa trên những nguồn dữ liệu công khai, có thể cho cụm không quân (phi đoàn) trên tàu hoạt động hết công suất tối đa là từ 5 đến 6 ngày,- trong thời gian đó có thể cho thực hiện được tới 350 lần xuất kích cho máy bay, trong đó có150 lần xuất kích của máy bay Su-33 và MiG-29K / KUB. Số lượng các vị trí để chuẩn bị cho các máy bay cất cánh là 16 (có nghĩa là số lượng máy bay có thể sử dụng cùng lúc là 16 chiếc).
Để đánh giá về các khả năng tác chiến của tàu “Liêu Ninh” Trung Quốc, chúng ta có thể căn cứ vào thực tế là các khả năng của nó khi thực hiện nhiệm vụ đảm bảo cho hoạt động của cụm không quân trên tàu cũng tương đương với (những khả năng) của “Kuznhetsov”.
Và như vậy, cụm không quân trên “Liêu Ninh”cũng có khả năng thực hiện 350 chuyến xuất kích, nhưng trong một khoảng thời gian dài hơn (tối đa là 7 ngày). Trong số những lần xuất kích này, có 200 lần xuất kích của các máy bay tiêm kích. Thành phần tối đa của nhóm không quân- 16 máy bay.
Khả năng của các đối thủ

Cỏ thể chiến đấu với các tàu sân bay của kẻ thù trong một trận hải chiến thời gian kéo dài đến một ngày đêm. Khi đó, các bên sẽ huy động tất cả những tiềm năng mình có, vì cụm tàu sân bay- đó là một đối thủ cực kỳ mạnh và được bảo vệ cực kỳ tốt.
Trong một ngày đêm, “Kuznhetsov” sẽ có thể thực hiện được 50 lần xuất kích cho các máy bay Su-33 và MiG-29K / KUB. Nhưng chỉ có MiG-29K / KUB mới có thể tấn công được tàu sân bay, vì những chiếc Su-33 theo biên chế hiện nay (2017) chưa sẵn sàng sử dụng tên lửa chống hạm “Moskit” (mặc dù đã tiến hành nhiều lần thử nghiệm).
Nếu trừ đi ít nhất 4 vị trí trên tàu cho các máy bay lên thẳng và các máy bay tiêm kích phòng không trong hệ thống phòng thủ chung của cả binh đoàn (cụm) tàu, có thể huy động cùng lúc tới 12 máy bay tham gia đòn không kích.
Trong số này (12), có ít nhất 4 chiếc làm nhiệm vụ “dọn sạch” không phận. Tám (8) chiếc MiG-29K / KUB còn lại, mỗi chiếc mang không quá 4 quả tên lửa chống hạm Kh-35 (trên các móc treo còn lại là các tên lửa “không đối không”).
Tổng cộng – 32 quả tên lửa chống hạm. Với chiều sâu trường radar 800-900 km (tính tới cả các máy bay AWACS hoạt động ven biển), thì để đối phó với đòn tấn công đường không của chúng ta (Nga), “Nimitz” sẽ sử dụng lực lượng tuần tiễu- tác chiến đường không với từ 2-4 máy bay và thêm từ 4-6 máy bay đang trong trạng thái trực chiến (chờ) trên sàn cất hạ cánh.
Trong số máy bay này của “Nim”tz", các máy bay tiêm kích nhóm “dọn” không phận của chúng ta sẽ phải “đón tiếp” từ 4 đến 6 chiếc. Kết quả là, nhóm máy bay tấn công của chúng ta sẽ tiếp cận tuyến thực hiện nhiệm vụ theo từng cặp, để tránh các cuộc tấn công của máy bay tiêm kích từ “Nimitz” và chúng ta sẽ mất 2 hoặc 3 máy bay (tấn công).
Do đó, xác suất đột phá để đến được (đánh trúng) tàu sân bay Mỹ dù chỉ của một quả tên lửa Nga cũng sẽ không vượt quá 0,5- 0,8. Có nghĩa là khả năng loại tàu sân bayMỹ ra khỏi vòng chiến- tối đa là 0,03-0,05.
Tàu sân bay chúng ta sẽ có thể tiến hành hai đòn tấn công như vậy. Tổng xác suất có thể loại “người Mỹ” ra khỏi cuộc chơi không vượt quá 0,06 - 0,09.
Với tàu sân bay Trung Quốc, kết quả cũng tương tự như vậy.
Về phần mình, để tấn công cụm tàu của chúng ta, “Nimitz” có khả năng sử dụng tới 34 máy bay tiêm kích. Trong số đó có tới 8 máy bay dọn không phận và 16 máy bay trong nhóm tấn công với nhiều máy bay khác bay yểm hộ.
Và như vậy, dù tính tới khả năng đánh trả của các máy bay tiêm kích trên tàu sân bay Nga, lực lượng trên của “Nimitz” vẫn đủ để đảm bảo cho nhóm máy bay tấn công Mỹ với thành phần một đến hai biên đội mỗi lượt tiếp cận tuyến thực hiện nhiệm vụ (tuyến phóng tên lửa) với mỗi loạt phóng từ 16 đến 32 quả tên lửa chống hạm “Harpoon”.
Trong trường hợp này, xác suất loại tàu sân bay của chúng ta ra khỏi vòng chiến trong một lần bị tấn công lên tới 0,15- 0,2, còn trong một ngày đêm- lên tới 0,3 - 0,35. Khả năng của “Nimitz” đánh bại tàu sân bay Trung Quốc, do các hệ thống phòng không trên tàu của “Liêu Ninh” kém hiệu quả hơn (“Kuznhetsov”), nên sẽ lên tới 0,35- 0,5.

ĐẠI VIỆT TRƯỚC LIÊN MINH CHIÊM THÀNH – CHÂN LẠP

Đọc sử Việt Nam, không quá khó để tìm thấy những chuỗi hòa hiếu và xung đột liên miên giữa Đại Việt với Chiêm Thành. Một quãng thời gian dài người Chăm-pa chịu triều cống, rồi thì một vị vua Chăm nào đó quật khởi, chiến tranh lại nổ ra. Thường thì Đại Việt là người thắng, Chiêm Thành mất dần đất đai. Đó không phải là chuyện quá xa lạ.

Không có mô tả ảnh.

Nhưng đọc sử liệu triều Lý thì thấy có vài chi tiết đáng chú ý. Đó là sự xuất hiện liên minh quân sự “Chân Lạp – Chiêm Thành” cùng chống lại Đại Việt (năm 1132, 1216, 1218). Chưa kể, người Chân Lạp cũng có các chiến dịch quân sự riêng rẽ tấn công vào cương thổ triều Lý (năm 1128, 1137, 1150). Vấn đề nằm ở chỗ: Về mặt địa lý, Chiêm Thành nằm ở giữa, Đại Việt ở phía bắc Chiêm Thành, Chân Lạp ở phía nam Chiêm Thành. Nếu như không có chung đường biên giới với Đại Việt, vậy thì Chân Lạp đánh Đại Việt kiểu gì?
Có thể có 2 cách: Đánh bằng đường biển, hoặc mượn đường bộ từ Chiêm Thành.
1 - CHINH PHẠT BẰNG THỦY QUÂN
Đây là chuyện đã xảy ra vào 01/1128 đời vua Lý Thần Tông. Toàn thư chép: “…hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Xuống chiếu cho Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem các quan chức đô cùng người châu Nghệ An đi đánh” [1]. Kết quả là “đánh bại quân địch, bắt được tướng và quân của địch gồm một trăm sáu mươi chín người” [2].
Không cam lòng với thất bại này, 6 tháng sau, người Chân Lạp tiếp tục cuộc tấn công theo đường biển với quy mô không kém: “Người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc thuyền”. Kết quả: “…sai bọn Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hoá và Dương Ổ ở châu ấy đem quân đánh, phá được” [3]
2 - XUYÊN QUA BIÊN GIỚI CHIÊM THÀNH
Cách thức hành quân này mới có nhiều điều để bàn. Bởi lẽ, khi nước A dẫn quân đi ngang qua lãnh thổ của nước B để gây chiến với nước C, đấy sẽ luôn là sự kiện ẩn chứa nhiều tai họa cho cả hai bên A và B. Lịch sử đã để lại nhiều ví dụ:
+ A có thể ra vẻ “mượn đường” đi ngang qua B, nhưng họ có khả năng thừa cơ tập kích B. Một ví dụ kinh điển chính là tích “mượn đường diệt Quắc”, nước Tấn năm xưa mượn đường đi ngang nước Ngu để đánh nước Quắc, về sau thừa cơ chiếm luôn nước Ngu.
+ A thật lòng mượn đường đi qua B để đánh nước C. Khổ nỗi, B lại thừa lúc A đang đánh C mà tập kích A từ sau lưng. Có một ví dụ “hơi gần” với chuyện này, đấy là chiến dịch Tương-Phàn thời Tam quốc, khi đại tướng nhà Thục là Quan Vũ xuất phát từ Giang Lăng (vốn là mảnh đất được nhà Ngô coi là “đồ cho nhà Thục mượn”), đánh lên phía Bắc uy hiếp Tương Dương-Phàn thành của nhà Ngụy. Trước chiến dịch này, Thục - Ngô là đồng minh. Nhưng khi Quan Vũ sắp chiếm được Tương-Phàn, đánh bại viện quân của Vu Cấm, thì quân Ngô trở mặt, âm thầm thọc một đòn sau lưng Quan Vũ, nuốt luôn hậu phương Giang Lăng. Kết quả: Quan Vũ mất mạng, nhà Thục mất Kinh châu, quan hệ minh hữu Thục – Ngô cũng chính thức tan vỡ.
Dẫn ra hai ví dụ trên để cho thấy, một khi Chân Lạp có thể sử dụng đường tiến quân trên bộ, đi ngang lãnh thổ Chiêm Thành và tấn công Đại Việt, thì có nghĩa là Chân Lạp đã nắm chắc được rằng: Chiêm Thành không thể, không dám hoặc không đủ khả năng tập kích sau lưng họ. Và Chiêm Thành lúc ấy, có lẽ cũng phải cam chịu khả năng bị Chân Lạp nuốt sống bất cứ lúc nào.
Thực tế mối quan hệ Chân Lạp - Chiêm Thành trong những lần “mượn đường” đó có ủng hộ lập luận này hay không?
(còn tiếp)
GHI CHÚ:
[1] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 126.
[2] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chính Biên, Quyển IV, Bản kỷ, bản điện tử, trang 156.
[3] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 127.


Không có mô tả ảnh.

Ở các kỳ tiếp theo này, người viết thử trả lời các câu hỏi trên thông qua 02 sự kiện chính: (i) Chiến dịch quân sự của Đại Việt chống lại sự xâm lấn của Tống – Chiêm Thành – Chân Lạp năm 1076; và (ii) Chuỗi xung đột quân sự giữa Chân Lạp – Chiêm Thành với Đại Việt từ 1128 đến 1137.
3 – CHIẾN DỊCH NĂM 1076
3.1 MỘT LIÊN MINH ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH BỞI NAM TỐNG
Không phải đợi đến năm 1132 thì liên quân Chân Lạp - Chiêm Thành mới xuất hiện. Trước đó hơn 50 năm, sau khi thất bại ở Ung châu về tay Lý Thường Kiệt, nhà Tống bèn
“sai Quách Quỳ làm Chiêu Thảo sứ, Triệu Tiết làm phó…, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta” [4].
Đó là ghi chép trong Toàn thư. Cương mục có phần cẩn thận hơn khi viết rằng nhà Tống chỉ
“ước hẹn các nước Chiêm Thành và Chân Lạp cùng sang lấn cướp” [5].
Các sử quan triều Nguyễn đã có lý khi KHÔNG khẳng định sự xuất hiện của liên quân Chân Lạp - Chiêm Thành ở chiến dịch năm 1076 mà chỉ dừng lại ở hành động “ước hẹn” của vua Tống đối với hai nước chư hầu; bởi vì Tống sử cũng khẳng định điều tương tự:
“Quân triều đình sang đánh Giao Chỉ, vì cớ (Chiêm Thành) vốn có thù (với Giao Chỉ), bèn chiếu cho Chiêm Thành, mệnh thừa cơ hiệp lực cùng trừ diệt” [6].
Viên Tiểu hiệu nhà Tống là Phàn Thực, người được giao nhiệm vụ sang dụ bảo Chiêm Thành báo cáo lại phản ứng của nước này như sau:
“nước ấy đã tuyển chọn bảy ngàn quân chặn giữ những đường yếu đạo của giặc” [7]
7000 quân tham gia là con số quá ít nếu so với binh lực Đại Việt giai đoạn 1075-1077 (Lý Thường Kiệt đánh Ung, Khâm, Liêm đã mang hơn 10 vạn quân) hay Nam Tống (theo phát hiện của tác giả Tô Như đây thì quân Tống mà Quách Quỳ mang sang có khả năng không dưới 30 vạn [8]).
Số quân 7000 ít ỏi này chắc chắn không thể đủ để tấn công trực tiếp vào lãnh thổ Đại Việt (So sánh với năm 1128, 2 vạn quân Chân Lạp xâm nhập Nghệ An đã bị Đại Việt đánh bại chỉ trong 1 tháng). Sự tham dự của Chiêm Thành có lẽ chỉ là mang quân bố trí sẵn ở biên giới phía nam của Đại Việt, chờ đợi khả năng Đại Việt thua Tống và bỏ Thăng Long rút về nam thì sẽ có cơ hội phục kích hoặc quấy phá mà thôi. Tác giả Georges Maspero trong cuốn “Le Royaume de Champa” cũng thiên về quan điểm này khi cho rằng:
“Có khả năng do không muốn mạo hiểm nên Harivarman [tức Harivarman IV – vua Chiêm Thành lúc này – Thuyên chú thích] chỉ chờ đợi, không xuất binh mà giữ đạo quân trấn giữ nơi hiểm yếu kia lại. Không nắm chắc phần thắng, vào năm sau, Harivarman dâng cống phẩm lên cả (Lý) Càn Đức lẫn (Tống) Thần Tông” [9]
3.2 NHỮNG ĐỒNG MINH PHẢN TRẮC
Quay lại vấn đề liên quân Chân Lạp - Chiêm Thành. Nhà Tống rõ ràng có yêu cầu Chiêm Thành xuất binh, vậy họ có yêu cầu tương tự đối với Chân Lạp hay không? Cũng trong cùng mục “Ngoại quốc 5” của Tống sử, Quyển 489; Chân Lạp chỉ được nhắc đến vào năm 1116. Các sự kiện diễn ra trong khoảng 1075-1077 không được đề cập.
Mặc dù vậy, tác giả Thanh Trà trong “Lược sử nền văn minh Champa” có nhắc đến hoàng thân Sri Nandana varmadeva – tướng lĩnh người Khmer như là người mang quân vào miền Nam Champa theo lời mời của Quách Quỳ để chống lại nhà Lý. Viên tướng này khi thấy vua Chiêm Thành chịu triều cống nhà Lý trở lại thì quyết định chiếm luôn Panduranga (lãnh thổ phía nam của Chiêm Thành, tương ứng với vùng Bình Thuận bây giờ), có lẽ vì cho rằng người Chiêm Thành đã phản bội lại liên minh. Theo Thanh Trà, Người Chiêm Thành chỉ lật ngược được tình thế sau khi nhà Lý (cụ thể là Lý Thường Kiệt) xuất binh hỗ trợ [10].
Thông tin này nghe có vẻ rất mới vì ít nhất nó chưa xuất hiện trong các sử liệu Việt như Toàn thư hay Cương mục. Tuy nhiên, do cách trình bày của Thanh Trà nên chúng ta không biết được ông đã tham khảo sử liệu nào để đưa ra thông tin trên.
Về sự tan rã của liên quân Chân Lạp - Chiêm Thành, Majumdar trong cuốn “Kambujadesa” bổ sung thêm:
“Không lâu sau đó (sau thất bại của quân Tống năm 1076 trước Đại Việt – Thuyên chú thích), xung đột nổ ra giữa vua Kampuja và vua Champa. Chi tiết chiến dịch này được nhắc đến sơ lược trong bi ký được tìm thấy ở Champa như sau: [Vua Champa Harivarman IV đánh bại quân Kampuja ở Somesvara và bắt giữ chỉ huy là hoàng thân (prince) Sri Nandanavarmadeva]. Trận chiến này diễn ra đâu đó trước năm 1080” [11].
Sự xuất hiện của quân Chân Lạp và Sri Nandana varmadeva ở Chiêm Thành năm 1076 cần được khảo cứu thêm. Dò tìm lại các nghiên cứu có tham khảo cả những nguồn sử liệu cổ hơn (như văn bia bằng chữ Chăm cổ) như:
“Le royaume de Champa” của Maspero (1928),
“Ancient Indian Colonies in the Far East, Vol.1 – Champa” của Majumdar (1927),
“The Indianized states of Southeast Asia” của Coedes (1968);
ta không phát hiện thêm được gì về các hoạt động của Chân Lạp trên đất Chiêm Thành trong chiến dịch đánh Đại Việt năm 1076, càng không thấy nhắc đến việc Lý Thường Kiệt giúp Chiêm Thành phá Chân Lạp. Henri Maspéro trong “Etudes d'histoire d'Annam” chỉ nói một cách rất thận trọng rằng:
“Sự thất bại của người Trung Quốc kéo theo sự rút lui của các đồng minh của họ; không có thông tin gì về hướng di chuyển của họ [các đồng minh của Tống – ý chỉ Chiêm Thành và Chân Lạp – Thuyên chú thích]” [12]
Dù hoàng thân Sri Nandana varmadeva và quân Chân Lạp có ý định tham gia vào cuộc chiến chống Đại Việt năm 1076 hay không, điều chắc chắn là họ đã có mặt trên lãnh thổ Chiêm Thành. Và dù là do người Chân Lạp gây chiến trước (theo quan điểm của Thanh Trà) hay là do người Chiêm Thành ra tay trước (như cách nói của Majumdar) thì có một điều rõ ràng là “liên minh” Chân Lạp - Chiêm Thành với sự chỉ định của nhà Tống là không hề bền vững.
Khi mục tiêu chung (đánh Đại Việt) mất đi (cùng sự thất bại của quân Tống) thì những người đồng minh này ngay lập tức chĩa mũi giáo về phía nhau. Điều này không có gì lạ nếu nhìn dọc theo lịch sử xung đột giữa hai đất nước này. Xung đột và liên minh sẽ tiếp tục là hai mặt không tách rời trong mối quan hệ phức tạp giữa Chân Lạp và Chiêm Thành trước đối thủ phía bắc – Đại Việt. Điều này sẽ được làm sáng tỏ thông qua phân tích chuỗi xung đột 1128 - 1137.
(còn tiếp)
GHI CHÚ:
[4] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 110.
[5] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chính Biên, Quyển IV, Bản kỷ, bản điện tử, trang 141.
[6] [7] Tống sử, Quyển 489 – Ngoại quốc 5. Trích trong Châu Hải Đường (2018), An Nam truyện, trang 296.
[8] Nhu To (2019), Quách Quỳ, Triệu Tiết cầm bao nhiêu quân sang nước ta? Truy cập tại: https://www.facebook.com/tonhu1999/posts/459260164779992
[9] M. Georges Maspero (1928), Le Royaume de Champa, trang 145. Nguyên văn:
[Il est probable que peu désireux de se compromettre, Harivarman, attendant les événement, n'avait pas fait sortir ses troupes des “passages difficiles” où il les avait cantonnées. Incertain du succès, il adressa, l'année suivante, le tribut regulier à Kiền Đức en même temps qu’à Chen Tsong].
[10] Thanh Trà (2012) Lược sử nền văn minh Champa, trang 226.
[11] Majumdar (1943), Kambujadesa, trang 121.
[12] Henri Maspero (1918), La frontière de l'Annam et du Cambodge du VIIIe au XIVe siècle, BEFEO, XVIII, 3, trang 33. Nguyên văn:
[La défaite des Chinois amena la retraite de leur alliés sur les movements desquels nous a’avont pas de renseignements].
NGUỒN HÌNH: Đại Việt, Chiêm Thành và Chân Lạp. The Cambridge History of Southeast Asia Volume 1, From Early Times to C.1800
P/S: Các sử liệu tiếng Pháp được dịch sang tiếng Việt bởi Trần Thụy Hân.

Không có mô tả ảnh.

Tuy vậy, chuỗi xung đột hơn 50 năm sau đó mà Chân Lạp - Chiêm Thành gây ra cho Đại Việt thì khác. Nhiều bằng chứng rõ ràng hơn cho thấy đã có sự phối hợp tác chiến giữa hai quốc gia phương nam. Nhà Lý đã phải tốn nhiều công sức trên các mặt trận quân sự, ngoại giao cho đến khi liên minh này tan rã vào năm 1137.
4 – “THE OFFENSIVE ALLIANCE” (MỘT LIÊN MINH TẤN CÔNG) *
(*): Chữ dùng của Majumdar (1927).
Trong 9 năm kể từ 1128 đến 1137, nhà Lý đã phải chống lại 4 cuộc tấn công từ phương nam:
+ 01/1128, “hơn 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An” [13].
+ Bảy tháng sau đó, 08/1128 “người Chân Lạp vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc thuyền” [14].
+ Tròn bốn năm sau, 08/1132, vẫn là châu Nghệ An bị xâm lấn, lần này kẻ địch là “Chân Lạp và Chiêm Thành đến cướp” [15].
+ Hơn bốn năm sau nữa, 01/1137, “tướng nước Chân Lạp là Phá Tô Lăng” [16] tiếp tục cướp phá Nghệ An.
Trong 9 năm đời vua Lý Thần Tông này, sử Việt ghi nhận SỰ XUẤT HIỆN DÀY ĐẶC các cuộc xung đột với NGƯỜI CHÂN LẠP. Đây là một sự xuất hiện khá bất thường nếu nhìn vào lịch sử xung đột trước đó giữa Đại Việt với các quốc gia phía nam VỐN GẦN NHƯ CHỈ TOÀN NHỮNG CHIẾN DỊCH CHINH PHẠT CHIÊM THÀNH – quốc gia có chung đường biên giới: Năm 1044, Lý Thái Tông đánh thẳng vào thành Phật Thệ (Vijaya). Năm 1069, Lý Thánh Tông thân chinh, bắt sống vua Chiêm Thành là Chế Củ. Năm 1076, Lý Thường Kiệt thừa mệnh Lý Nhân Tông tiếp tục nam chinh.
Sự khác biệt ấy có nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân lớn nhất có lẽ bắt nguồn từ sự trỗi dậy của một ông vua Chân Lạp tài giỏi: Suryavarman II.
4.1 MỘT ĐỒNG MINH ĐẦY SỨC UY HIẾP
Suryavarman II lên ngôi năm 1113, được đánh giá là “một nhà chinh phạt vĩ đại đã lãnh đạo quân đội Khmer tiến xa hơn bao giờ hết” [17].
Về đối nội, ông hợp nhất cả hai lãnh thổ của vua Dharanindravarman I và Harsavarman III và xây dựng công trình Angkor Wat huyền thoại [18]. Về đối ngoại, ông tranh thủ sự ủng hộ của hoàng đế Nam Tống bằng cách gửi hai sứ đoàn sang triều cống năm 1117 và 1121, nối lại quan hệ ngoại giao vốn đã ngắt quãng từ sau thế kỷ 8 [19].
Thành tựu đối ngoại rực rỡ nhất của Suryavarman II là mở rộng cương thổ lên đến hơn 7000 dặm rộng, được Briggs (1951) mô tả là: lãnh thổ đế quốc Chenla (Chân Lạp) “giáp biên giới phía nam của Chiêm Thành, phía đông tới biển, phía tây tới Pagan (Myanmar ngày nay - Thuyên chú thích), phía nam tới Grahi thuộc vịnh Bandon (nay thuộc vịnh Thái Lan - Thuyên chú thích) [20]. Mô tả này tương đồng với ghi chép trong Tống sử: “Chân Lạp ở phía nam Chiêm Thành, phía đông giáp biển, phía tây giáp Bồ Cam, phía nam đến Gia La Hi…” [21].
Ở hướng chính bắc, ông đẩy cương giới đế quốc Khmer lên các vùng đất nay thuộc về Xiêm và Lào [22], chiếm cả Lopburi (đông bắc Bangkok ngày nay) [23]. Cũng có dấu hiệu cho thấy những hoạt động của Suryavarman II ở lưu vực sông Mun và các phần liền kề của lưu vực sông Mê Kông ở Lào và Thái Lan hiện tại [24]. Trong thời gian trị vì của Suryavarman II, lãnh thổ đế quốc Khmer rộng có lẽ phải gấp 4-5 lần Đại Việt (xem bản đồ).
Với tài năng và tham vọng lớn, không ngạc nhiên khi “ngay khi lên ngôi [năm 1113 – Thuyên chú thích], Suryavarman II bắt đầu quấy rối Champa” [25]. Không tìm thấy sử liệu về các xung đột Chân Lạp – Chiêm Thành trong các năm này; tuy nhiên Toàn thư ghi nhận khá nhiều trường hợp cả người Chân Lạp lẫn Chiêm Thành sang quy phụ Đại Việt chỉ riêng trong 2 năm 1123-1124:
+ 04/1123: “5 người nước Chân Lạp quy phụ” [26]
+ 01/1124: “người nước Chiêm Thành là Cụ Ông và ba người em họ đến chầu” [27]
+ 04/1124: “người nước Chân Lạp là Kim Đinh A Truyền cùng 4 người gia đồng sang quy phụ” [28]
+ 05/1124: “người nước Chiêm Thành là bọn Ba Tư Bồ Đà La 30 người sang quy phụ” [29]
So sánh với toàn bộ thời Lý thì tần suất tị nạn sang Đại Việt giai đoạn này là DÀY ĐẶC, cho thấy giai đoạn này hẳn phải tồn tại những biến động xã hội ghê gớm (và rất có khả năng là chiến tranh Chân Lạp – Chiêm Thành vốn đã được Suryavarman II khơi mào từ 1113).
Dù là dưới hình thức xung đột nào thì miền bắc Chiêm Thành cũng đã chịu sự thống trị của quân Chân Lạp vào năm 1128, và quân Chiêm Thành đã “được tuyển mộ làm đồng minh trong các cuộc xâm lược Đại Việt bất thành” (“recruited as allies”) như cách nói của Tarling (1992) [30]. Majumdar (1927) sử dụng cách nói nhẹ hơn khi cho rằng vua Chân Lạp chỉ “xui khiến” (“induced”) vua Chiêm Thành tham gia [31]. Hall (1955) có lẽ mô tả đầy đủ nhất mối quan hệ “đồng minh” này: “persuaded, or forced” – “thuyết phục hoặc ép buộc” [32].
Kết quả là liên minh Chân Lạp – Chiêm Thành đã chính thức tấn công Đại Việt vào các năm 1128, 1132, 1137. Tuy nhiên, có bao nhiêu chiến dịch đã thật sự diễn ra, bao nhiêu lần trong số đó do quân Chân Lạp đơn phương triển khai, và bao nhiêu lần do liên quân Chân – Chiêm hợp tác hành động, thì vẫn còn nhiều tranh cãi.
(còn tiếp)
(Kỳ sau: Năm 1128: HAI lần thua đau của riêng người Chân Lạp? Hay chỉ MỘT chiến dịch thất bại của liên quân Chân – Chiêm?)

NĂM 1128: HAI LẦN THUA ĐAU CỦA RIÊNG NGƯỜI CHÂN LẠP? HAY CHỈ MỘT CHIẾN DỊCH THẤT BẠI CỦA LIÊN QUÂN CHÂN – CHIÊM?

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép rằng tháng 02/1128, Nhập nội thái phó Lý Công Bình “đánh bại người Chân Lạp ở bến Ba Đầu, bắt được chủ tướng và quân lính”.

Phải sáu tháng sau (08/1128), người Chân Lạp mới mở một cuộc tấn công mới ở hương Đỗ Gia. Lần này, “Nguyễn Hà Viêm ở Thanh Hoá và Dương Ổ ở châu ấy đem quân đánh, phá được”.

Theo cách mô tả của Toàn thư thì đây là hai trận đánh riêng rẽ, không liên quan đến nhau. Mặc dù vậy, Henri Maspero trong tập san trường Viễn Đông Bác cổ (BEFEO) đã bác bỏ quan điểm của Toàn thư. Thay vào đó ông cho rằng hai trận đánh này nằm trong cùng một chiến dịch. Ông viết:

[Vào đầu thế kỷ XII, sau cuộc xâm lược Chiêm Thành, vua Suryavarman II đã biến Chiêm Thành trở thành NƯỚC CHƯ HẦU của mình bằng cả phương thức bạo lực lẫn ý chí [nguyên văn “de gré ou de force” – Thuyên chú thích], và rồi cùng Champa phát động CUỘC CHIẾN TRANH KÉP [nguyên văn “double expédition” – ý chỉ hai toán quân thủy và bộ cùng đánh Nghệ An - Thuyên chú thích] nhắm đến An Nam. Năm 1128, hai vạn quân Chân Lạp được phái đi đánh Nghệ An. Cùng lúc đó, 700 thuyền Chân Lạp xâm chiếm bờ biển Hà Tĩnh với sự hỗ trợ của quân Chiêm Thành...
Toán quân đầu tiên vượt qua đèo Hà Trại, xuống thung lũng Phố Giang [33] và hạ trại ở lối vào đồng bằng tại lạch Ba Đầu, nơi mà ngày nay chính là Hương Sơn (tháng 2 năm 1128). Toán quân này hạ trại để chờ đội thủy quân và người Champa. Có vẻ như đội thủy quân đã đến muộn, và mặt khác, người An Nam có thể đã nhận ra mối nguy cấp nên đã đẩy nhanh việc chuẩn bị...
Ngày 2 tháng 3, Lý Công Bình nhận lệnh lãnh đạo quân Nghệ An chống lại Chân Lạp. Ông gặp bọn chúng đang đóng quân tại Ba Đầu, tấn công và đánh bại chúng vào ngày 11 tháng 3. Tướng địch chết và tàn quân địch rút lui…
Đoàn tàu (đoàn 700 tàu của Chân Lạp - Hân chú thích) và quân đội Chăm cũng phải vài tháng sau, tức tận tháng 8 mới đến. Chúng chiếm đóng làng Đỗ Gia. Tuy nhiên, vì nhóm quân đầu tiên không thể tiếp ứng cho chúng (vì đã bị Lý Công Bình đánh bại vào tháng 3 – Hân chú thích), nên chúng phải rút lui sớm, cướp phá khu vực bờ biển Nghệ An và Thanh Hóa…] [34]

Trong phần ghi chú, H. Maspero cũng giải thích vì sao ông bác bỏ quan điểm của Toàn thư:

[Các sử gia An Nam ghi chép về sự xuất hiện của đội quân vào tháng 2 (tức nhóm 2 vạn quân Chân Lạp – Hân chú thích) và xuất hiện của thủy quân Chân Lạp cộng lính Chiêm Thành vào tháng 8 là hai cuộc tiến quân khác nhau, không hề liên quan gì cả. Quá trình phân tích của họ hầu như không cho phép họ làm khác. Nhưng ta phải nghĩ đến vấn đề là: thời gian cần để di chuyển theo đường bộ từ Mekong đến Nghệ An khác với thời gian cần để đi thuyền từ Mekong hoặc từ vịnh Thái Lan (nguyên văn “gulf du Siam” – Hân chú thích) đến Hà Tĩnh.
Ngoài ra, tháng 2 và tháng 3 là thời điểm trước mùa mưa, thời tiết vẫn còn mát mẻ, thuận lợi cho việc tiến quân theo đường bộ nhưng lại rất bất lợi khi tiến quân theo đường biển. Thời gian đó là khoảng thời gian thay đổi gió mùa và sẽ rất nguy hiểm khi di chuyển ở khu vực bờ biển An Nam. Bên cạnh đó, nhóm quân xuất phát từ hướng Nam (nhóm di chuyển bằng thuyền - Hân chú thích) không cần di chuyển gấp rút vì kể từ khi bộ binh hạ trại tại Ba Đầu, ngay lối vào khu vực đồng bằng Hà Tĩnh thì có vẻ như chúng (nhóm bộ binh - Hân chú thích) đã nhận được lệnh chờ nhóm binh lính kia đến hội quân] [35]

Như vậy theo H. Maspero, chiến dịch tấn công Đại Việt năm 1128 không phải là của một mình quân Chân Lạp mà được tiến hành bởi liên quân Chân – Chiêm; trong đó Chân Lạp đóng vai trò chủ đạo ở cả bộ binh lẫn thủy binh, còn Chiêm Thành hỗ trợ (dân phu, vận lương cho thủy quân). Nếu quân Chiêm Thành chỉ tham gia với vai trò dân phu thì chuyện sử Việt chép “đánh bại quân Chân Lạp” cũng là điều có thể hiểu được. Ngoài ra, có sự chênh lệch thời gian bởi thủy quân cần chờ gió đông nam để xuất hành (bắt đầu khoảng tháng 6), trong khi bộ quân thì cần tiến quân trước tháng 3 (khi chưa đến mùa mưa). Nếu chứng minh được sự tồn tại của liên quân này vào năm 1128 thì cũng gián tiếp khẳng định được sự kiểm soát của Chân Lạp đối với bắc Chiêm Thành, qua đó giải đáp được tồn nghi đã nêu ở Kỳ 3 (https://www.facebook.com/groups/NghienCuuLichSu/permalink/1106312896386679/).

Mặc dù những lập luận của H. Maspero về thời điểm xuất phát của hai cánh quân là khá hợp lý, vẫn có những nghi ngờ về việc nhóm 2 vạn bộ quân phải chờ đợi quá lâu (5-6 tháng) ở lối vào đồng bằng Hà Tĩnh, bởi quân Chân Lạp chắc chắn phải đối mặt với 02 vấn đề lớn: (1) Làm thế nào giữ bí mật được sự xuất hiện của 2 vạn quân trong thời gian dài? (2) Làm sao có đủ lương thảo cho 2 vạn người mà không phải cướp bóc của dân Đại Việt?

Với tồn nghi số (2), những người ủng hộ quan điểm của H. Maspero có thể viện dẫn chính nghiên cứu của ông về tuyến đường hành quân trên bộ của liên quân Chân – Chiêm tiến đánh Đại Việt năm 1132: Quân Chân Lạp năm 1128 có thể đã băng ngang qua lãnh thổ Chiêm Thành, đến Đại Việt bằng con đường Lao Bảo (Savannakhet-Huế) [36]. Lương thực có thể được vận chuyển từ Chân Lạp (lãnh thổ Lào hiện nay) sang lãnh thổ Chiêm Thành (Quảng Trị hiện nay) trước khi đến Hà Tĩnh. Tồn nghi số (1) có thể được quy cho vấn đề đường sá xa xôi (từ vịnh Thái Lan vòng ngược lên bắc đến Nghệ An là quãng đường rất dài - XEM MŨI TÊN MÀU XANH TRÊN BẢN ĐỒ), tàu thuyền dễ gặp trục trặc nên đến trễ (chứ ban đầu người Chân Lạp không định cho bộ binh chờ lâu đến vậy).


Với những bằng chứng không quá rõ ràng, quan điểm của H. Maspero về liên quân Chân – Chiêm 1128 vẫn chỉ nên được xem là một giả thuyết đáng chú ý mà thôi. Nhưng sự tồn tại của liên quân Chân – Chiêm vào bốn năm sau (1132) thì lại không có gì phải nghi ngờ…

Không có mô tả ảnh.

GHI CHÚ:
[13] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 126.
[14] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 127.
[15] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 130.
[16] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 133.
[17] Coedes (1975), The Indianized States of Southeast Asia, trang 159.
[18] [19] Majumdar (1943), Kambujadesa, trang 122.
[20] [22] Briggs (1951), The Ancient Khmer Empire, trang 189.
[21] Tống sử, Quyển 489 – Ngoại quốc 5. Trích trong Châu Hải Đường (2018), An Nam truyện, trang 298.
[23] [24] [30] Tarling (1992), The Cambridge History of Southeast Asia: Volume 1, from Early Times to C. 1800 (Vol. 1). Cambridge University Press., trang 161.
[25] M. Georges Maspero (1928), Le Royaume de Champa, trang 155. Nguyên văn:
[Dès qu'il eut ceint la couronne, Suryavarman commenca de harceler le Champa]
[26] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 120.
[27] [28] [29] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản kỷ, Quyển III, bản điện tử, trang 121.
[31] Majumdar (1927), Ancient Indian Colonies in the Far East - Vol.1, trang 94.
[32] Hall (1955), A History of South East Asia, trang 205.
NGUỒN HÌNH: http://ecaidata.org/
P/S: Các sử liệu tiếng Pháp được dịch sang tiếng Việt bởi Trần Thụy Hân.



Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử

Điều gì làm nên một đế chế La Mã thần thánh mà lịch sử mãi còn khắc ghi? Đó chính là khát vọng lớn, là tinh thần chiến binh và sự dẫn dắt của một nhà lãnh đạo thiên tài.


Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử

Từ 1500 năm trước công nguyên, một cộng đồng người di cư đã vượt dãy Alps và biển Adriatic tới phía Đông của bán đảo Italia khai hoang. Họ sinh sống, trồng trọt trong một thị trấn nhỏ có tên là thành Roma. Và cũng chính những người nông dân di cư này, bằng nỗ lực phi thường đã xây dựng nên đế chế La Mã, một đế chế được mệnh danh là "Imperium sine fine" - Đế chế không có điểm kết thúc, không bị giới hạn về cả thời gian hay không gian. Đồng thời là đế chế hình mẫu cho sự ưu việt về văn hóa, công nghệ, quân sự và xã hội đương thời.

Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 4.

Tôn sùng kỷ luật tuyệt đối nên người La Mã có những nhà lãnh đạo cứng rắn, luôn kiên quyết thực thi mục tiêu. Quân đội Roma cũng thể hiện những tiêu chuẩn của xã hội nghiêm khắc này. Khi xung trận, một đội quân có tính kỷ luật cao được dẫn dắt bởi một người chỉ huy quyết đoán sẽ cùng nhau chiến đấu và kiên trì cho đến khi chiến thắng đối thủ. Người La Mã đã sử dụng quân đội của mình để thống trị cư dân chung quanh. Đến thế kỷ 7 và 6 TCN, người La Mã chinh phục rất nhiều nơi thuộc Italy và các vùng đất ngoài Italy. Họ bắt đầu lớn mạnh nhanh chóng và thành lập nên Vương quốc La Mã.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 5.
Vương quốc La Mã được bao bọc ba mặt là biển, phía bắc là dãy Alps. Khi người La Mã thống trị vùng đất này, họ muốn mở mang bờ cõi, xây dựng một đế chế không biên giới về lãnh thổ. Dựa vào sức mạnh quân sự, Roma chinh phục các vùng đất quanh khu vực Địa Trung Hải. Cỗ máy quân sự của La Mã đi tới đâu, chiến tranh và kiểm soát đến đó. Đội quân này rất kiên trì và tham vọng thống trị đến mức sẵn sàng chiến đấu bất kể đổi thủ mạnh như thế nào, thời gian chiến tranh kéo dài bao lâu. Điển hình nhất là trận La Mã – Ba Tư kéo dài 683 năm đã trở thành cuộc xung đột kéo dài nhất trong lịch sử nhân loại.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 6.
Thế kỷ thứ 2 sau công nguyên, hầu như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải, Tây Âu, Tiểu Á, Bắc Phi, và nhiều vùng của Bắc và Đông Âu bị La Mã thống trị. Tại thời điểm đỉnh cao, đế quốc La Mã đã bành trướng thành một trong những đế quốc lớn nhất trong thế giới cổ đại, với dân số được ước tính khoảng gần 20% dân số thế giới và bao phủ 5 triệu km diện tích địa cầu.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 7.
Chiến binh La Mã xuất phát điểm là những người du cư thuần nông nhưng lại có thể trở thành bậc thầy trong tác chiến và thực thi chiến lược. Để từ một thị trấn nhỏ như ở Italy, người La Mã đã trở thành bá chủ Địa Trung Hải và các khu vực Châu Á, Tiểu Á, Bắc Phi.
Đội quân La Mã còn được gọi là "Exercitus" nghĩa là "rèn luyện", và họ tôn thờ nữ thần Kỷ luật Disciplina. Điều này nhấn mạnh rằng người La Mã cực kỳ chú trọng tới công tác huấn luyện và tính kỷ luật một cách nghiêm ngặt. Binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng.
Đội hình La Mã được mô tả như là một "cỗ máy quân sự" và được coi là những người lính chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới. Lính La Mã rèn luyện ở mọi nơi, ngay cả trên chiến trường hay đường hành quân. Mỗi chiến binh đều hiểu, họ phải đạt đến ngưỡng hoàn hảo, có thể sử dụng kết hợp cùng lúc các loại vũ khí như kiếm, giáo và khiên. Có khả năng chiến đấu độc lập và phối hợp binh đoàn đầy hiệu quả.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 8.
Trở nên hoàn hảo cũng là lựa chọn duy nhất, bởi đội hình tác chiến của quân đoàn La Mã vô cùng phức tạp. Các đơn vị chiến thuật có từ 60 - 120 người. Mỗi chiến binh mang theo số quân trang lớn nhất di chuyển trong một đội hình khít thường xuyên. Khi tác chiến họ sắp xếp đội hình, hành quân và phối hợp chiến đấu vô cùng chuẩn xác.
Đội hình vai kề vai, sát cánh cùng nhau đã tạo ra một khối sức mạnh tấn công sâu vào hàng ngũ quân địch. Đôi khi, mỗi chiến binh sẽ chiến đấu hoàn toàn đơn độc, xoay chuyển và đối phó với kẻ thù từ mọi hướng. Quân đoàn La Mã có thể đương đầu với nhiều loại quân khác nhau một cách hiệu quả từ kỵ binh, cung thủ, máy móc cho tới chiến tranh du kích. Họ gần như bất khả chiến bại, kỷ luật là yếu tố làm nên sức mạnh của đội quân La Mã cổ đại, một trong những đế chế rộng lớn nhất lịch sử nhân loại,
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 9.
Họ có thể chịu những thất bại nặng nề, ngay cả khi đứng trước nguy cơ bị hủy diệt hoàn toàn nhưng họ chưa bao giờ khuất phục. Họ chấp nhận thua trong từng trận đánh nhưng quyết giành chiến thắng trong cả cuộc chiến tranh. Trận chiến Watling đã chứng minh cho điều đó khi 10.000 người La Mã đánh bại hơn 100.000 quân khởi nghĩa Briton.
Tinh thần Kỷ luật thép và Khát vọng xây dựng đế chế cường thịnh trở thành lẽ sống và sức mạnh để những nông dân thành Roma chinh phục và thống trị hơn 300 quốc gia khác. Trong thời đại thịnh trị, quân đoàn La Mã là những chiến binh không đối thủ, một quân đoàn huyền thoại mà cho đến nay, vẫn được các nhà quân sự cho là tổ chức hình mẫu.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 10.
Sự hưng thịnh, suy vọng của đế chế La Mã đã được dựng thành phim "The fall of the roman empire"- một trong những bộ phim thuộc Tủ phim Nền Tảng đổi đời do Tập đoàn Trung Nguyên Legend tuyển chọn.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 11.
Julius Caesar trưởng thành trong thời kỳ hỗn loạn, nội bộ La Mã bị chia rẽ thành hai phe Quý tộc bảo thủ và Dân chủ. Bên ngoài, các quốc gia đồng minh liên tục gây chiến, tranh giành lãnh thổ. Năm Caesar 16 tuổi, cha ông đột tử, toàn bộ tài sản thừa kế bị bọn quan độc tài sung công. Ông quyết định gia nhập quân đội phục vụ ở khu vực Tiểu Á. thời cuộc hỗn loạn đã trở thành môi trường đào tạo và đòn bẩy giúp cho Caesar sớm bộc lộ tài năng quân sự của mình.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 12.
Julius Caesar là một thủ lĩnh đầy khát vọng. Khi còn tham gia quân đội tham chiến tại Gaul (nay là Pháp và Bỉ), ông đánh bại những bộ lạc ở đây, trở thành thủ lĩnh vùng Gaul và xây dựng quân đội để bắt đầu thực hiện các hoạt động quân sự nhằm củng cố vị thế. Lúc đó, Caesar đã muốn trở thành một trong những lãnh đạo vĩ đại nhất của La Mã.
Ông cũng là nhà cầm quân thiện chiến, trước các đối thủ mạnh hơn nhiều lần cũng không làm ông sợ hãi. Trong trận chiến nổi tiếng Pharsalus, ông đã chỉ huy đội quân 22 ngàn người đánh bại hoàn toàn đội quân 60 ngàn binh sĩ của phe Quý tộc. Sau đó, Julius Caesar dẫn quân chinh phục vùng Trung Đông, Bắc Phi mở rộng bờ cõi La Mã. Ông cũng là người hỗ trợ về quân sự để Cleopatra có thể trở thành nữ hoàng Ai Cập. Với các chiến công hiển hách, khi trở lại La Mã, Julius Caesar được tôn làm nhà lãnh đạo tối cao của La Mã và tôn làm Cha của Đất nước.
Ngay từ thuở thiếu thời, dù không giàu có nhưng gia đình Julius Caesar đã mời một nhà hùng biện nổi tiếng về dạy dỗ ông. Sau này, để hoàn chỉnh kỹ năng của mình, Julius Caesar còn theo học một nhà hùng biện nổi tiếng khác của La Mã. Với tài hùng biện xuất sắc, ông đã thuyết phục được một lực lượng hùng mạnh phò trợ mình. Ngoài ra, ông cũng chiếm được sự trung thành tuyệt đối của quân sĩ dưới quyền.
Mật mã thành công của các đế chế hùng mạnh nhất trong lịch sử - Ảnh 13.
Đối với bản thân, Julius Caesar cũng vô cùng khắt khe. Ông tập luyện và sinh hoạt như một chiến binh, ông có khả năng sử dụng kiếm và cưỡi ngựa xuất sắc cùng sức chịu đựng đáng kinh ngạc. Trên trận chiến, ông không phải là vị tướng đi sau hàng quân mà luôn luôn là người đi đầu dẫn dắt. Khi nhìn thấy vị chủ tướng vung kiếm hô vang lời xung kích, đội quân La Mã đã vùng lên như vũ bão, bất chấp lực lượng đối địch, bất chấp địa hình, thời tiết… và họ đã trở thành đội quân làm nên sự vĩ đại của đế chế La Mã.