Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Đổ bộ và chống đổ bộ đường biển

TPO - Các chiến địch đổ bộ phụ thuộc vào mục tiêu đặt ra, giới hạn không gian chiến trường và nhiệm vụ thực hiện được chia thành 3 hình thức tác chiến: Xâm chiếm, Đánh chiếm và Đột kích. NATO còn có hình thức chiến dịch Nghi binh và Chiến dịch đổ bộ di tản. 


Trong giai đoạn ngày nay, để vươn đến một nền kinh tế hải dương, lực lượng Hải quân các nước đang phát triển mạnh mẽ cả về vũ khí trang bị và khoa học công nghệ. Học thuyết sử dụng lực lượng Lính thủy đánh bộ đang được coi trọng như là một công cụ đa năng nhằm chiếm lĩnh, thống trị những khu vực kinh tế quan trọng trên biển, đồng thời giải quyết các mâu thuẫn, xung đột và chiến tranh cục bộ trong khu vực. Điểm then chốt trong học thuyết này chính là Nghệ thuật chiến dịch đổ bộ đường biển của Lính thủy đánh bộ.
Tiền Phong giới thiệu các phương án, hình thức đổ bộ và chống đổ bộ đường biển trong chiến tranh hiện đại qua kinh nghiệm thực tế của một số cường quốc quân sự như Mỹ, NATO, Nga...
Đổ bộ đường biển
Đổ bộ đường biển.

Lực lượng lính thủy đánh bộ (LTĐB)
Số lượng lính thủy đánh bộ Mỹ khoảng hơn 200.000 sĩ quan và binh sĩ. Trong giai đoạn hiện nay lực lượng thường trực chiến đấu của Lính thủy đánh bộ chiến khoảng 172 nghìn sĩ quan và hạ sĩ quan, binh sĩ, dự bị động viên chiếm khoảng 42 nghìn binh sĩ. Cơ cấu biên chế của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ có 3 sư đoàn lính thủy đánh bộ, 3 trung đoàn không quân (1, 2 và 3) 3 phân đội trinh sát, 3 phân đội đảm bảo hậu cần kỹ thuật, các tiểu đoàn đảm bảo an ninh cho những hoạt động đối ngoại của chính phủ, các đơn vị huấn luyện đào tạo và các phân đội huấn luyện. Một sư đoàn viễn chinh là lực lượng dự bị của Lính thủy đánh bộ.
Lực lượng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ được dự kiến sử dụng trong biên chế tổ chức cấp chiến dịch: Ba sư đoàn lính thủy đánh bộ viễn chinh, ba lữ đoàn viễn chinh và 7 tiểu đoàn (11,13,15,22,24,26,31). Một sư đoàn viễn chính có khoảng 50 nghìn người, bao gồm sư đoàn LTĐB, và các tiểu đoàn đánh bộ. Một sư đoàn viễn chinh có quân số khoảng 50 nghìn sĩ quan binh sĩ, sư đoàn được biên chế sư đoàn lính thủy đánh bộ, một trung đoàn không quân lính thủy đánh bộ, phân đội trinh sát và phân đội hậu cần kỹ thuật.
Một lữ đoàn viễn chính bao có quân số khoảng 16 nghìn binh sĩ, có trong biên chế một trung đoàn tăng cường (2 – 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ với các đơn vị tăng cường theo biên chế), một phân đội không quân hỗn hợp và một phân đội hậu cần kỹ thuật cấp lữ đoàn..
Tiểu đoàn viễn chinh lính thủy đánh bộ bao gồm có khoảng 2,5 nghìn sĩ quan binh sĩ (bao gồm có một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ với các đơn vị thuộc quyền tăng cường, một tiểu đoàn không quân hỗn hợp, phân đội trinh sát và phân đội hậu cần kỹ thuật..
Để tăng cường khả năng cơ động chiến lược của lực lượng lính thủy đánh bộ, có triển khai 3 liên đội tầu kho hàng (tổng cộng 14 tầu) được đậu tại Biển Ấn Độ Dương (đảo Diego Garcia), trên Thái Bình Dương tại quần đào Guam và tại Biển Địa Trung Hải. Trên boong tầu có lưu kho vũ khí trang bị hạng nặng cho 3 sư đoàn viễn chinh tuyến 1 của lực lượng lính thủy đánh bộ, quân số biên chế 17300 binh sĩ với đầy đủ cơ số cơ sở vật chất hậu cần kỹ thuật, đảm bảo có thể triển khai các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trong thời gian 30 ngày liên tục. (mỗi sư đoàn có 58 xe tăng, 36 khẩu pháo – cối đi cùng từ 24 đến 81 mm. 100 xe bộ binh cơ giới lội nước BTP, 30 xe thiết giáp LAV, 6 tổ hợp tên lửa phòng không, 96 tổ hợp tên lửa chống tăng TOW, 96 tổ hợp tên lửa chống tăng Dragon
Vũ khí trang bị của lữ đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ được lưu giữ trong các kho quân dụng ở bờ biển Na Uy. Trong biên chế của Lực lượng hải quân Mỹ có 35 tầu đổ bộ, 4 tầu chỉ huy lực lượng đổ bộ, 11 tầu đổ bộ đa nhiệm, 12 tầu đổ bộ có sàn và hầm chứa máy bay trên boong tầu cho khả năng đổ bộ đường không, 8 tầu vận tải kiêm cầu tầu cơ động, và 334 xuồng độ bộ các loại.
Trong khuôn khổ các tài liệu nghiên cứu về "Sự phát triển của lực lượng đổ bộ Mỹ trong giai đoạn đến năm 2025” có kế hoạch trên cơ sở luân phiên trực chiến đảm bảo sự hiển diện trên năm khu vực hải dương quan trọng của thế giới lực lượng viễn chinh chủ lực mà nòng cốt là các sư đoàn viễn chinh của lính thủy đánh bộ Mỹ. Trong đó, cơ cấu biên chế tổ chức của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ theo truyền thống sẽ bao gồm các các lực lượng trên mặt đất, trên không và trên biển, sử dụng Tập đoàn quân lực lượng LTĐB được thực hiện trong cơ cấu biên chế tổ chức liên quân, bao gồm cả các lượng lượng đặc nhiệm của các cơ quan quyền lực nhà nước Mỹ và lực lượng tham gia các chiến dịch đặc biệt. .
Để thực hiện được sứ mệnh do chính phủ Mỹ giao cho, Bộ Tư lệnh lực lượng Lính thủy đánh bộ Mỹ yêu cầu 31 tầu đổ bộ thế hệ mới, trong đó có 10 tầu đổ bộ có hầm chứa trực thăng đổ bộ và sân bay trực thăng model San Antonio.
Trong khu vực có tầm quan trọng chiến lực của Bộ tư lệnh khối quân sự NATO tại Địa Trung hải có một tiểu đoàn, hai trung đoàn và 5 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ. Trong nhiệm vụ đảm nhiệm phân vùng khu vực của Thái Bình Dương cơ cấu biên chế của lực lượng hải quân có: Khu vực Trung Quốc 2 tiểu đoàn, khu vực Hàn Quốc 2 sư đoàn và một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, Khu vực Đài Loan 3 lữ đoàn lính thủy đánh bộ, khu vực Biển Đông – 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ; Thái Lan – một sư đoàn lính thủy đánh bộ, trong khu vực Indonesia – 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, tại Philippinnes có 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ.
Nhiệm vụ cơ bản của các đơn vị hợp thành và các phân đội của lực lượng lính thủy đánh bộ, đó là tham gia tác chiến hiệp đồng quân binh chủng với các lực lượng khác của Hạm đội, lực lượng Lục quân và lực lượng không quân trong các chiến dịch đổ bộ với chức năng là lực lượng đổ bộ thê đội I trong đội hình tấn công thứ nhất, với nhiệm vụ đánh chiếm bàn đạp tấn công trên bờ biển của đối phương, tạo điều kiện thuật lợi cho các lực lượng chủ yếu đổ bộ lên bờ.
Các mô hình chiến dịch đổ bộ (cấp chiến dịch)
Chiến dịch đổ bộ theo quan điểm bộ tổng tư lệnh lực lượng vũ trang các nước Phương Tây là: chiến dịch tấn công, được triển khai từ hướng biển lên đất liền bằng lực lượng đổ bộ đường biển của lính thủy đánh bộ và các lực lượng khác trên các chiến hạm, bao hàm cả đổ bộ lực lượng lên khu vực đối phương đang chiếm giữ và phòng thủ. Chiến dịch đổ bộ có thể được triển khai để thực hiện các nhiệm vụ quan trọng sau: nhằm mục đích liên kết phối hợp với các quân binh chủng khác, tiến hành các hoạt động tác chiến tiến công trên hướng biển; chiếm lĩnh các căn cứ và mục tiêu quan trọng của lực lượng hải quân đối phương, tấn công đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trên vành đai phòng thủ bờ biển đối phương, các quần đảo và đảo đơn lẻ, chiếm lĩnh các vùng nước có dòng chảy mạnh, triển khai các hoạt động phá hoại tuyến đường vận tải và các mục tiêu quân sự, kinh tế chính trị của đối phương trong vùng hậu phương của đối phương..
Theo quan điểm tác chiến của các bộ tổng tham mưu các lực lượng quân sự phương Tây, các chiến dịch đổ bộ đường biển của lính thủy đánh bộ có thể giải quyết các nhiệm vụ từ cấp chiến thuật, chiến dịch đến chiến lược. Các chiến dịch có không gian chiến trường rộng lớn và có ý nghĩa chiến lược với sự tham gia đến cấp sư đoàn viễn chinh nằm dưới quyền chỉ huy điều hành tác chiến của Bộ Tổng tham mưu liên quân (trong khối quân sự NATO sẽ là Bộ tổng tư lệnh các lực lương liên quân của khu vực tác chiến chiến lược NATO), trong các chiến dịch có không gian chiến trường nhỏ hơn – tư lệnh trưởng Hạm đội (Mỹ -Anh- Pháp). Chỉ huy trực tiếp các chiến dịch đổ bộ được thực hiện bởi Chỉ huy trưởng lực lượng hỗn hợp đổ bộ, khi đó sẽ thành lập Ban tham mưu hỗn hợp các lực lượng. Quyết định chỉ huy trưởng lực lượng đổ bộ được giao cho đại diện chính thức của lực lượng Hải quân, đồng thời cũng là chỉ huy trưởng của lực lượng hải quân tham gia chiến dịch đổ bộ.
Theo các quan điểm tác chiến hiện nay, các chiến địch đổ bộ phụ thuộc vào mục tiêu đặt ra, giới hạn không gian chiến trường và nhiệm vụ thực hiện được chia thành 3 hình thức tác chiến: Xâm chiếm, Đánh chiếm và Đột kích. Ngoài ra, khối NATO còn có hình thức chiến dịch Nghi binh và Chiến dịch đổ bộ di tản. .
Xâm chiếm – Là chiến dịch đổ bộ được tiến hành với sự tham gia của tất cả các lực lượng quân binh chủng với toàn bộ sức mạnh đột phá. Một trong những Ví dụ về Xâm chiếm trên địa bàn của nước Nga trong giai đoạn chiến tranh Crưm năm 1853 – 1856, quân đoàn viễn chinh của Anh – Pháp đã tiến hành chiến dịch xung phá lên bán đảo Crưm, được bảo vệ bằng tuyến phòng thủ của quân đội Nga. Tham gia chiến dịch có 89 chiến hạm, khoảng 300 tầu vận tải, đã đổ bộ lên bờ biển công phá tuyến phòng thủ của quân đội Nga khoảng 62.000 binh sĩ, thành công trong chiến dịch chống lại quân đoàn của tướng A.S.Mensisicov, có quân số trong biên chế là 34.000 binh sĩ.
Sơ đồ đổ bộ lên bờ biển Normandi nước Pháp
Sơ đồ đổ bộ lên bờ biển Normandi nước Pháp .

Chiến dịch Xâm chiếm lớn nhất là chiến dịch đổ bộ đường biển "Overlord" lên bờ biển Normandi của liên quân Anh – Mỹ lên phía Bắc của nước Pháp, bắt đầu vào 6 tháng 7 năm 1944. Trong biên chế tổ chức có 4 tập đoàn quân (2,8 triệu quân) 3 sư đoàn đổ bộ đường không, tham gia có 1213 chiến hạm, 5786 tầu vận tải và các tầu hộ tống, hậu cần kỹ thuật. Chiến dịch được tiến hành dưới sự chỉ huy của tướng Dwight D. Eisenhower. Sau trở thành Tổng thống của nước Mỹ.
Đánh chiếm: Chiến dịch đổ bộ có ý nghĩa chiến dịch, được thực hiện với mục tiêu đánh chiếm các khu vực và giữ khu vực đánh chiếm được như các khu vực ven biển, các khu vực bàn đạp đầu cầu, các căn cứ hải quân ven biển, các hải cảng lớn, các đảo đơn lẻ hoặc các cụm đảo, quần đảo. Thông thường chiến dịch được tiến hành bởi lực lượng của hải quân và lính thủy đánh bộ. Vào năm 1945, lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đã tiến hành các hoạt động tác chiến đánh chiếm hai hòn đảo quan trọng trong khu vực biển Nhật Bản.
Đột kích- là hình thức tác chiến cấp chiến thuật của lực lượng lính thủy đánh bộ. Đột kích thường tiến hành với mục đích trinh sát hỏa lực – phá hoại hoặc biểu dương thị uy lực lượng từ cấp đại đội đến cấp trung đoàn. Ví dụ lực lượng LTĐB Mỹ đánh chiếm 2 hòn đảo Faylah và Bubiyan trong Vịnh Persic trong Chiến dịch Lá chắn Sa mạc và Bão táp Sa mạc năm 1991. Các phân đội lính thủy đánh bộ Mỹ đã tiến hành đổ bộ lên đảo bằng trực thăng và các phương tiện đổ bộ khác, các tầu chiến sử dụng hỏa lực yểm trợ với chiều sâu chiến dịch lên đến 20 km
Sơ đồ tác chiến đổ bộ của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch bão táp Sa mạc
Sơ đồ tác chiến đổ bộ của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch bão táp Sa mạc.
Chiến dịch Bão táp Sa mạc 1991
Chiến dịch Bão táp Sa mạc 1991.

Chiến dịch Bão táp sa mạc lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ cũng đã sử dụng hình thức chiến thuật nhằm nghi binh đánh lừa giấu kín lực lượng và gây áp lực với sự tham gia lực lượng quân sự Đa quốc gia trong khu vực Vịnh Persic, tiến hành các hoạt động tác chiến trinh sát hỏa lực dọc bờ biển của Kuweit, rà quét thủy lôi và phá hủy các vật cản dưới nước, tập hợp 2 sư đoàn (1 và 2) lính thủy đánh bộ Mỹ triển khai dọc bờ biển. Nhưng các chiến dịch đột kích chỉ đánh chiếm các hòn đảo đơn lẻ, còn lực lượng chủ lực lính thủy đánh bộ tấn công dọc theo bờ biển của vịnh Pec xích.
Hình thức chiến thuật (di tản) được đề xuất để tiến hành di tản lực lượng từ bờ biển của đối phương với việc sử dụng lực lượng và hỏa lực từ phía biển. Có thể nói, mô hình chiến dịch này xuất phát từ hàng loạt các cuộc chiến tranh khu vực và xung đột khu vực mà trong đó, các hoạt động quân sự NATO không đem lại kết quả mong muốn.
Những chiến dịch đổ bộ điển hình

Chiến dich Mercury "Operation Mercury" 20 tháng 5 năm 1941. Quân đội phát xít Đức tiến hành chiến dịch đổ bộ đường biển kết hợp với đổ bộ đường không, trong đó đổ bộ đường biển đóng vai trò nghi binh do tướng Student chỉ huy đã đánh chiếm đảo Crete, một hòn đảo được coi là không thể đổ bộ thành công được. Với 22.750 binh sĩ thuộc lực lượng đổ bộ đường không đã đánh chiếm đảo, tiêu diệt và bắt sống hơn 40000 quân thuộc lực lượng quân Đồng Mình do Anh đứng đầu

Chiến dịch đổ bộ trên bãi biển Heron - Cu Ba. Rạng sáng ngày 15-4-1961, Các phi đội máy bay bất thần không kích lãnh thổ Cuba, nhằm triệt phá những mục tiêu quân sự, trước hết là hệ thống sân bay, cầu cảng. Hai ngày sau, ngày 17-4-1961, hơn 1.200 lính đánh thuê được CIA và Quân đội Mỹ huấn luyện, trang bị, tổ chức và chỉ huy, đổ bộ lên bãi biển Hy-rôn, nằm ở miền Trung Cuba, cách thủ đô La Habana khoảng 500 km. Trận đánh kéo dài từ sáng sớm ngày 17 đến cuối giờ chiều ngày 19-4-1961. toàn bộ lực lượng đổ bộ bị tiêu diệt. Đây là trận đổ bộ cấp chiến dịch có ý nghĩa chiến lược, nhưng đã không đánh giá đúng được tình hình quân đội Cuba, nên lực lượng đổ bộ đã bị bao vây, chia cắt và tiêu diệt toàn bộ.

Chiến dịch Just Cause - Panama. Từ 20.12.1989 đến 31.1.1990 do Tổng thống Mỹ George H. W. Bush ra lệnh xâm chiếm Panama, lật đổ và bắt giữ Tổng thống Noriega, tiêu diệt lực lượng quân đội Panama. Lực lượng tham gia 26000 quân thuộc lực lượng đổ bộ đường không và lực lượng lính thủy đánh bộ. Quân đội Panama (PDF) bị đánh tan rã và thiệt hại nặng nề, tổng thống Noriega bị bắt và bị xử 40 năm tù trên đất Mỹ.
Chuẩn bị và lên kế hoạch chiến dịch đổ bộ
Không phụ thuộc vào cấp độ của các chiến dịch đổ bộ đường biển. Hình thức chiến dịch đổ bộ bao gồm có năm bước thực hiện: Lên kế hoạch đổ bộ, đưa lực lượng đổ bộ lên các tầu đổ bộ và các chiến hạm, diễn tập thử đổ bộ lực lượng lên bờ, triển khai hành quân vượt biển, đổ bộ lính thủy đánh bộ và các hoạt động tác chiến trên bờ biển..
Sơ đồ tổng quan tiến hành một chiến dịch đổ bộ đường biển
Sơ đồ tổng quan tiến hành một chiến dịch đổ bộ đường biển.

Kế hoạch tác chiến đổ bộ
Bước I: lên kế hoạch bao gồm giai đoạn thời gian tính từ thời điểm nhận được chỉ thị của cơ quan tham mưu cấp trên về nhiệm vụ triển khai chiến dịch đổ bộ cho đến điểm bắt đầu chiến dịch. Trong tiến trình lập kế hoạch sẽ nghiên cứu các vấn đề về điều hành, liên kết phối hợp, hỏa lực không quân yểm trợ, cơ động hành quân trên biển, đổ bộ lực lượng và tổ chức đánh chiếm bàn đạp đổ bộ. Thời gian chuẩn bị lên kế hoạch phụ thuộc vào quy mô không gian chiến trường và độ phức tạp của chiến dịch. Thông thường được tính là: để lên kế hoạch đổ bộ cấp tiểu đoàn cần khoảng thời gian không dưới 15 ngày, trung, lữ đoàn không dưới 30 ngày, sư đoàn – 60 ngày. Lên kế hoạch đổ bộ các chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược, được tiến hành với khoảng thời gian lên đến nhiều tháng ( 3-4 tháng).
Tập kết và đưa lực lượng lên hạm tầu
Bước II. Đưa lực lượng đổ bộ và vũ khí phương tiện lên tầu là giai đoạn tập trung lực lượng và vũ khí trang bị, phương tiện đổ bộ, vận chuyển lên các tầu đổ bộ và các chiến hạm được phân công. Sau khi hoàn tất quá trình chuẩn bị chiến đấu cho các lực lượng cho chiến dịch, các lực lượng được cơ động bằng phương tiện cơ động trên mặt đất về khu vực tập kết, gần với khu vực và các điểm chuyển lực lượng lên tầu. Cơ động di chuyển bằng phương tiện mặt đất được thực hiện theo cấp tiểu đoàn bằng xe cơ giới (ô tô vận tải), nhưng khu vực xa hơn được cơ động bằng tầu hỏa, tầu hỏa cao tốc hoặc máy bay vận tải. Để phân tán lực lượng đề phòng bị tập kích, các lực lượng thông thường được vận tải bí mật, các hải cảng, căn cứ chuyển quân lên tầu có thể có từ hai đến nhiều hơn, với khoảng cách cách nhau từ 150 km đến 300 km.
Các xe bộ binh cơ giới lội nước trên tầu đổ bộ
Các xe bộ binh cơ giới lội nước trên tầu đổ bộ.

Các trạm vận chuyển lực lượng lên tầu có thể là các hải cảng quân sự, dân sự được trưng dụng, hoặc các khu vực được lắp đặt các trang bị vận chuyển, bốc xếp bến đỗ cầu tầu trên bãi biển nằm ngoài khu vực hải cảng. Lực lượng vận tải và phương tiện kỹ thuật tập trung tại điểm vận chuyển lên tầu thông thường được tập kết trước 24 h trước khi lên tầu. Các tầu đổ bộ, chiến hạm đổ bộ tiếp nhận lực lượng trước từ 1 đến 2 ngày tập trung neo đậu tại các vịnh kín và neo đậu gần với khu vực (hải cảng ) vận chuyển lực lượng lên tầu. Đồng thời tổ chức lực lượng phòng thủ bằng lực lượng không quân, lực lượng hải quân bảo vệ chống tấn công và lực lượng phòng thủ chống ngầm, đồng thời với lực lượng tuần tra canh gác của không quân căn cứ. Khi tiến hành các hoạt động đổ bộ với lực lượng là một sư đoàn viễn chinh lính thủy đánh bộ, trước 5 ngày đến khi tổ chức lực lượng hỗn lợp đổ bộ, bắt đầu xếp cơ sở vật chất đảm bảo xuống tầu, từ hai đến 3 ngày đưa các phương tiện hạng nặng (xe tăng, xe thiết giáp nặng, pháo binh hạng nặng, sau đó, trước 1 đến 2 ngày, các lực lượng phân đội của đơn vị đổ bộ.
Thời gian đưa binh lực và phương tiện chiến đấu cho một sư đoàn viễn chinh lính thủy đánh bộ (quân số khoảng 50 nghìn người) kéo dài khoảng 5 ngày, lữ đoàn ( đến 16 nghìn binh sĩ) kéo dài khoảng 2 ngày, tiểu đoàn (2500 binh sĩ và sĩ quan) trong vòng 24 giờ. Khu vực tập kết lực lượng (các đơn vị và phân đội) lính thủy đánh bộ gần kề với khu vực đưa lực lượng và vũ khí trang bị lên tầu. Trong khu vực tập kết, sư đoàn tập trung theo cấp tiểu đoàn (trên khoảng cách từ 2-4 km) trong các lán trại tạm thời. Chuyển binh lực và vũ khí trang bị thông thường trên nhiều khu vực, mỗi khu vực có nhiều điểm tập trung đưa lực lượng lên tầu.
Tập trung đưa lực lượng và vũ khí trang bị lên tầu tiền hành theo hai phương pháp, phương pháp «trong chiến đấu » và phương pháp «tổ chức hành chính». Phương pháp đưa lực lượng lên tầu "Trong chiến đấu” là phương pháp chủ yếu khi tiến hành các chiến dịch đổ bộ và được sử dụng để chuyển lực lượng chiến đấu tuyến thứ nhất (thê đội 1) của sư đoàn viễn chinh, khi triển khai đổ bộ lực lượng này trực tiếp từ tầu đổ bộ lên bờ biển đối phương mà không có phương tiện, trang bị (cầu tầu, bến cảng) với các phương tiện đổ quân chiến đấu. Trong trường hợp này, tập trung sự chú ý vào duy trì khả năng sẵn sàng chiến đấu cao nhất và sẵn sàng chiến đấu ngay khi cập bờ. Vì vậy, các lực lượng đổ bộ xuống bờ biển đối phương đầu tiên (tuyến thứ nhất – thê đội 1) được tập trung đưa lên tầu cuối cùng.
Phương pháp tập trung đưa lực lượng kiểu «Tổ chức hành chính» là phương pháp sử dụng tối đa khả năng vận tải của các tầu đổ bộ, tầu vận tải để chuyển quân, vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh và cơ sở vật chất hậu cần kỹ thuật. Vấn đề chiến thuật trong sử dụng lực lượng khi dùng phương pháp này không được đặt ra (không cần thiết), chính vì vậy nó phù hợp cho việc vận chuyển lực lượng thông thường hoặc các thê đội tiếp theo tính từ thê đội 2 (ví dụ: cơ động lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ từ căn cứ cấp châu lục này này sang căn cứ cấp châu lục khác – khu vực khác).
Để tính toán sức chứa của các tầu, chiến hạm đổ bộ, thông thường với một sư đoàn viễn chinh, khối lượng của một lính thủy đánh bộ với đầy đủ vũ khí trang bị khoảng 100 kg, chiếm một diện tích 0,3m2 và thể tích là 3m3. Với tất cả những nhu cầu cần thiết cho sinh hoạt, một tầu đổ bộ khi đủ quân, thể tích dư theo phương án tổ chức hành chính là khoảng 20%. Còn nếu sử dụng phương án trong chiến đấu sẽ trống đến 50% trên tầu.
Diễn tập đổ bộ
Bước III: Diễn tập đổ bộ lính thủy đánh bộ nhằm mục đích kiểm tra kế hoạch tác chiến được đề ra và quy trình đổ bộ, tập huấn cơ cấu tổ chức điều hành tác chiến và thông tin liên lạc. Trong quá trình diễn tập, các đơn vị tổ hợp quân binh chủng sẽ diễn tập đồng bộ hoặc theo từng đơn vị riêng biệt, đồng thời các ban chỉ huy và tham mưu áp dụng thử 1 hoặc nhiều kịch bản đổ bộ, sát với thực tế chiến đấu. Đặc biệt chú ý đến việc tập huấn liên kết phối hợp, điều khiển hỏa lực và không quân yểm trợ khi lính thủy đánh bộ đổ bộ và trận đánh chiếm bàn đạp đầu bãi đổ bộ, trước khi diễn tập và trong quá trình thực hiền diễn tập luôn được cập nhật và thông báo để các cấp từ chỉ huy đến binh sĩ hiểu được và từ đó đánh giá được cấp độ hiểu biết rõ ràng về kế hoạch đổ bộ của cấp trên. Diễn tập đổ thường được triển khai với những biện pháp bảo đảm bí mật, không bộc lộ ý đồ tác chiến, mục tiêu tác triến và nhiệm vụ được giao cho lực lượng lính thủy đánh bộ. Các cuộc diễn tập, thông thường được tiến hành lúc rạng đông và theo thời gian không được vượt quá 2 ngày.
Cơ động hành quân trên biển
Bước IV: Các đơn vị tập hợp quân binh chủng triển khai cơ động hành quân trên biển bắt đầu từ thời điểm các tầu đổ bộ, vận tải nhổ neo rời khỏi điểm tâp trung đưa lực lượng lên tầu cho đến thời điểm đến khu vực đổ bộ. Khi các phân đội quân binh chủng đã được tập trung lên tầu (diễn tập), các tầu đổ bộ lập tức dời bến cảng dưới sự yểm trợ của các tầu hộ tống cơ động hành quân đến khu vực tổ chức theo biên chế thành hải đoàn đổ bộ binh chủng hợp thành. Các tầu đổ bộ từ điểm tập trung lực lượng khởi hành ra khơi thông thường vào thời gian ban đêm, tối trời.
Khu vực tổ chức theo biên chế thành đơn vị binh chủng hợp thành cách xa khu vực tập trung lực lượng tạm thời là 40 dặm (75km), hải chiến đoàn quân binh chủng hợp thành có khoảng cách đến 200 dặm (370km). Trong khu vực này với mục tiêu giữ được điều kiện thuận lợi cho điều hành, kiểm soát các hoạt động của chiến dịch, trước thời điểm các tầu đổ bộ đến điểm tập kết biên chế đội hình đơn vị đổ bộ binh chủng hợp thành hoặc hải chiến đoàn, lực lượng máy bay chủ lực không quân hải quân và các đội tầu tìm kiếm tấn công chủ lực. Để biên chế đơn vị đổ bộ binh chủng hợp thành trên biển cần 3-4h, các Hải chiến đoàn quân binh chủng hỗn hợp khoảng từ 20 – 24 giờ.
Lực lượng chống ngầm và lực lượng phòng không được tổ chức trong đội hình của lực lượng đổ bộ, triển khai thành các đơn vị không quân cường kích đánh chặn và các liên đội chiến hạm tìm kiếm tấn công chủ lực. Hai lực lượng không quân và hải quân sẽ hình thành đội hình cảnh giới và yểm trợ bảo vệ các tầu thuộc đơn vị đổ bộ trong xuốt thời gian cơ động trên biển. Thông thường, để bảo vệ cho lực lượng đổ bộ cơ động có quân số và vũ khí trang bị của một sư đoàn lính thủy đánh bộ viễn chinh, sẽ bao gồm có từ 1 – 2 liên đội máy bay cụm tầu tác chiến chủ lực, đơn vị chống ngầm và chiến hạm nổi có từ 10 đến 15 tầu hộ tống đa nhiệm, các tầu tuần tiễu tên lửa và phóng ngư lôi thực hiện nhiệm vụ cảnh giới đánh chặn. Lực lượng cảnh giới của một tiểu đoàn viễn chinh có thể có từ 4 đến 6 chiến hạm.
Sơ đồ cơ động đổ bộ và đổ bộ thẳng đứng bằng trực thăng trên tầu sân bay
Sơ đồ cơ động đổ bộ và đổ bộ thẳng đứng bằng trực thăng trên tầu sân bay.

Hành quân cơ động trên biển của các đơn vị quân binh chủng hợp thành được bố trí một đội hình cảnh giới trực tiếp, bao gồm các tầu thuộc lớp tầu khu trục hoặc hộ tống, phân bổ theo thông lệ thành đội hình vòng cung trên khoảng cách từ 20 – 50 sải, tương đương với 4-9 km so với tầu trung tâm (tầu dóng chỉnh đội hình). Trên các hướng có nguy cơ có tầu ngầm đối phương, lực lượng đổ bộ sẽ đưa liên phi đội máy bay cường kích chống ngầm chủ lực lên khoảng cách 30 đến 130 hải lý, tương đương với 55 – 240 km. Và lực lượng liên đội tầu truy tìm – chống ngầm (20 – 70 hải lý). Để sẵn sàng phòng không chống lực lượng không quân đối phương, che chắn cho tầu đổ bộ, nhóm tầu tuần dương tên lửa hoặc khu trục mang tên lửa phòng không được đưa lên phía trước trên khoảng cách từ 20 đến 40 dặm (18 – 75km).
Bảo vệ từ trên không do lực lượng không quân hải quân tiêm kích của tầu sân bay đảm nhiệm. Các máy bay tiêm kích đánh chặn được cơ động lên hướng có nguy cơ không kích của đối phương trực chiến trên khoảng cách là 150 dặm (280 km) so với đoàn tầu đổ bộ, trên mỗi hướng có nguy cơ không kích của đối phương sẽ có từ 1 đến 2 máy bay tiêm kích ở độ cao từ 3000 đến 14.000m, bay trực chiến trong khoảng thời gian từ 1,5 – 2h và thay bằng phi đội khác. Lực lượng chống ngầm cho đoàn tầu đổ bộ và tầu vận tải thực hiện nhiệm vụ ở khoảng cách gần, chống ngầm trực tiếp là 50 dặm, ở tầm trung (đến 130 dặm) máy bay chống ngầm và trực thăng chống ngầm, các chiến hạm chống ngầm, tầm xa ( khoảng 200 dặm tính từ vành đai phòng thủ của đoàn tầu đổ bộ - máy bay tuần tiếu của căn cứ (2 – 5) chiếc máy bay cường kích đánh chặn.
Lực lượng phòng thủ tấn công chủ lực của cụm quân đổ bộ là liên đoàn không hải quân hỗn hợp: Liên đoàn tấn công chủ lực hỗn hợp bao gồm: tầu sân bay, 8 – 10 tầu hộ tống và đảm bảo, 1-2 tầu ngầm (bao gồm cả tầu ngầm nguyên tử đa nhiệm). Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự Mỹ, vị thế của tầu sân bay đóng vai trò quan trọng then chốt trong lực lượng tấn công chủ lực trong nhiệm vụ bảo vệ đoàn tầu đổ bộ của hạm đội.
Trong giai đoạn hiện nay có 9 nước có tầu sân bay trong biên chế lực lượng Hải quân. Mỹ có 11 tầu sân bay, nhưng bộ tư lệnh Hải quân Mỹ đã gửi đến Quốc hội Mỹ đề nghị giảm xuống tạm thời còn 10 tầu trong giai đoạn từ 2012 – 2015. Anh quốc có trong biên chế 3 tầu sân bay lớp"Invincible" và có 2 chiếc đang neo đậu từ seria "Nữ hoàng Elisabet”. Ý có hai tầu sân bay"Conti di Cavour" và "Giuseppe Garibaldi". Ấn độ có tầu "Viraat" Tây Ba Nha tầu sân bay"Principe de Asturias" Brazin có tầu sân bay "Sao Paulo" Pháp có tầu "Charles de Gaulle", và Thái Lan có tầu - "Chakri Narubet". Chiếc tầu duy nhất của Hải quân Liên bang Nga đang sử dụng là tầu Đô đốc Kyrnhetsov. Đồng thời Trung Quốc cũng đang chạy thử tầu sân bay Varyar ( trước năm 1990 còn có tên là Riga) mua của Ucraina và đặt tên là Liêu Ninh. Tầu hiện đang đã biên chế vào hạm đội Bắc Hải đóng ở Thanh Đảo.
Trong giai đoạn cuối cùng của hành quân cơ động vào khu vực đổ bộ, theo kế hoạch đã được xác lập cho chiến dịch đổ bộ, có thể tiến hành chuẩn bị bãi đổ bộ bằng binh lực của thê đội 1, lực lượng này đã tập kết trong khu vực đổ bộ từ 3 – 4 ngày và phân tán khỏi đội hình thê đội 1.
Nhiệm vụ chuẩn bị khu vực đổ bộ bao gồm: Tiêu diệt và phá hủy binh lực, sinh lực đối phương đang phòng thủ trên bờ biển (trận địa tên lửa và pháo binh, sở chỉ huy điều hành tác chiến, thông tin liên lạc và các mục tiêu quan trọng khác); phát hiện và phá hủy các bãi mìn, tiêu diệt các tầu ngầm của đối phương, chiến hạm và các tầu xuồng chiến đấu, đang neo đậu hoặc hoạt động trong khu vực diễn ra chiến dịch đổ bộ; tiến hành các hoạt động trinh sát, phát hiện chính xác các công trình chống đổ bộ, hệ thống phòng thủ, biên chế tổ chức chống lực lượng đổ bộ, hệ thống công trình công binh, tìm kiếm và phát hiện lực lượng dự bị thê đội II, chuẩn bị sẵn sàng các đường cửa mở qua bãi mìn và hệ thống vật cản chống đổ bộ dưới nước và trên bờ biển, đặt các vật chuẩn cọc tiêu chỉ thị khu vực đổ bộ; tiến hành đổ bộ nghi binh đối phương hướng khác khu vực đổ bộ lực lượng chủ lực, tiến hành đấu tranh và chế áp điện tử, thu thập các điều kiện thủy văn, môi trường. Trong trường hợp thuận lợi, hình thức chiến thuật tấn công chuẩn bị bãi đổ bộ có thể không cần thực hiện nếu yếu tố bí mật, bất ngờ được đảm bảo.
Khi lực lượng chủ yếu tập kết vào khu vực đổ bộ, các lực lượng chính của cụm đơn vị hỗn hợp quân binh chủng triển khai về các điểm và khu vực đã được phân công neo đậu và cơ động. Lực lượng không quân hải quân chủ lực làm nhiệm vụ che chắn và bảo vệ các chiến hạm neo đậu và cơ động triển khai thành các liên đội công kích chủ lực, cơ động trên khoảng cách 100 – 120 dặm (180 – 220 km) so với bờ biển. Ở những hướng có thể có tầu ngầm đối phương tiến hành hoạt động tác chiến của các liên đội tầu tìm kiếm – tấn công trên khoảng cách đến 70 dặm (130km) so với bờ biển.
Đổ bộ đường biển
Bước V: Hoạt động tác chiến đổ bộ đường biển bao gồm: dọn khu vực chuẩn bị đổ bộ, hỏa lực của pháo binh và không quân dòn đường cho cuộc đổ bộ và yểm trợ. Triển khai các tầu và chiến hạm đổ bộ vào đội hình đổ bộ, triển khai binh lực và vũ khí trang bị trên các phương tiện đổ bộ, lực lượng đổ bộ dưới sự yểm trợ của hỏa lực cơ động từ tầu vào khu vực đổ bộ, thê đội 1 đổ bộ lên khu vực bờ biển, hoạt động tác chiến của lực lượng khi đánh chiếm đầu cầu và mở rộng bàn đạp tấn công, vận tải cơ sở vật chất, đạn và vật chất y tế, cơ động vận chuyển lực lượng thê đội hai và tiếp theo; các thê đội mở rộng hoạt động tác chiến, thực hiện nhiệm vụ được giao.
Một trong những phương án tác chiến được coi là thích hợp nhất do có tình động bộ cao trong tác chiến là: 2/3 quân số của thê đội 1 được đổ bộ bằng các phương tiện đổ bộ trên biển, 1/3 quân số được đổ bộ thẳng đứng, từ trên không bằng các phương tiện, máy bay trực thăng vào sâu trong tuyến phòng thủ bờ biển đối phương. Thời gian tiến hành đổ bộ kéo dài trong khoảng từ 2 -3 ngày đối với một sư đoàn lính thủy đánh bộ viễn chinh, thê đội 1 của sư đoàn lính thủy đánh bộ (tương đương lữ đoàn viễn chinh) chiếm khoảng 8 đến 12 giờ, tiểu đoàn – khoảng từ 1,5 đến 3 giờ. Khu vực đổ bộ của sư đoàn được chia thành các khu vực nhỏ hơn của các trung đoàn và được đánh dấu trên bản đồ bằng các mầu khác nhau ( đỏ, vàng…), các khu vực của trung đoàn lại chia thành các khu vực đổ bộ của các tiểu đoàn theo mã số (đỏ 1, đỏ 2; vàng 1, vàng 2…)
Sơ đồ phân khu đổ bộ đánh dấu theo mầu
Sơ đồ phân khu đổ bộ đánh dấu theo mầu.

Từ thời điểm từ tầu đổ bộ tập kết tại khu vực đổ các phương tiện đổ bộ xuống nước, neo đậu hoặc di chuyển cơ động, lực lượng đổ bộ (lính thủy đánh bộ) vào các xe bộ binh cơ giới lội nước và các xuống đổ bộ, các phương tiện sau khi đủ quân số bắt đầu xuống nước và theo lộ trình và đội hình đã được vạch ra (dãn cách, hướng tiến, tốc độ…) tiếp cận tuyến triển khai đội hình đợt (sóng). Sau khi nhận đủ quân số, các xuồng đổ bộ và xe bọc thép thê đội 1 của đợt 1 xuống nước, tiếp cận tuyến triển khai đội hình đợt 1 khoảng từ 1000 – 1500m đối với lực lượng phòng thủ yếu, đến 4000 m cách bờ biển đối với lực lượng phòng thủ tương đương, sử dụng tốc độ cao nhất (8-10 knots) dưới sự yểm trợ và phát huy hỏa lực của tất cả các loại vũ khí yểm trợ, chi viên tiến thẳng lên bờ. Phương thức này áp dụng cho tất cả các đợt tấn công tiếp theo nhưng với các tuyến triển khai đội hình có thay đổi khoảng cách so với bờ biển trong trường hợp hỏa lực phòng thủ mạnh.
Sơ đồ đổ bộ bằng phương tiện lội nước và phát triển tấn công từ bàn đạp
Sơ đồ đổ bộ bằng phương tiện lội nước và phát triển tấn công từ bàn đạp .

Sử dụng hỏa lực của pháo – tên lửa hạm tầu, các đòn tấn công của không quân, sử dụng hỏa lực cận chiến, các phân đội lính thủy đánh bộ đánh chiếm tuyến phòng thủ bờ biển của đối phương. Các bãi mìn, vật cản được phá hủy bởi hỏa lực pháo, tên lửa trong thời gian bắn chuẩn bị và dọn bãi, tạo thành hành lang vượt qua khu vực phòng thủ. Đại đội đổ bộ của thê đội 1 đổ quân không được vượt quá 2 đợt, có nghĩa là trong vòng từ 5 đến 10 phút trên mỗi đoạn bờ biển đổ bộ tham chiến không dưới một đại đội lính thủy đánh bộ. Thông thường khi đổ bộ sau từ 6 đến 9 đợt tấn công chuyển quân, sẽ đưa quân số tham chiến lên đến tiểu đoàn lính thủy đánh bộ thuộc thê đội 1 với đầy đủ vũ khí trang bị, thuốc và cơ sở vật chất y tế, cơ số đạn và vật chất đi cùng trong các đại đội.
Sau khi kết thúc giai đoạn một của các đợt đổ bộ (từ 1 đến 1,5 giờ), lực lượng tham chiến trên bờ biển đạt cấp tiểu đoàn thiếu phân đội hậu cần kỹ thuật. Nhiệm vụ của các tiểu đoàn lính thủy đánh bộ là chiếm lĩnh khu vực bàn đạp có diện tích khoảng 5 x 5 km, tạo điều kiện địa hình và công sự tạm thời, vật che chắn và hỏa lực trực tiếp bảo vệ thuận lợi cho giai đoạn đổ bộ lực lượng dự bị (thê đội II của trung, lữ đoàn). Trong điều kiện thê đội I (các tiểu đoàn hoàn thành nhiệm vụ, các hoạt động tác chiến phát triển thuận lợi) các đơn vị tham gia đổ bộ sẽ vận chuyển các lực lượng yểm trợ hỏa lực, tăng cường quân số cho thê đội 1, đổ bộ thê đội II mở rộng trận địa, vận chuyển cơ sở vật chất như: lương thực, thuốc và vật phẩm y tế, đạn và vật chất đi cùng theo "Yêu cầu” của lực lượng đổ bộ thê đội I.
Trong một số trường hợp, các đợt đổ bộ theo "Yêu cầu” sẽ không tổ chức, thay vào đó các xuồng đổ bộ cao tốc và máy bay trực thăng vận tải chuyên dụng sẽ thực hiện nhiệm vụ tăng cường lực lượng và cơ sở vật chất đảm bảo khi các phương tiện này được giải phóng khỏi nhiệm vụ đổ bộ theo đợt (sóng). Lực lượng đổ bộ thê đội 1 hình thành các đơn vị phòng thủ bờ biển hướng nội địa, hình thành các khu vực hành lang neo đậu, các khu vực neo đậu này được sử dụng để đổ bộ các phương tiện không lội nước như xe tăng từ các tầu vận tải có cửa đổ bộ hoặc các tầu vận tải – phà (Ro – Ro). Lực lượng thê đội II của trung, lữ đoàn, theo điều lệnh tác chiến, được tăng cường các phân đội xe tăng, dưới sự yểm trợ của hỏa lực pháo binh chiến trường, phát triển những kết quả tấn công của thê đội I và lực lượng đổ bộ thẳng đứng (trực thăng chiến đấu) , chọc thủng tuyến phòng thủ của đối phương và phát triển theo hướng tấn công chính.
Đồng thời đánh tan và tiêu diệt các đơn vị phòng thủ tuyến 1 của hệ thống phòng thủ bờ biển đối phương, kết nối các bàn đạp tấn công đã chiếm lĩnh được thành tuyến tấn công thứ nhất. Mục đích cuối cùng của các hoạt động tác chiến đổ bộ trên bờ biển đối phương là tiêu diệt và vô hiệu hóa các cụm tập trung binh lực đối phương, đánh chiếm các mục tiêu ven biển và hình thành tuyến bàn đạp đầu cầu, diện tích của các bàn đạp tấn công vào sâu trong lục địa sẽ là: - cấp tiểu đoàn viễn chinh hỗn hợp 5 x 5 km, trung lữ đoàn viễn chinh hỗn hợp 7 - 10 x 10 - 15 km; sư đoàn viễn chinh hỗn hợp 20 – 30 x 30 -40 km.
Đổ bộ bằng xe thiết giáp lội nước
Đổ bộ bằng xe thiết giáp lội nước.
Đổ bộ xe tăng bằng tầu đổ bộ kiểu - Phà (Ro - Ro)
Đổ bộ xe tăng bằng tầu đổ bộ kiểu - Phà (Ro - Ro).
Đổ bộ bằng tầu cao tốc chạy trên đệm khí
Đổ bộ bằng tầu cao tốc chạy trên đệm khí.

Ngay sau khi đổ bộ lên bờ biển và chiếm lĩnh thành công tuyến phòng thủ bờ biển thứ nhất của đối phương theo nhiệm vụ đặt ra, chỉ huy trưởng lực lượng đổ bộ phải dùng các hoạt động tấn công phát triển theo chiều sâu và hình thành tuyến phòng thủ vững chắc ngay cả trong trường hợp lực lượng phòng thủ đối phương tan ra, có thuận lợi cho phát triển tiếp theo.
Đổ bộ bằng máy bay trực thăng được thực hiện đồng thời với đổ bộ bằng phương tiện đường thủy hoặc sau khoảng 30 – 40 phút sau giờ H. phụ thuộc vào biên chế tổ chức của lực lượng, đổ bộ có thể tiến hành theo chiều sâu chiến dịch từ 5 km đến 15 km tính từ bờ biển (tiểu đoàn theo chiều sâu nhiệm vụ là 10 đến 15 km, đại đội từ 3 – 5 km). Đổ bộ đại đội lính thủy đánh bộ được thực hiện bằng 16 máy bay trực thăng đổ bộ hạng trung CH-46 Sea Knight hoặc 10 máy bay trực thăng đổ bộ hạng nặng СН-53 Sea Stallion. Để vận chuyển và đổ bộ lực lượng chủ yếu của một tiểu đoàn cần sử dụng 70 máy bay trực thăng hoặc 70 lượt chuyến đổ bộ, và nếu vận tải đầy đủ một tiểu đoàn viễn chinh với vũ khí trang bị và cơ sở vật chất đảm bảo cần 200 chuyến bay của trực thăng đổ bộ. Các chuyến bay đổ bộ của trực thăng vận tải bay theo một lộ trình nhất định nhưng ở những độ cao khác nhau, trong khu vực đổ bộ tầm bay là 100 – 500 m, bay ngược trở lại ở độ cao từ 500 đến 1000m.

Điều hành tác chiến đổ bộ đường không được thực hiện bởi chỉ huy trưởng, tư lệnh đơn vị đổ bộ hỗn hợp quân binh chủng thông qua trung tâm điều khiển bay chiến thuật trên tầu chỉ huy. Trong thời gian 2 ngày liên tiếp, tần suất sử dụng máy bay trực thăng chiến đấu rất cao, từ 90 – 100% máy bay đang sẵn sàng chiến đấu với thời gian bay trong ngày là từ 6 đến 10 giờ bay, sau đó, máy bay trực thăng chiến đấu sẽ phải trải qua công đoạn kiểm tra, bảo trì và phục vụ kỹ thuật. Khi lên kế hoạch tác chiến có sử dụng máy bay trực thăng đổ bộ hoặc tác chiến đường biển, lượt bay đầu tiên tham chiến đến 90% máy bay trực thăng, lượt cất cánh thứ hai khoảng 80% máy bay có mặt trên boong tầu. Khi chiến dịch kéo dài, tần suất các chuyến bay sẽ giảm xuống còn từ 60 70% số lượng máy bay sẵn sàng chiến đấu với số giờ bay khoảng từ 2 đến 3 giờ trong ngày.
Sự phát triển tương lai của các chiến dịch đổ bộ đường biển
Bộ tư lệnh liên quân các lực lượng vũ trang khối quân sự Bắc Đại Tây Dương và nước ngoài trong giai đoạn hiện nay đang tiến hành đồng bộ tập hợp các giải pháp nhăm nâng cao khả năng đổ bộ bằng các phương tiện đường thủy và lực lượng lính thủy đánh bộ, phương án chủ yếu vẫn là tăng cường mua sắm các phương tiện chiến đấu hiện đại như: vũ khí trang bị trên tầu, mua sắm các loại tầu đổ bộ hiện đại và các xuồng đổ bộ tốc độ cao, đồng thời hoàn thiện công tác tổ chức chỉ huy lực lượng đổ bộ và hạm đội, cơ cấu tổ chức các đơn vị hỗn hợp viễn chinh lính thủy đánh bộ, trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong mô phỏng hóa chiến trường và tự động hóa hệ thống điều khiển chiến trường đổ bộ đóng một vai trò quan trọng.
Các chuyên gia nhận định rằng, trong tác chiến đổ bộ đường biển, đối với các lực lượng tương đương hiện nay (Trung Quốc, LNga), hoàn toàn có khả năng tổn thất chính trung tâm chỉ huy điều hành tác chiến trên tầu chỉ huy, đổ bộ. Do đó, nội dung tự động hóa và mô phỏng hóa chiến trường sẽ vẫn hoạt động bình thường theo chế độ đa kênh lưu trữ và truyền thống với chế độ bảo toàn hệ thống ngay cả khi trung tâm chỉ huy chính bị đánh trúng bằng tên lửa đạn đạo tập trung.
Đồng thời, các chuyên gia quân sự cũng nghiên cứu xem xét khả năng đổi mới nguyên tắc đổ bộ đường biển của các lực lượng lính thủy đánh bộ theo phương án " Đổ bộ ngoài đường chân trời” nội dung then chốt của hình thức tác chiến này là "khu vực đổ bộ nằm ngoài tầm quan sát của các trạm quan sát, trinh sát trên bờ biển và nằm ngoài vùng hỏa lực hiệu quả của vũ khí phòng thủ chống đổ bộ (30 – 50 dặm cách bờ biển). Hoạt động đổ bộ của các lực lượng lính thủy đánh bộ và phương tiện tác chiến được thực hiện bằng các tầu đổ bộ cao tốc – các tầu đổ bộ chạy trên đệm khí LСАС, trực thăng đổ bộ hạng nặng СН-53 Sea Stallion và máy bay vận tải cất cánh thẳng đứng như trực thăng МV-22А "Osprey".
Những chiếc MV-22 Osprey đã hoạt động tác chiến tại Iraq và Afganistan, đồng thời các phi đội máy bay chiến thuật F-35 Lightning II, như đã thông báo, có thể được đưa vào biên chế vào năm 2012. Đồng thời, việc sử dụng các phương tiện đổ bộ hiện đại thế hệ mới sẽ cho phép tăng cường năng lực đổ bộ của lính thủy đánh bộ, mở rộng diện tích khu vực bàn đạp đầu cầu và giảm thời gian vận chuyển binh lực tấn công đột phá của thê đội I từ 2 đến 3 lần. Đồng thời tăng cường cấp độ bí mật, bất ngờ đổ bộ trên nhiều khu vực khác nhau trên suốt chiều sâu phòng thủ, chia cắt, phân tán lực lượng đối phương. Giải pháp đổ bộ trên biển và trên không (sea – air) đáp ứng yêu cầu lực lượng lính thủy đánh bộ không bị phụ thuộc quá nhiều vào hỏa lực của chiến hạm và không quân hải quân chuẩn bị khu vực đổ bộ, yểm trợ và phát triển vào sâu tuyến phòng thủ đối phương.
Trong các cuộc xung đột khu vực tương lai gần, các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch của lực lượng lính thủy đánh bộ NATO và Mỹ nói riêng, các nước phát triển nói chung đóng vai trò quyết định, đặc biệt trong các vấn đề tranh chấp biển, quần đảo, đảo cũng như các hoạt động tấn công phá hoại, gây áp lực trong các cuộc chiến tranh xung đột trong khu vực. Lính thủy đánh bộ NATO và Mỹ có thể tham gia nhiều hình thức chiến dịch, từ tuyên bố, không tuyên bố đến những hoạt động có tầm cỡ chiến lược như tham gia vào những chiến dịch bạo loạn, lật đổ các nước có chủ quyền. Để tăng cường sức mạnh của lực lượng lính thủy đánh bộ, trong tương lai, lực lượng này sẽ có cơ cấu tổ chức biên chế rất đồng bộ, cấp độ tự động hóa và đồng bộ hóa cao, đồng thời được biên chế vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh với những công nghệ tiên tiến nhất trong lĩnh vực quân sự và lưỡng dụng.


Theo nhật xét của đại đa số các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực quốc phòng an ninh, trong nửa đầu thế kỷ 21, những nguy cơ tiềm ẩn làm mất ổn định sẽ hình thành trên các vùng nước ven bờ biển khoảng từ 200 – 300 km và các quần đảo, hải đảo.
Không phải là tình cờ khi Lầu Năm Góc quyết định tái cơ cấu các lực lượng vũ trang với nhiệm vụ sẵn sàng vô hiệu hóa mọi nguy cơ mất an ninh quốc gia từ hướng biển. Sự quan trọng trong nhiệm vụ bảo vệ vùng biển và hải đảo không phải là vấn đề phải tranh luận, bởi vì phần lớn biên giới và lợi ích kinh tế của quốc gia chạy dài trên sóng nước đại dương.
Nếu tính đến những kinh nghiệm chiến trường trong chiến tranh Iraq, vào giai đoạn đầu tiên, khi chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ không đồng ý cho Mỹ mở đường bay cho máy bay quân Đồng minh trên không phận nước mình, còn Jordan thì không cho Mỹ được sử dụng các sân bay trên lãnh thổ, vì vậy, các chuyên gia chiến lược quân sự Mỹ đã tìm ra giải pháp, đóng những chiếc tầu dạng kho – cầu tầu nổi khổng lồ, có lượng giãn nước từ 62 – 68 nghìn tấn, có chiều dài lên đến 959 – 1011 ft và có khả năng cơ động với tốc độ 24 knots. Đây thật sự là một hòn đảo nhỏ biết bơi, mang trong mình nó kho tàng quân sự và các hầm chứa máy bay cất cánh thẳng đứng. nhưng chiếc tầu vận tải đổ bộ khổng lồ này thay thế các tầu vận tải thông thường phải bốc hàng lên tầu sớm trước thời gian, do các loại tầu vận tải đổ bộ này có rất nhiều khả năng công tác trên biển, rất ít phụ thuộc vào các căn cứ trên bờ biển và có thể đảm bảo năng lực tác chiến của các lực lượng viễn chinh tác chiến xa bờ ổn định và hiệu quả. Đồng thời, Lầu Năm Góc cũng đặc biệt quan tâm đến khả năng cơ động tác chiến của các sư đoàn quân viễn chinh, đặt khả năng cơ động viễn chinh đến một quân đoàn lính thủy đánh bộ (150 nghìn sĩ quan và binh sĩ).
Sơ đồ lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch đổ bộ Wonsan. Chiến tranh Triều Tiên năm 1950
Sơ đồ lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trong chiến dịch đổ bộ Wonsan. Chiến tranh Triều Tiên năm 1950.
Biên chế lực lượng Liên đoàn viễn chinh hỗn hợp tấn công ESG
Biên chế lực lượng Liên đoàn viễn chinh hỗn hợp tấn công ESG.

Liên đoàn viễn chinh hỗn hợp tấn công chủ lực binh chủng hợp thành (ESG) của hải quân Mỹ được triển khai trên biển Thái Bình Dương, Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương. Trong giai đoạn hiện nay người Mỹ có thể tổ chức 12 Liên đội viễn chinh hỗn hợp tấn công chủ lực ESG và 11 Liên đoàn tầu sân bay tấn công. Số lượng các liên đoàn của hạm đội có thể lên đến 37 – 38 dựa trên yêu cầu nhiệm vụ và mục đích biên chế Liên đoàn. Theo tính toán của các chuyên gia quân sự nước ngoài, để vận chuyển vượt biển một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ cần khoảng 3-5 tầu đổ bộ và tầu vận tải, một lữ đoàn viễn chính lính thủy đánh bộ cần khoảng 46 tầu đổ bộ và tầu vận tải, trong số đó có từ 3-5 tầu đổ bộ vận tải – cầu tầu đa nhiệm có khả năng mang theo máy bay trực thăng chiến đấu, 4 tầu đổ bộ - cầu tầu, 10 tầu vận tải đổ bộ và 12 tầu vận tải hàng hóa, phương tiện có khả năng đổ bộ. Hiện nay, lực lượng lính thủy đánh bộ của hạm đội trên Đại Tây Dương và Thái Bình Dương có 43 tầu đổ bộ, trong đó có 12 tầu đổ bộ đa nhiệm, 2 kỳ hạm, 11 tầu đổ bộ - cầu tầu có khả năng chuyên chở máy bay trực thăng chiến đấu, 15 tầu vận tải đổ bộ - cầu tầu (đối với tầu đổ bộ đa nhiệm, sức chở là 1700 đến 1870 người, tầu vận tải đổ bộ - cầu tầu có sức chứa là 840 đến 950 binh sĩ và sĩ quan, tàu vận tải đổ bộ có sức chứa là 366 – 500 người, tầu đổ bộ xe tăng có sức chứa 400 binh sĩ và sĩ quan lính thủy đánh bộ.
Trung Quốc với quân số hiện nay khoảng 2.480.000 người, trong giai đoạn sắp tới sẽ giảm biên chế xuống còn 500 000 quân tinh nhuệ, đồng thời tăng cương ứng dụng khoa học công nghệ cho tất cả các quân binh chủng lực lượng vũ trang, đặc biệt là Hải quân. Lực lượng lính thủy đánh bộ của Trung Quốc có 15 tầu đổ bộ hạng nặng chở xe tăng, 24 tầu hàng trung, 13 tầu đổ bộ hạng nhẹ, 44 xuồng đổ bộ và khoảng 10 tầu đổ bộ chạy trên đệm khí.
Bản đồ chiến dịch đổ bộ của lính thủy đánh bộ Hồng quân Xô viết trong chiến dịch giải phóng Novorussia tháng 9 năm 1943
Bản đồ chiến dịch đổ bộ của lính thủy đánh bộ Hồng quân Xô Viết trong chiến dịch giải phóng Novorussia tháng 9 năm 1943.
Bản đồ lực lượng lính thủy đánh bộ Liên bang Xô viết đổ bộ lên đảo Sumy. thuộc quần đảo Kuriin
Bản đồ lực lượng lính thủy đánh bộ Liên bang Xô Viết đổ bộ lên đảo Sumy. thuộc quần đảo Kurin.
 
Cũng trong giai đoạn hiện nay, cần phải nhận xét rằng, nước Nga hiện đại không đặt sự quan tâm nhiều lắm đến việc xây dựng đội ngũ chuyên gia chống các chiến dịch đổ bộ và các hoạt động đổ bộ của đối phương. Sẽ thật sự khó khăn để tưởng tượng, khi một sĩ quan mới tốt nghiệp Học viện khoa học quân sự cao cấp có thể tổ chức tiếp nhận, thu thập và xử lý thông tin liên kết phối hợp từ các đơn vị Biên phòng hoặc các đơn vị trinh sát, tuần tiễu ven biển, từ các sư đoàn phòng không, từ cơ quan trinh sát – tình báo hải quân của hạm đội và từ các đơn vị trinh sát của không quân trong một không gian thời gian thực. Trên bản đồ nào người sĩ quan đó sẽ thể hiện tình huống? Nếu như chúng ta không nhìn trước được tất cả các phương tiện truyền thông, thông tin đa phương tiện hiện nay và tích hợp nó trên bản đồ tác chiến cấp chiến thuật! Đồng thời, phép đo vẽ địa hình và hải hình trên các bản đồ địa hình và hải đồ khác nhau về cơ bản topographic và khó có thể trùng khớp lên nhau.
Điều cơ bản là trong các cơ quan tham mưu của các đơn vị như các trung - lữ - sư đoàn bộ binh cơ giới, các sư đoàn không quân và phòng không, các lực lượng bộ đội biên phòng biển và bờ biển, lực lượng cảnh sát biển, các đơn vị và các hải đoàn của các hạm đội không có những sĩ quan tham mưu, chuyên nghiệp và sâu sắc trong lĩnh vực liên kết phối hợp các đơn vị trong một tổ chức hiệp đồng liên quân cấp chiến dịch - chiến thuật nhằm liên kết phối hợp thu thập thông tin, xử lý thống tin, đồng bộ hóa công tác điều hành tác chiến, thì mọi yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ là không thể. Sẽ không thể tin được nếu có một sĩ quan tốt nghiệp Học viện sĩ quan công binh có thể khi chuẩn bị chiến đấu chống đổ bộ (trên biển và hải đảo) có thể đưa những thùng casset thủy lôi tấn công đáy tầu lên một chiếc phà kiểu "tankist” và lắp đặt được số mìn đó lên các bãi cát ngầm của vùng nước nông nhằm chống các tầu đổ bộ đổ quân lên bờ, nêu như người sĩ quan ấy không được học tập dù chỉ là ngắn ngày với một chương trình rút gọn.
Sa bàn diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011 Nga - Khazastan
Sa bàn diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011 Nga - Khazastan.
Xe thiết giáp lội nước vượt vùng nước cận bờ
Xe thiết giáp lội nước vượt vùng nước cận bờ.
BTP-70pb cập bờ trong diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011
BTP-70pb cập bờ trong diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011.
 
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các sĩ quan và các vị tướng chỉ có thể trở thành chuyên gia tổ chức hiệp đồng tác chiến phòng thủ chống đổ bộ đường biển và hiệp đồng tác chiến đổ bộ đường biển sau 3 -4 năm liên tục tự học và rèn luyện trong môi trường thực tế hoạt động và làm việc, trong các đợt diễn tập thực binh cấp chiến thuật, chiến dịch – chiến thuật và chiến dịch với sự tham gia của các quân chủng như Lục quân, các liên đoàn chiến hạm các binh chủng trong hạm đội của Hải quân, các lực lượng của không quân và lực lượng phòng không quân binh chủng (phòng không chiến trường của hải quân và lục quân), hiệp đồng tác chiến với lực lượng bộ đội biên phòng biển, cảnh sát biển và các lực lượng vũ trang bán vũ trang nội địa khác, bao gồm cả dân quân tự vệ biển.
Trong các đợt diễn tập chỉ huy và tập huấn tham mưu, ngay cả những tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp, chỉ huy các quân đoàn, tập đoàn quân hoặc hạm đội, tổ chức điều hành một thế trận hiệp đồng quân binh chủng với khả năng phản ứng tức thời, nhanh chóng theo tình huống chiến trường thời gian thực là bất khả thi. Nhưng chương trình tập huấn chỉ huy, điều hành tác chiến trên bản đồ với các bộ tư lệnh quân binh chủng hoàn toàn không thể thay thế được những chương trình diễn tập đồng bộ hóa tác chiến phòng thủ chống đổ bộ và đổ bộ đường biển có sử dụng binh khí kỹ thuật và binh lực. Sự thiếu hụt giữa lý thuyết với thực hành tác chiến được thấy trong các đơn vị thuộc các quân binh chủng khác nhau, thực hiện nhiệm vụ trên các tuyến phòng thủ bờ biển, trên biển và trên các quần đảo, hải đảo, khi triển khai tổ chức nghiên cứu hiệp đồng tác chiến trong chiến dịch chống đổ bộ đường biển và đồng bộ hóa hoạt động tác chiến binh lực và hỏa lực, phương tiện chiến đấu của quân chủng Không quân, Hải quân, Lục quân, Biên phòng và cảnh sát biển. Có nghĩa là những hiểu biết về lý luận và thực tiễn liên kết phối hợp, theo lý luận quân sự cần được nghiên cứu trong các học viện và nhà trường quân binh chủng hoàn toàn chưa được đề cập đến trong bất cứ một chương trình nào.
Hiểu biết và nắm chắc được tính năng kỹ chiến thuật của hạm đội, của không quân hải quân, của lực lượng không quân, lực lượng biên phòng và lực lượng cảnh sát biển, cơ cấu biên chế tổ chức lực lượng và vũ khí trang bị phương tiện chiến đấu "trên mặt bằng” hiệp đồng tác chiến theo một nhịp độ chung, dưới sự chỉ huy của một nhạc trưởng trong chiến dịch chống đổ bộ trên tất cả các cấp độ của không gian chiến trường hoặc là chiến dịch đổ bộ đường biển của lính thủy đánh bộ phối hợp với lực lượng bộ binh cơ giới, tăng thiết giáp và các cụm pháo binh chiến trường, nếu không có những đợt diễn tập và huấn luyện thực binh với sử dụng binh khí trang bị kỹ thuật, thậm chí bắn đạn thật sẽ hoàn toàn không thực tế và không có tính khả thi. Một điều tưởng chừng như rất vụn vặt là sự thiếu hiểu biết các thuật ngữ chuyên ngành cũng như ký tín hiệu của lực lượng Hải quân và ngược lại (những thuật ngữ cũng như kí tín hiệu của Lục quân), tạo ra những khó khăn trong công tác hiệp đồng tác chiến, liên kết phối hợp và hỏa lực tập trung từ nhiều hướng, đồng thời cũng gây khó khăn khi các tư lệnh trưởng và các chỉ huy trưởng đơn vị ra quyết tâm chiến đấu và liên kết phối hợp.
Trong giai đoạn ngày nay, chúng ta hoàn toàn không hi vọng rằng các loại tầu vận tải có lượng giãn nước khác nhau, hoặc một loại phương tiện vận tải cụ thể nào đó, tầu vận tải quy định theo biên chế động viên công nghiệp hoặc các loại tầu của các lực lượng bán vũ trang hoặc các đơn vị kinh tế…. được sử dụng để vận chuyển lực lượng binh chủng hợp thành của Hải quân trong các chiến dịch đổ bộ hoặc chuyển quân, sẽ được chuẩn bị sẵn sàng trong khoang tầu những bộ gá (theo quy định trước đây của Hội đồng bộ trưởng liên bang Xô Viết theo pháp lệnh động viên công nghiệp) để có thể lắp đặt gường hoặc ghế cho lực lượng đổ bộ ngồi cũng như các bộ gá để lắp vũ khí trang thiết bị phục vụ đổ bộ. Đương nhiên, dù có trong biên chế dự bị động viên và có thể sử dụng ngay tức khắc theo tình huống, nhưng những phương tiện này cũng không thể sử dụng cho đổ bộ hoặc tác chiến phòng thủ biển đảo được. Chúng ta hoàn toàn không thể đưa lên tầu vận tải một container tên lửa X-35 Bal – E nếu hệ thống radar trên tầu vận tải và những trang thiết bị trên tầu không đồng bộ và tương thích với hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa.
Thực sự khó khăn khi một chỉ huy trưởng hoặc tư lệnh trưởng quân khu, vùng duyên hải có thể phối hợp với các lực lượng trên không, trên biển và lực lượng phòng thủ bờ biển tổ chức chuẩn một đoàn congvoa quân sự hải hành phục vụ mục đích tiếp cận mục tiêu đang bị uy hiếp trong thời gian chiến thuật cho phép. Ngoài ra, sẽ rất khó tin rằng Cơ quan tham mưu lực lượng liên quân chủng với chỉ huy trưởng là đại diện của lực lượng Hải quân có thể phân phối quản lý mục tiêu đồng thời điều phối, đồng bộ hóa hỏa lực từ nhiều chiều, nhiều hướng nhằm tăng cường tối đa hỏa lực tiêu diệt mục tiêu giữa lực lượng không quân, các chiến hạm pháo binh – tên lửa của cụm tầu hỏa lực yểm trợ chi viện, tên lửa - pháo binh bảo vệ bờ biển, pháo binh tên lửa chiến trường của lục quân trong một chiến dịch đồng bộ hiệp đồng tác chiến chống đổ bộ đường biển hoặc tổ chức đổ bộ phản công đánh chiếm lại một khu vực duyên hải, một cụm đảo hoặc một đảo bị đánh chiếm bởi lực lượng đổ bộ đường biển của đối phương trong điều kiện hiện nay, khi các hoạt động diễn tập thực tế chỉ được thực hiện trên bản đồ với sự giới hạn của các cơ quan tham mưu các đơn vị quân binh chủng khác nhau nhưng khá đồng thuận trong báo cáo thành tích đạt được.
Chiến dịch đổ bộ (chống đổ bộ) được tiến hành theo nguyên tắc hiệp đồng tác chiến là nỗ lực của các đơn vị binh chủng hợp thành của Lục quân và Hải quân phối kết hợp chặt chẽ với các đơn vị và phân đội chiến đấu của lực lượng Không quân và lực lượng Phòng không các cấp. Trong giai đoạn đánh chặn đòn tấn công đổ bộ của đối phương là lực lượng bộ binh, lính thủy đánh bộ tại chỗ kết hợp với lực lượng Biên phòng, lực lượng cảnh sát biển và bao gồm cả lực lượng dân quân tự vệ biển. Phụ thuộc vào không gian chiến trường và quy mô của chiến dịch đổ bộ, thứ tự quy trình tiến hành chiến dịch bao gồm có: Lên kế hoạch tác chiến, đưa lực lượng đổ bộ lên các tầu đổ bộ và tầu vận tải, cơ động vượt biển, có thể diễn tập thử đổ bộ khi có điều kiện, đổ bộ đường biển và tác chiến trên bờ biển. Tương tự như vậy, chiến dịch chống đổ bộ đường biển cũng diễn ra với trình tự: phát hiện mục tiêu lực lượng đổ bộ, lên kế hoạch phòng thủ bờ biển, triển khai lực lượng đánh chặn ngăn không cho địch phát triển, triển khai lực lượng bao vây chia cắt, đánh chặn đường lực lượng tiếp viện và yểm trợ hỏa lực, tập trung lực lượng tiêu diệt địch trên bờ và đánh tiêu diệt lực lượng hải quân đối phương trên vùng biển xâm nhập.
Để tiến hành các chiến dịch đổ bộ đường biển, nước Nga chưa đủ số lượng các tầu đặc chủng dành cho đổ bộ đường biển và các tầu vận tải chuyên dụng. Theo thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, cho đến nay, Liên bang Nga có khoảng 32 tầu đổ bộ. Nhưng cũng cần nhớ rằng , sự thiếu hụt các phương tiện đổ bộ đặc chủng cũng không làm cho Liên bang Xô viết gặp khó khăn khi tiến hành chiến dịch "Anadyr” vào năm 1961 giai đoạn từ 12 tháng 7 đến 22 tháng 10 thực hiện chuyến đổ bộ liên lục địa đưa cụm lực lượng liên quân đổ bộ lên Cuba với đầy đủ vũ khí trang bị trên các tầu vận tải dân sự. Cũng có những ví dụ khác: Sư đoàn bộ binh cơ giới số 33 từ quân khu Danhevostoc, tác giả đã phục vụ trong sư đoàn vào năm 1979 đã tổ chức và thực hiện thành công cuộc đổ bộ trên các tầu vận tải của công ty vận tải biển Danhevostoc vào vịnh Olga thuộc vùng duyên hải Primorski.
Tính toán các vấn đề có thể phát sinh trong nhiệm vụ đổ bộ và chống đổ bộ đối với chỉ huy trưởng đơn vị binh chủng hợp thành, cũng như tư lệnh trưởng Hạm đội Thái bình dương trong tiến trình lên kế hoạch đổ bộ, thực tế chuyển binh lực xuống tầu, hành quân vượt biển dưới sự uy hiếp và hỏa lực nhiều chiều, nhiều hướng của đối phương trong điều kiện tác chiến hiện đại và đổ bộ lực lượng bộ binh cơ giới trong các chương trình diễn tập bắn đạn thật, cho thấy có cơ sở lý luận và thực tiễn để thay đổi quan điểm về đào tạo, huấn luyện các chuyên viên - sĩ quan về các hình thức tác chiến đổ bộ đường biển và chống đổ bộ đường biển trong lực lượng lục quân và hải quân. Vấn đề đầu tiên và cũng là quan trọng nhất- tổ chức điều hành các cơ quan tham mưu tác chiến và các đơn vị quân binh chủng hợp thành, các phân đội thuộc quân binh chủng khác nhau trong chiến đầu. Vấn đề thứ hai – lập kế hoạch tổ hợp hỏa lực từ các phương tiện hỏa lực tiêu diệt mục tiêu trong các cấp độ của chiến dịch đổ bộ đường biển (tương tự như vậy đối với các cấp độ của chiến dịch chống đổ bộ đường biển).
Thực tế các hoạt động trong diễn tập cho thấy rằng, chưa có căn cứ cho rằng các vấn đề đặt ra đã được giải quyết triệt để trong gian đoạn ngày nay. Hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng Lục quân và Hạm đội được thực hiện chỉ trên lý thuyết. Các sĩ quan chỉ huy từ cấp trung đội đến cấp quân đoàn không nắm chắc được tính năng kỹ chiến thuật và năng lực tác chiến của lực lượng tác chiến liên kết phối hợp trong hoạt động tác chiến cụ thể.
Chưa có được sự đồng bộ hóa và nhất thể hóa liên kết truyền thông giữa các lực lượng Hải quân, Không quân, Lục quân, sự thiếu hụt hệ thống nhận biết địch - ta duy nhất tạo ra những vấn đề khó khăn nghiêm trọng cho công tác tổ chức hỏa lực tập trung tiêu diệt mục tiêu. Những thông tin trinh sát thu được từ hệ thống vệ tinh trinh sát và máy bay trinh sát các độ cao do thiếu hụt các trạm thu phát tín hiệu thông tin liên lạc trực tiếp trong các đơn vị của Lục quân và một số đơn vị ngay cả của Hải quân, của Biên phòng dẫn đến thông tin tiếp cận các đơn vị trực tiếp chiến đấu chậm đến hàng giờ và hàng ngày. Hệ thống radar trinh sát, cảnh báo sớm và theo dõi mục tiêu thông thường chỉ hoạt động cho những mục đích và phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chủ yếu của Không quân và Phòng không, không có khả năng chuyển tải thông tin đến các đơn vị trực tiếp chiến đấu của Lục quân, Hải quân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển và tất nhiên, đến các đơn vị an ninh nội địa và dân quân tự vệ. Trong giai đoạn hiện nay, song hành cùng với bản đồ địa hình thông thường là bản đồ kỹ thuật số với rất nhiều các tính năng hiện đại, vượt trội, nhưng cả bản đồ địa hình, bản đồ vùng biển thông thường cũng như kỹ thuật số vẫn không tương thích và phù hợp lẫn nhau (trong khu vực tập kết lực lượng, đưa lực lượng đổ bộ lên tầu hoặc khu vực tiến hành chiến dịch đổ bộ) gây khó khăn cho công tác lên kế hoạch đổ bộ và điều hành chiến dịch.
Trong lực lượng lính thủy đánh bộ, sự không đồng nhất các loại tầu đổ bộ làm tăng thêm thời gian đưa binh lực và vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu lên tầu. Những khó khăn đó xuất hiện trực tiếp trong nội dung tính toán kế hoạch đưa binh lực xuống các phương tiện vận tải thông thường, được điều động và chuẩn bị bởi các sĩ quan hậu cần, kỹ thuật của các sư đoàn và quân đoàn, do những bài giảng và huấn luyện về cơ động trên các phương tiện đổ bộ đường thủy thông thường hoàn toàn không được đưa vào chương trình trong các trường sĩ quan và học viện lục quân. Trong các cơ quan tham mưu của các đơn vị chiến đấu hầu như không thừa ra đội ngũ sĩ quan tham mưu – tác chiến chuyên nghiệp trong lĩnh vực tổ chức đồng bộ hóa liên kết phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa các cụm đơn vị tham gia chiến dịch (ngay cả trong biên chế tổ chức của các tập đoàn quân binh chủng hợp thành, hoặc các liên đoàn chiến hạm binh chủng hợp thành của hải quân và hạm đội) chính vì vậy, công tác liên kết phối hợp, hiệp đồng tác chiến quân chủng thường được giao cho một sĩ quan bất kỳ.
Nhưng vấn đề nghiêm trọng đó cũng xuất hiện đối với các đơn vị binh chủng hợp thành, các phân đội phòng thủ biển đảo và bờ biển. Phòng thủ và Phản công chống lại lực lượng đổ bộ đường biển đối phương (thông thường được chuẩn bị kỹ lưỡng và có thời gian huấn luyện, diễn tập thực binh, có vũ khí trang bị, phương tiện tác chiến mạnh và hỏa lực tập trung nhiều hướng, nhiều chiều đã được chuẩn bị kỹ lưỡng trong hiệp đồng quân binh chủng) được coi là một trong những nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp từ nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ các đơn vị binh chủng hợp thành được giao nhiệm vụ xây dựng tuyến phòng thủ nhiều tầng, nhiều lớp trong điều kiện thời binh, khu vực phòng thủ theo chiều dài và tầm xa tác chiến về hướng biển vô cùng phức tạp ngay cả trong trường hợp phòng thủ, không nói về khó khăn gặp phải khi ngăn chặn đối phương đổ bộ bám bờ. Hoàn toàn không có gì bí mật, vài trăm km bãi cát rộng ven biển hoặc đồi núi thấp – rừng cây ven bờ biển, theo chỉ lệnh của Bộ quốc phòng và mệnh lệnh cấp quân khu trước đây, trên thực tế, hoàn toàn không thể che chắn được bằng hỏa lực của đơn vị được giao, chưa nói đến khả năng phòng thủ.
Đối với những hòn đảo hoặc quần đảo, điều đó càng thực sự khó khăn do hỏa lực đi cùng của các phương tiện phòng thủ không đủ để kiểm soát toàn bộ, hệ thống phòng thủ hoàn toàn nằm phơi trong tầm hỏa lực của vũ khí chính xác, khả năng tràn ngập của lực lượng đổ bộ đối phương hầu như không có phương án nào khả thi ngăn chặn được trong thời gian ngắn dưới sức ép hỏa lực tập trung của không quân hải quân đối phương, pháo hạm, pháo phản lực và tên lửa hải – đất liền. Kinh nghiệm các cuộc diễn tập cho thấy, các đơn vị binh chủng hợp thành của lục quân chỉ có thể phòng thủ ở nhưng khu vực xung yếu, có khả năng đổ bộ cao nhất của đối phương, các khu vực còn lại dọc bờ biển hầu như không có lực lượng đủ mạnh và hỏa lực đủ mạnh để ngăn chặn, tình huống trên cũng được đặt ra với những hải đảo, quần đảo, một số khu vực còn không có cả các đài quan sát, trinh sát radar hoặc các trạm quan sát bằng mắt thường.
Tất nhiên, trong những điều kiện đó, khả năng có một tuyến phòng thủ biển đảo tin cậy và hiệu quả không thể đặt ra với bờ biển, hải đảo và quần đảo Liên bang. Hy vọng vào khả năng có được sự yểm trợ tích cực từ nhiều hướng trên không, trên biển, hỏa lực tên lửa - pháo bờ biển và pháo binh chiến trường là không thực tế. Chính vì vậy, nếu tính đến số lượng không đáng kể lực lượng các đơn vị phòng thủ bờ biển và hải đảo trong khu vực và các đảo nhỏ, những vấn đề khá nghiêm trọng đã nêu trên sẽ phải có giải pháp về công nghệ. Đó là hệ thống quản lý chiến trường (Chỉ huy điều hành, kiểm soát, truyền thông, công nghệ thông tin, trinh sát cảnh báo sớm và hệ thống quản lý thông tin) dựa trên nền tảng của công nghệ thông tin, truyền thông kỹ thuật số đa phương tiện và hệ thống cảnh báo sớm đa nguồn tin, đa chức năng là điều kiện cấp thiết ngày nay. Song hành cùng với hệ thống điều hành tác chiến, yêu cầu cần có các trang thiết bị tự động hóa (thiết bị canh gác và cảnh báo sớm, máy bay trinh sát không người lái, hệ thồng trinh sát trên các phương tiện dân sự, đồng bộ với hiện đại hóa về công nghệ thông tin, trinh sát, chỉ thị mục tiêu cho lực lượng dân quân, tự vệ biển.
Từ những tổng kết khách quan thực tế về nhiệm vụ phòng thủ bờ biển và hải đảo. Những việc cấp thiết phải làm ngay: Thứ nhất là quyết định của Bộ trưởng bộ quốc phòng là chuẩn hóa, đồng bộ hóa cơ sở bản đồ địa hình vùng ven biển, lãnh hải và thềm lục địa, hệ thống bản đồ này là cơ sở đầu tiên cho nội dung công tác hiệp đồng quân binh chủng giữa các đơn vị lục quân phòng thủ bờ biển, các đơn vị lính thủy đánh bộ, các đơn vị hỏa lực của hạm đội và binh chủng pháo binh, tên lửa chiến trường trên cả công nghệ in ấn thông thường topographic và bản đồ kỹ thuật số digital.
Chuẩn hóa hệ thống ký tín hiệu, nhận dạng mục tiêu và phân biệt địch ta trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông đa phương tiện cho tất cả các lực lượng tham gia bảo vệ bờ biển và hải đảo: Lục quân, không quân, hải quân, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển và lực lượng dân quân tự vệ biển đảo. Thứ ba, trong điều kiện hiện nay, thực hiện đồng bộ hóa trên nền tảng kỹ thuật số quản lý chiến trường, việc cơ cấu biên chế lại các cơ quan tham mưu cấp đơn vị binh chủng hợp thành sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng sẽ là không thừa nều biên chế một sĩ quan tham mưu được huấn luyện và chuẩn bị tốt, thực hiện thuần thục, nhuần nhuyễn nhiệm vụ hiệp đồng tác chiến với các lực lượng quân chủng khác trên hướng biển. Thứ tư là thực tế chiến tranh tương lai gần cho thấy, cần phải có một chương trình đầy đủ nhằm đào tạo và huấn luyện các sĩ quan – chuyên gia chuyên sâu trong lĩnh vực đổ bộ đường biển và chống đổ bộ không – biển.
Những biến động phức tạp của quan hệ kinh tế – chính trị - quân sự hải dương không có điều kiện cho bất cứ một thời gian nghiên cứu và thử nghiệm. Mọi hành động chuẩn bị cho thực tế xung đột và chiến tranh giới hạn trong khu vực nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ phản ánh mạnh mẽ trên tình hình địa chính trị khu vực lợi ích. Sẽ không có thời gian cho những bài học kinh nghiệm chiến trường. Những bài học phải được rút ra ngay từ tình hình thực tế chuẩn bị của các cường quốc biển và những hoạt động thực tế sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang trên biển và hải đảo. Đồng bộ hóa công tác quản lý chiến trường biển đảo và nâng cao năng lực hiệp đồng tác chiến của các Quân chủng và lực lượng vũ trang, đó là nhiệm vụ khẩn cấp mà các quân chủng, các lực lượng vũ trang phải thực hiện.
Trịnh Thái Bằng


http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/615803/Do-bo-va-chong-do-bo-duong-bien-I-tpol.html



TPO - Trong giai đoạn hiện nay, khả năng xảy ra xung đột, chiến tranh có giới hạn nhằm thôn tính chiếm đoạt một số các khu vực biển có tiềm năng kinh tế, chính trị rất lớn.
Tiền Phong trân trọng giới thiệu kinh nghiệm của lực lượng phòng thủ bờ biển và hải đảo được hình thành trong biên chế cơ cấu tổ chức lực lượng của hải quân Nga, có nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ vùng biển, lãnh hải, hải đảo và những khu vực, vùng nước thuộc chủ quyền quốc gia. 
Cơ cấu biên chế tổ chức của lực lượng phòng thủ bờ biển và hải đảo của hải quân Nga bao gồm: Lực lượng pháo binh – tên lửa phòng thủ bờ biển, Lực lượng lính thủy đánh bộ, Các đơn vị phòng thủ bờ biển và hải đảo.
Những tính chất chiến thuật chủ yếu của lực lượng phòng thủ bờ biển:
Năng động và linh hoạt cao độ trong tác chiến, có khả năng sẵn sàng chiến đấu cao độ trong cà thời bình và thời chiến, có khả năng tiến hành các hoạt động tác chiến độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến với các lực lượng khác quân chủng khi chiến đấu từ hướng biển.
Tính chiến đấu kiên định, vững chắc bền vững, hỏa lực mạnh; Tính cơ động linh hoạt cao độ; Không quá lệ thuộc vào hệ thống chỉ huy điều hành tác chiến của hải quân, hạm đội và hệ thống phòng thủ quốc gia.
Điểm yếu của lực lượng phòng thủ bờ biển là: Cần có hệ thống đảm bảo C4I2 được tự động hóa cao độ và hệ thống hậu cần kỹ thuật ổn định, khoa học để có khả năng tác chiến dài ngày, ổn định và tăng cường sức mạnh, đặc biệt quan trọng là hệ thống thông tin trinh sát, tình báo, chỉ thị mục tiêu.
Lực lượng pháo tên lửa phòng thủ bờ biển – hải đảo
Yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng pháo binh –tên lửa phòng thủ bờ biển, hải đảo bao gồm:
Tiêu diệt các chiến hạm, các đoàn tầu vận tải, congvoa quân sự, các đơn vị lực lượng đổ bộ đường biển của đối phương; Hỏa lực yểm trợ, bảo vệ các khu vực bờ biển và hải đảo, các căn cứ quân sự các hải cảng ven biển của hải quân và hạm đội, bảo vệ các tuyến đường vận tải ven bờ và các tập đoàn quân binh chủng hợp thành tác chiến trên đảo hoặc ven biển, phòng thủ từ hướng biển, chiến đấu với các chiến hạm nổi của đối phương;
Tấn công phá hủy, tiêu diệt các căn cứ hải quân, các hải cảng của đối phương; Tiêu diệt và đè bẹp chế áp binh lực và các phương tiện hỏa lực của đối phương trên bờ biển lục địa và hải đảo.
Lực lượng lính thủy đánh bộ: Là lực lượng bộ binh có thể thực hiện các chiến dịch đổ bộ, đánh chiếm các khu vực bờ biển hoặc đảo, quần đảo. Lực lượng lính thủy đánh bộ có thể tác chiến độc lập hoặc nằm trong đội hình tác chiến tập đoàn quân binh chủng hợp thành của lục quân hoặc lực lượng đổ bộ đường không.
Mục tiêu chiến đấu của lính thủy đánh bộ trong tác chiến đổ bộ đường biển là: Đánh chiếm khu vực bàn đạp đầu cầu, là lực lượng chủ lực đột phá thế đội 1 đánh chiếm lại các căn cứ hải quân, đảo, quần đảo; Hiệp đồng tác chiến cùng với lực lượng lục quân, tấn công trên hành lang công kích từ hướng biển; Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt bảo vệ các lực lượng hải quân hạm đội khi neo đậu..
Nhiệm vụ của lính thủy đánh bộ
Đánh chiếm các khu vực đổ bộ, triển khai và giữ vững các bãi đổ bộ đầu cầu, bảo vệ chắc chắn khu vực đổ bộ. Đánh chiếm các tuyến chiến đấu và các hỏa điểm, mục tiêu quan trọng trên bờ biển và hải đảo, bảo vệ chắc chắn và đợi lực lượng chủ yếu của hải quân và lục quân tiếp chiến, đánh chiếm cầu tầu, bến cảng, khu căn cứ hải quân của đối phương, tiêu diệt các mục tiêu quan trọng trên bờ biển, hải đảo như (đài radar trinh sát, đài điều khiển, hệ thống sở chỉ huy đối phương dọc ven biển, các trận địa vũ khí công nghệ hiện đại, vũ khí chính xác, vũ khí có tầm bắn xa, sức hủy diệt lớn, các trận địa tên lửa phòng không, tên lửa đánh chặn tên lửa, các sân bay ven biển của đối phương.
Phối hợp với các lực lượng vũ trang khác (biên phòng, cảnh sát biển, lực lượng lục quân) tiến hành các chiến dịch chống đổ bộ đường biển trên mọi hướng, tiến hành các hoạt động đổ bộ từ phía biển tấn công vào đội hình đổ bộ của đối phương trên đảo hoặc ven biển;
Các đơn vị binh chủng hợp thành của lính thủy đánh bộ: Lữ đoàn, sư đoàn. Các phân đội lính thủy đánh bộ: trung đoàn, tiểu đoàn.
Lực lượng pháo binh - tên lửa phòng thủ bờ biển - hải đảo
Các phân đội cơ bản của lực lượng pháo binh – tên lửa bảo vệ bờ biển là các trung đoàn tên lửa bờ biển, có năng lực thực hiện các nhiệm vụ độc lập tác chiến đến 300 km theo chiều rộng tuyến phòng thủ và chiều sâu..
Trung đoàn tên lửa bờ biển có cơ cấu biên chế: Phân đội chỉ huy tham mưu tác chiến, các đơn vị tên lửa, đơn vị bảo đảm hậu cần kỹ thuật. Phụ thuộc vào vũ khí trang bị, biên chế tổ chức, trung đoàn tên lửa bờ biển có thể là trung đoàn chiến đấu cơ động hoặc cố định tại chỗ, tầm xa, tầm trung hoặc tầm gần.
Đơn vị tác chiến cơ bản của lực lượng pháo binh phòng thủ bờ biển là các Tiểu đoàn pháo binh: bao gồm các phân đội chỉ huy, điều khiển hỏa lực, từ 2 đến 4 khẩu đội pháo binh, phân đội đảm bảo hậu cần và phân đội đảm bảo kỹ thuật pháo binh.
Một đơn vị tên lửa phòng thủ bờ biển
Một đơn vị tên lửa phòng thủ bờ biển.
 
Các hoạt động tác chiến của lực lượng pháo binh, tên lửa phòng thủ bờ biển là tổ hợp các hoạt động theo khả năng cơ động của các phân đội, sơ đồ bố trí hỏa lực của các phân đội trên các trận địa hỏa lực và các khu vực hỏa lực của lực lượng. Mục tiêu và nhiệm vụ hoạt động tác chiến của lực lượng được thể hiện trong nhiệm vụ chiến đấu được giao kể cả thời bình và thời chiến. Trên cơ sở nhiệm vụ chiến đấu được giao, người chỉ huy lên quyết tâm chiến đấu, chỉ huy các phân đội chuẩn bị sẵn sàng chiến đấy, triển khai các hoạt động điều hành tác chiến trong trận đánh, tổ chức đảm bảo hậu cần kỹ thuật cho các hoạt động tác chiến.
Khi nhận được nhiệm vụ triển khai khu vực hỏa lực, người chỉ huy tiến hành các hoạt động chiến thuật: triển khai đội hình chiến đấu (cơ động vào khu vực trận địa, triển khai đội hình trận địa hỏa lực và chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu (cấp độ sẵn sàng chiến đấu), (thường xuyên; tăng cường; cảnh giới sẵn sàng chiến đấu cao nhất; toàn bộ sẵn sàng chiến đấu).
Tiến hành các hoạt động trinh sát, rà quét và tiếp nhận thông tin trinh sát từ các cấp nhằm phát hiện mục tiêu, xác định và xử lý thông tin phần tử bắn, khai hỏa phóng tên lửa – nổ súng tấn công vào thời gian - (H); (H);+(H) theo mệnh lệnh cấp trên hoặc thời gian dự kiến theo những kịch bản có sẵn được xây dựng và nguồn thông tin trinh sát nắm bắt được (trong trường hợp độc lập tác chiến trên đảo, quần đảo hoặc bờ biển mà không nhận được mệnh lệnh trực tiếp – (do đối phương phá hoại, chế áp điện tử - thông tin).
Sơ đồ pháo tự hành SY - 130 phòng thủ bờ biển
Sơ đồ pháo tự hành phòng thủ bờ biển.
 
Sau khi đòn tấn công thứ nhất được thực hiện, người chỉ huy ra mệnh lệnh đưa lực lượng (pháo binh – tên lửa) ra khỏi khu vực trận địa trước đòn phản công của đối phương và đưa các đơn vị thuộc quyền về trạng thái sẵn sàng phóng đạn – nổ súng đợt 2.
Đội hình chiến đấu của trung đoàn là sự bố trí trong mối quan hệ liên kết chặt chẽ các phân đội trên địa bàn tác chiến, xác định hướng phóng đạn và hướng tiến của đối phương. Định hướng trong quan hệ liên kết phối hợp giữa các phân đội trên cơ sở hướng phóng đạn và dự kiến tọa độ mục tiêu, khả năng đảm bảo tốt nhất khi phóng đạn, khả năng ngụy trang, khả năng che chắn phòng thủ. Đồng thời phải tính toán kỹ càng vị trí của sở chỉ huy và đơn vị hậu cần kỹ thuật cũng như các tuyến đường cơ động. Đội hình chiến đấu bao gồm có sở chỉ huy đơn vị, đội hình chiến đấu của các phân đội hỏa lực và các phân đội hậu cần kỹ thuật.
Theo điều lệnh: Trung đoàn bố trí trong khu vực hỏa lực được phân công, các tiểu đoàn tên lửa – trên các trận địa phóng đạn, phía sau là tiểu đoàn hậu cần kỹ thuật. Với tiểu đoàn pháo binh: cũng tương tự như trên, bao gồm trận địa pháo của tiểu đoàn, sở chỉ huy tác chiến, các khẩu đội pháo – trên các vị trí hỏa lực.
Trong tác chiến hiện đại, một phân đội tên lửa có thể quản lý nhiều mục tiêu khác nhau được giao, đồng thời, nhiều trận địa tên lửa có thể quản lý theo dõi một mục tiêu.
Pháo binh bảo vệ bờ biển thông thường bảo vệ một hướng phòng thủ chủ yếu và các hướng tăng cường. Hỏa lực một đơn vị pháo binh trên một trận địa phảo quản lý một nhóm mục tiêu cụ thể. Khi có mệnh lệnh cấp trên sẽ chuyển hướng hỏa lực vào sâu theo hành lang tân công của đối phương, hoặc chuyển hướng bắn chi viện, che phủ hoặc tiêu diệt tầu, xuồng đổ bộ.
Các phân đội tên lửa thông thường có nhiều trận địa thay thế: sau loạt đạn đầu tiên, các phân đội tên lửa cơ động di chuyển nhằm thoát khỏi hỏa lực phản kích của đối phương, các khẩu đội pháo trong giai đoạn ngày nay, được thiết kế có khả năng tự hành, sẽ di chuyển theo mệnh lệnh người chỉ huy cấp trực tiệp trong trường hợp có nguy cơ bị phản kích từ hòa lực đối phương, lệnh cơ động di chuyển thường được cập nhật sau khi hoàn thành các loạt bắn tập trung (dồn dập 1; dồn dập 2…).
Lực lượng lính thủy đánh bộ
Sư đoàn lính thủy đánh bộ bao gồm: Các đơn vị chiến đấu, các đơn vị bảo đảm chiến đấu, các phân đội hậu cần, kỹ thuật, các phân đội tham mưu tác chiến, điều hành tác chiến, trinh sát đa năng.
Đổ bộ đường biển của xe thiết giáp
Đổ bộ đường biển của xe thiết giáp.
 
Các đơn vị chiến đấu: Là các trung đoàn lính thủy đánh bộ, được tăng cường các trung đoàn xe tăng, xe thiết giáp, trung đoàn pháo binh, trong các trường hợp đặc biệt có thể tăng cường trung đoàn tên lửa phòng không. 
Những phân đội chiến đấu trong trung đoàn lính thủy đánh bộ gồm:
 Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ cơ giới trên các xe BTR và BMP với một khẩu đội pháo tự hành; Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ công kích; Tiểu đoàn xe tăng; Khẩu đội pháo phản lực; Khẩu đội tên lửa chống tăng có điều khiển, khẩu đội tên lửa phòng không.
Đơn vị lính thủy đánh bộ binh chủng hợp thành có nhiệm vụ tiến hành các các hoạt động tác chiến đổ bộ ở cấp chiến dịch đổ bộ, đơn vị có khả năng tác chiến độc lập hoặc hiệp đồng tác chiến với các đơn vị lục quân trong các hoạt động tác chiến phòng thủ bờ biển hoặc hải đảo.
Sơ đồ đổ bộ đánh chiếm khu vực đầu cầu và mở rộng bàn đạp tiêu diệt địch
Sơ đồ đổ bộ đánh chiếm khu vực đầu cầu và mở rộng bàn đạp tiêu diệt địch.
 
Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ trong một trận đánh đổ bộ độc lập có nhiệm vụ tiêu diệt binh lực, sinh lực địch, xe tăng thiết giáp, pháo binh và các cụm hỏa lực chống tăng của đối phương, tiêu diệt các phương tiện vũ khí hủy diệt lớn, tấn công sân bay, phá hủy máy bay chiến đấu của đối phương, chiếm giữ căn cứ, bàn đạp đổ bộ hoặc tuyến phòng ngự cho đến khi lực lượng chủ lực tiếp cận giải quyết chiến trường.
Đổ bộ cấp chiến thuật được sử dụng trong phòng thủ biển đảo:
- Chọc thủng tuyến phòng thủ của đối phương trên bờ biển, kết hợp với các lực lượng khác (lục quân) tấn công trên hướng biển với mục đích bao vây chia cắt, tiêu diệt lực lượng địch trên bờ biển.;
- Đánh chiếm lại và phòng thủ mục tiêu quan trọng (hải cảng, sân bay, các hòn đảo vừa và nhỏ, các khu vực quan trọng trên bờ biển cho đến khi lực lượng chính tiếp cận mục tiêu; phá hủy hệ thống điều hành tác chiến của đối phương và những hoạt động hậu cần kỹ thuật của đối phương.
Sau khi nhận nhiệm vụ đổ bộ tác chiến, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn lính thủy đánh bộ cần nắm chắc:
- Nhiệm vụ đổ bộ đường biển của đơn vị và của tiểu đoàn, quy trình đảm bảo công tác đổ bộ.
- Đánh giá tình hình phòng thủ chống tấn công đổ bộ đường biển của đối phương và tính chất, điều kiện địa hình trong khu vực đổ bộ và chiến đấu, hệ thống hàng rào vật cản, bãi mìn, thủy lôi dưới nước và trên bờ.
- Xác định chính xác, trình tự tiến hành các hoạt động đổ bộ, các phương án chiến đấu đánh chiếm vị trí đổ bộ và tính toán, sắp xếp các đợt đổ bộ.
- Điều kiện địa hình thời tiết, thủy văn môi trường khi cơ động vượt biển và trong khu vực đổ bộ.
Trong quá trình chuẩn bị đổ bộ, tiểu đoàn trưởng cần bổ xung các quyết định sau::
- Nhiệm vụ của từng phân đội (đại đội) tiêu diệt các mục tiêu cụ thể tại khu vực đổ bộ và khu vực được chỉ lệnh tấn công đánh chiếm trên bờ biển;
- Phân phối các đơn vị theo các phương tiện đổ bộ (tầu đổ bộ) và các phương tiện đổ bộ cao tốc (xuồng đổ bộ) cũng như các phương tiện tăng cường.;
- Thứ tự lên tầu đổ bộ và thứ tự đổ bộ xuống tầu.
Khi tổ chức liên kết phối hợp tiểu đoàn trưởng sẽ thống nhất với các chỉ huy trưởng:
- Hoạt động tác chiến của các phân đội khi chiếm lĩnh của mở, bàn đạp tấn công khi đổ bộ, phương pháp vượt vật cản chướng ngại vật chống đổ bộ.
- Liên kết phối hợp với hỏa lực của pháo hạm, hỏa lực của không quân và hoạt động tấn công của đổ bộ đường không (nếu sử dụng đổ bộ thẳng đứng).
Trong các phân đội lính thủy đánh bộ, cơ số vật chất được tăng cường. Trạm y tế của tiểu đoàn cũng được tăng cường các cơ số y tế thuốc và bông băng cứu thương, đồng thời cũng tăng cường quân số.
Trình tự tiến hành các hoạt động đổ bộ đánh chiếm mục tiêu:
Trước khi xuống tầu đổ bộ, các phân đội của tiểu đoàn lính thủy đánh bộ tập kết tại khu vực đợi tầu và kết thúc các công tác chuẩn bị cho đổ bộ. Để đưa phân đội lên tầu đổ bộ, tiểu đoàn được chỉ định khu vực tập kết. Cơ động di chuyển đến khu vực cầu cảng xuống tầu theo thứ tự quy định của nhiệm vụ chiến đấu theo từng tầu đổ bộ và mệnh lệnh người chỉ huy.
Khi các phân đội xuống tầu, trước hết đưa xuống tầu cơ sở vật chất phương tiện chiến đấu, vũ khí trang bị, đạn và vật chất chiến đấu, xăng dầu và các vật chất trang thiết bị khác với tính toán thời gian tiến độ và mức độ sử dụng cũng như tiêu hao phương tiện, cơ sở vật chất, đồng thời tính toán khả năng đổ bộ nhanh nhất lên bờ biển. Thứ tự đưa phương tiện chiến đấu xuống tầu ngược lại với thứ tự đổ bộ phương tiện chiến tranh và cơ sở vật chất, vũ khí trang bị lên bờ. Binhlực của phân đội xuống tầu sau khi trang bị, phương tiện chiến đấu đã hoàn tất.
Từ thời điểm nhận được nhiệm vụ của xuống tầu đổ bộ cho đến khi kết thúc việc đưa binh lực xuống tầu, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ nằm dưới quyền chỉ huy của chỉ huy trưởng đội tầu đổ bộ, trên các tầu đó tiểu đoàn cơ động vượt biển.
Trong quá trình hành tiến chuẩn bị đổ bộ, hạm đội hình thành cụm lực lượng tấn công chủ lực, bao gồm có các chiến hạm nổi, tầu ngầm, tầu phóng tên lửa và máy bay cường kích hải quân. Cụm tầu tấn công chủ lực có nhiệm vụ tấn công, yểm trợ hỏa lực chuẩn bị bãi đổ bộ, dọn sạch vật cản, chướng ngại vật và các bãi mìn chống đổ bộ trên bờ biển.
Đồng thời, hạm đội cũng hình thành lực lượng chống ngầm, bao gồm các tầu hộ tống, tầu chống ngầm và phương tiện chống ngầm trên không, có nhiệm vụ đảm bảo đánh chặn, tấn công và tiêu diệt tất cả các tầu ngầm đối phương trong phạm vi hành lang đổ bộ của lực lượng đổ bộ đường biển.
Trước giờ tấn công đổ bộ (H) - Toàn bộ lực lượng pháo binh - tên lửa phòng thủ bờ biển, pháo hạm, tên lửa tầm trung và tầm xa, máy bay cường kích tập trung hỏa lực tấn công dọn bãi đổ bộ.
Khi các tầu đổ bộ đến địa điểm tập kết dưới sự yểm trợ của hỏa lực quân binh chủng, dưới sự yểm trợ của các cụm tầu tấn công chủ lực, triển khai đội hình đổ bộ tấn công.
Đánh chiếm khu vực đầu cầu bàn đạp
Đánh chiếm khu vực đầu cầu bàn đạp 
 
Các xe tăng lội nước, xe bộ binh cơ giới BMP, xe thiết giáp chở quân BTR đổ bộ xuống biển trước khi tầu đổ bộ tiến đến điểm đổ quân và đổ bộ vào bờ. Sau khi các xe tăng bơi, xe bộ binh cơ giới cập bờ là các tầu đổ bộ, với tốc độ cao cập bờ và đổ bộ trực tiếp lực lượng lính thủy đánh bộ lên bờ. Các phân đội công kích của tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, dưới sự yểm hộ của hỏa lực pháo binh chiến hạm và máy bay chiến đấu, hỏa lực của các phân đội và các đòn tấn công trực tiếp trên các xe bộ binh cơ giới, thiết giáp và các phương tiện đổ bộ tốc độ cao đánh chiếm bàn đạp tấn công.
Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ đổ bộ tiếp theo và triển khai đội hình chiến đấu, vừa triển khai đội hình các phân đội của tiểu đoàn vừa tiêu diệt địch vừa công kích đánh chiếm khu vực đầu cầu, đánh chiếm bàn đạp và mở rộng khu vực bàn đạp tấn công theo chiều rộng và chiều sâu, đảm bảo cho đợt đổ bộ tiếp theo của lực lượng chính. Khi các lực lượng của thê đội I đổ bộ lên bờ, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ liên kết phối hợp theo nhiệm vụ tác chiến, củng cố vị trí đánh chiếm được và trong điều kiện thuận lợi, mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng hoàn thành nhiệm vụ tiếp theo trên bờ biển.
Các phân đội đổ bổ theo hướng có lực lượng đổ bộ đường không (từ máy bay trực thăng hoặc nhảy dù) nhanh chóng đột phá tuyến phòng ngự của đối phương, hợp quân với lực lượng đổ bộ đường không nhằm bao vây chia cắt địch, không cho đối phương co cụm hoặc phòng thủ chờ sự chi viện của hỏa lực tầm xa của địch, đồng thời vây hãm tiêu diệt địch trong tác chiến hỏa lực tầm gần.
Trong những trường hợp gặp khó khăn do lực lượng địch mạnh, điều kiện địa hình phức tạp hoặc hỏa lực tầm xa, hỏa lực không quân yểm trở của địch mạnh, các lực lượng đổ bộ cần kiến quyết bám sát địch, tạo thế đánh cận chiến kéo dài thời gian, buộc đối phương tiêu hao lực lượng và chờ lực lượng chủ yếu tiếp cận tiêu diệt địch.
Lực lượng phòng thủ bờ biển
Thông thường, lực lượng phòng thủ biển đảo được giao cho các đơn vị thuộc lực lượng lục quân, nằm trong các quân khu trên địa bàn phòng thủ. Các đơn vị lục quân tuyến duyên hải và hải đảo tổ chức xây dựng khu vực phòng thủ, đồng thời xây dựng trận địa phòng thủ bờ biển và hải đảo. Bố trí các tuyến phòng thủ vững chắc tại những địa điểm quan trọng, xung yếu hoặc thuận tiện cho đối phương có thể đổ bộ đường không và đường biển, đồng thời tổ chức bảo vệ các mục tiêu quan trọng, khu vực sân bay, bến cảng, tuyến hành lang giao thông.
Các đơn vị lục quân phòng thủ bờ biển tuyến duyên hải phối kết hợp chặt chẽ với các lực lượng bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, dân quân tự vệ và các lực lượng kiểm soát các hoạt động trên vùng biển được giao, đồng thời giữ hiệp đồng chặt chẽ với Bộ tư lệnh Hải quân, tiếp nhận thường xuyên các thông tin (hàng ngày, hàng giờ) về tình hình các hoạt động trên biển, theo dõi chặt chẽ khu vực được giao, phối kết hợp với các đơn vị kỹ chiến thuật của hải quân xây dựng các tuyến phòng thủ chống đổ bộ trong khu vực.
Với các đảo nhỏ, khu vực đặc quyền kinh tế, khu vực đang khai thác kinh tế nằm trong nền kinh tế hải dương và chủ quyền liên bang, nhiệm vụ bảo vệ được giao cho lực lượng Hải quân, thông thường là Lính thủy đánh bộ và các hạm đội trực chiến.
Khi xảy ra tình huống: Địch tiến hành đổ bộ quy mô lớn, hoặc tập kích, đánh chiểm đảo hoặc quần đảo….các đơn vị phòng thủ dựa trên tuyến phòng ngự xây dựng vững chắc có nhiệm vụ kiên quyết đánh chặn địch, kìm chân và tiêu hao tiêu diệt binh lực sinh lực địch.
Đồng thời, tiến hành trinh sát địch tình trên các tuyến phòng thủ bờ biển, hải đảo, nắm bắt chặt chẽ lực lượng địch, dẫn bắn, chỉ thị mục tiêu cho hỏa lực phòng thủ bờ biển, đồng thời tạo điều kiện tốt nhất khi tấn công phối hợp với lực lượng lính thủy đánh bộ đổ bộ đường biển hoặc đường không nhằm bao vây chia cắt, tiêu diệt lực lượng đổ bộ của địch. Kiên quyết không cho đối phương rút lui hoặc kéo dài thời gian xung đột.
Hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến 
Trong giai đoạn hiện nay, khả năng xảy ra xung đột, chiến tranh có giới hạn nhằm thôn tính chiếm đoạt một số các khu vực biển có tiềm năng kinh tế, chính trị rất lớn. Do tính chất phức tạp của các mối quan hệ quốc tế đồng thời với sự trỗi dậy của những cường quốc biển, các xung đột có thể xảy ra bất ngờ, với lực lượng tham chiến không lớn và quy mô nhỏ, nhưng tạo ra những khu vực tranh chấp và những vùng tranh chấp hoặc có thể là một cuộc xung đột quy mô lớn, trên các phạm vi trên không, trên biển và trên đất liền (biên giới – Bờ biển – Hải đảo). Nhiệm vụ của lực lượng phỏng thủ bờ biển – hải đảo là: Dập tắt và tiêu diệt ngay tức khắc mọi âm mưu tranh chấp chủ quyền, xung đột trên biển, hải đảo. Nhanh chóng tiêu diệt trong thời gian ngắn nhất (giới hạn thời gian được tính bằng giờ và ngày) nhằm bảo vệ vững chắc và không thể tranh cãi chủ quyền biển – đảo trong bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia.
Bản đồ dự kiến đổ bộ của lực lượng thù địch trong cuộc diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011 của Nga và Khazastan năm 2011
Bản đồ dự kiến đổ bộ của lực lượng thù địch trong cuộc diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011 của Nga và Khazastan năm 2011.
 
Để thực hiện được điều đó, Bộ quốc phòng và lực lượng hải quân nói chung, lực lượng phòng thủ biển đảo nói riêng, xét trên góc độ phức tạp về mặt địa hình, vùng biển - bờ biển và không gian tác chiến, tính đa dạng trong sử dụng lực lượng bảo vệ, cần có một hệ thống chỉ huy, điều hành tác chiến liên quân của 4 lực lượng: Lục quân, hải quân, không quân và phòng thủ vũ trụ - phòng không. Hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, điều hành tác chiến hoạt động theo phương châm: Tự động hóa – công nghệ thông tin hóa, quản lý tập trung, tổ chức phân tán. Sử dụng triệt để những thành quả công nghệ truyền thông và công nghệ thông tin nhằm cập nhật nhanh chóng, kịp thời mọi tình huống trên biển, bờ biển và hải đảo trong thời gian ngắn nhất, cho phép các lực lượng phản ứng tập trung, linh hoạt và nhanh chóng khi tình huống xảy ra.
Với ứng dụng của hệ thống quản lý tự động hóa với những kịch bản tương đương được lập trình xây dựng sẵn sàng, trong thời gian ngắn, mọi kế hoạch tác chiến sẽ tiếp cận đến những phân đội tác chiến trực tiếp, đồng thời theo phương thức lan truyền, cập nhật đến mọi lực lượng có quan hệ tác chiến liên kết phối hợp, đến các ban tham mưu và chỉ huy trưởng các đơn vị binh chủng hợp thành, tư lệnh trưởng lực lượng liên quân, các đơn vị theo kịch bản nhiệm vụ chủ động, linh hoạt thực hiện theo kế hoạch tác chiến dự kiến đồng thời kết nối liên lạc phản hồi nhằm đồng bộ hóa đa chiều công tác chỉ huy điều hành tác chiến trên không gian chiến trường dự kiến.
Trong phương thức "quản lý tập trung, tổ chức phân tán trên nền tảng công nghệ thông tin và tự động hóa”. Yêu cầu quan trọng nằm trong tính độc lập, linh hoạt và sáng tạo của chỉ huy các cấp trước tình huống đặt ra, phản ứng nhanh chóng và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao của các đơn vị thuộc quyền. Đồng thời, cũng trong thời gian ngắn nhất, không phụ thuộc vào khoảng cách địa lý hoặc sự mở rộng của không gian chiến trường. Mọi phương tiện hỏa lực phải được tập trung ở mức độ cao nhất. Mỗi điểm tác chiến có thể được quản lý bởi nhiều phương tiện hỏa lực, đồng thời, mỗi phương tiện hỏa lực trên khả năng của vũ khí trang bị, phải quản lý nhiều mục tiêu tác chiến.
Bản đồ chiến dịch trong diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011( click xem toàn bộ bản đồ)
Bản đồ chiến dịch trong diễn tập Lá chắn đồng minh - 2011
 
Với phương thức quản lý trên, mọi tình huống bất ngờ (đối phương bất ngờ tập kích cường độ thấp nhằm tạo ra tranh chấp, hoặc tập kích với quy mô lớn trên không, trên biển và trên đất liền theo nhiều hướng, chiến tranh không tuyên bố hoặc xung đột khu vực) sẽ có giải pháp tức thời nhằm ngăn chặn, đẩy lùi, hoặc tiêu diệt triệt để mọi hành vi xâm phạm đến chủ quyền và lợi ích đất nước.
Trịnh Thái Bằng