Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

Truy đuổi tàu ngầm ở Biển Đông


Mùa hè năm 1972, tàu ngầm Guardfish (SSN-612) đang triển khai ở biển Nhật Bản khi mà các sự kiện trên thế giới đã đẩy vị thuyền trưởng, trung tá hải quân David C.Minton III và thủy thủ đoàn của ông tham gia vào một cuộc phiêu lưu để đời.
Tiền Phong giới thiệu câu chuyện về cuộc chạm trán hải quân giữa tàu ngầm hai cường quốc Liên Xô và Mỹ ở Biển Đông trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam, qua lăng kính người Mỹ.
Từ trên xuống dưới, nhìn qua kính tiềm vọng: Tu-16, Tu-95 và Charlie
Từ trên xuống dưới, nhìn qua kính tiềm vọng: Máy bay ném bom chiến lược tầm xa của Liên Xô Tu-16, Tu-95 và tàu ngầm Charlie.
Ngày 9 tháng 5, cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã nóng lại khi cuộc đàm phán hòa bình tai Paris đổ vỡ, và các lực lượng của Mỹ đã bắt đầu thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng và các cảng quan trọng khác của miền Bắc Việt Nam. Mục đích cuộc phong tỏa nhằm ngăn chặn quân đội Bắc Việt Nam mà cuộc tiến công của họ đang được tiếp tế bằng đường biển bởi các đồng minh. Tàu Guardfish đã nhận được điện tín thông báo về khả năng sẽ có sự đáp trả bằng hải quân từ phía những người Xô Viết.
Tình hình thế giới rất căng thẳng. Không ai biết Liên bang Xô Viết sẽ phản ứng thế nào trước cuộc phong tỏa thủy lôi này. Tàu ngầm Guardfish đang ở độ sâu kính tiềm vọng tại một vị trí gần căn cứ hải quân lớn nhất của người Xô Viết tại Thái Bình Dương. Vào chiều tối ngày 10 tháng 5, một mục tiêu tiếp xúc bề mặt bị phát hiện ở ngoài kênh và nó đang di chuyển với tốc độ cao cắt ngang các đường giới hạn thông thường của kênh thủy đạo và hướng thẳng về phía tàu ngầm Guardfish đang chờ đợi. Khi tiếp xúc lại gần hơn nữa trong bóng tối đang sẫm lại, chúng tôi đã xác định được một cách trực quan đó là một tàu ngầm tên lửa Xô viết lớp Echo-2.
Tàu ngầm đó có lượng giãn nước 5.000 tấn, được cấp nguồn năng lượng từ lò phản ứng hạt nhân, mang theo 8 tên lửa Shaddock diện-diện (surface-to-surface missiles) có thể bắn trúng các mục tiêu ở khoảng cách lên đến 200 dặm. Guardfish bám theo nó. Chẳng mấy chốc Echo-2 lặn sâu xuống nước tiến theo hướng Đông-Nam với vận tốc lớn. Đó phải chăng là cuộc xuất kích đáp trả sự phong tỏa Hải Phòng bằng thủy lôi?
Trong hai ngày sau, tàu ngầm Liên Xô thường xuyên giảm tốc độ dành nhiều thời gian lặn ở độ sâu kính tiềm vọng, có thể để nhận các mệnh lệnh chi tiết từ tư lệnh hải quân chỉ huy nó. Trong khi lắng nghe Echo, Guardfish cũng bơi chậm lại, điều đó mở rộng đáng kể phạm vi phát hiện của sonar trên tàu. Trước sự ngạc nhiên của thủy thủ đoàn và sự báo động, có lẽ họ đã phát hiện ít nhất hai và có thể là ba chiếc tàu ngầm Liên Xô trong khu vực. Một tàu ngầm đã rất khó theo dõi, đeo bám ba hoặc bốn tàu ngầm là điều không thể! Vì vậy họ tập trung mọi nỗ lực duy trì tiếp xúc với Echo II mà họ đã xác định được bằng trực quan.
Tàu ngầm tuần dương chiến lược mang tên lửa đạn đạo Delta qua kính tiềm vọng
Tàu ngầm tuần dương chiến lược mang tên lửa đạn đạo Delta qua kính tiềm vọng.
 
Khi Echo II tiếp tục di chuyển tới lối ra phía nam của Biển Nhật Bản, thuyền trưởng phải thực hiện hai quyết định quan trọng. Thứ nhất, việc triển khai của ba, cũng có thể là bốn tàu ngầm Liên Xô có đáng để phá vỡ sự im lặng vô tuyến điện hay không? Ưu tiên số một trong tất cả các chiến dịch giám sát tàu ngầm là phải cung cấp được sự cảnh báo sớm về một cuộc triển khai bất thường của các tàu hải quân Liên Xô. Đây là loại báo cáo, gọi là báo cáo khẩn, chưa bao giờ được gửi đi trước đây.
Thuyền trưởng xác định rằng bây giờ là lúc cho Guardfish phá vỡ sự im lặng đó và ông đã thông báo cho chỉ huy chiến dịch biết tình hình tại chỗ. Thứ hai, Guardfish nên từ bỏ nhiệm vụ giám sát của mình trong Biển Nhật Bản để tiếp tục bám theo chiếc tàu ngầm Liên Xô? Lệnh hoạt động về trường hợp này vẫn im lặng chưa thấy tới, nhưng thuyền trưởng có cảm giác rằng người chỉ huy chiến dịch của họ muốn biết nơi người Xô viết sẽ đến. Bởi vì ông không thừa thãi thời gian để chờ đợi mệnh lệnh nên ông viện dẫn một tín điều bí mật của các chỉ huy tàu ngầm, "Không có can đảm, sẽ không có dải băng anh hùng". Và thế là họ theo đường của họ!
Theo dõi là một nhiệm vụ phức tạp. Đối với một chiếc tàu ngầm để không bị phát hiện thì vị trí tiếp xúc, và đương nhiên, cả tốc độ của nó cũng phải được xác định bằng cách sử dụng các phương vị sonar thụ động. Dải thụ động đòi hỏi Guardfish cần liên tục cơ động để tạo ra phương vị thay đổi so với đối tượng tiếp xúc. Quá gần bạn có thể bị phát hiện, quá xa tiếp xúc có thể bị mất. Những thao tác cơ động này thường được tiến hành trong khu vực lạc hướng của đối tượng tiếp xúc, điểm mù phía đuôi tàu.
Tàu ngầm Echo II hàng giờ đảo hướng để xóa khu vực lạc hướng này (baffle area). Đôi khi đó là cú ngoặt rất thụ động đến 90 độ để sonar của con tàu có thể lắng nghe mọi điều đằng sau nó và vào các thời điểm khác, con tàu lại chủ động quay 180 độ và phóng thật nhanh trở lại theo hướng cũ về phía Guardfish. Thao tác cơ động này rất nguy hiểm tạo ra khả năng một vụ va chạm thực sự. Ít nhất nó sẽ tạo ra cơ hội phát hiện sự hiện diện của Guardfish khi khoảng cách giữa 2 tàu ngầm gần lại. Khi Echo thực hiện thao tác cơ động xóa vùng mù thủy âm, Guardfish cố gắng dự đoán Echo-II sẽ quay hướng nào, nhằm bám theo một cách vô hình tàu ngầm Xô Viết từ phía đối diện. Ngoài ra, Guardfish còn phải ngay lập tức giảm tốc độ sao cho im lặng đến mức có thể và dành nhiều thời gian và tăng khoảng cách hơn nữa cho đến khi Echo II quay trở lại hướng di chuyển trước đây của nó.
Sovremenny
Chiến hạm đầy uy lực Sovremenny của Liên Xô.
 
Ở Washington người ta cần có các báo cáo tình hình thường xuyên để đánh giá mối đe dọa và ý đồ của các lực lượng Xô Viết. Tổng thống Nixon và Cố vấn An ninh Quốc gia của ông hàng ngày được giới thiệu các phúc trình tóm tắt. Do việc truyền sóng radio tần số cao công suất lớn từ Guardfish là đối tượng để phát hiện và định vị bởi mạng lưới chặn bắt sóng điện từ của Liên Xô, một phương pháp liên lạc thay thế đã được thiết lập.
Máy bay chống ngầm P-3 của Hải quân đã bay những phi vụ bí mật trên các vị trí dự đoán có Guardfish và nhận được các báo cáo tình hình thông qua các bản tin ngắn phát trên tần số siêu cao hoặc trực tiếp từ Guardfish ở độ sâu kính tiềm vọng hoặc thông qua các phao phát tín theo khe thời gian, các bộ truyền phát tiêu hao nguồn nhỏ có thể lập trình với một bản tin ngắn và phóng ra từ bộ ejector tín hiệu (signal ejector) trong khi Guardfish vẫn đang ở độ sâu theo dõi.
Figure 33.-Submarine Signal Ejector
Figure 33.-Submarine Signal Ejector.
 
Trong gian đoạn theo dõi này, bất kỳ tàu ngầm nào đang ở trên Thái Bình Dương đều được triển khai khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho các tàu sân bay đang hoạt động ngoài khơi duyên hải Việt Nam, cũng như để dò tìm các tàu ngầm Xô viết. Sự triển khai này tạo thành một vấn đề nhiễu loạn qua lại, đối với bản thân tàu ngầm Guardfish, cũng như đối với bộ tham mưu chiến dịch hoạt động tàu ngầm này.
Guardfish được trao nhiệm vụ đến bất cứ nơi nào mà tàu ngầm Echo Xô Viết đi tới và bộ tham mưu phải tái bố trí sự triển khai các tàu ngầm thường xuyên để đảm bảo rằng nhiều tàu ngầm Mỹ êm hơn sẽ không gây nguy hiểm cho nhau hoặc cho bản thân Guardfish.
Echo-II
Tàu ngầm hạt nhân chiến lược Echo-II.
Tuần dương hạm hạng nặng chở máy bay Kiev
Tuần dương hạm hạng nặng chở máy bay Kiev.
 
Một lần khi đang ở trong biển Philippines Echo II quay về phía tây nam tiến theo hướng đến Bashi Channel, một eo biển giữa Đài Loan và các đảo nhỏ phía bắc đảo Luzon quần đảo Philippines. Bashi Channel thường được dùng như thủy đạo bắc vào Biển Đông và thuyền trưởng phải chắc chắn rằng đó là mục tiêu của Echo II, nhưng dấu vết của họ lại tiếp tục dẫn về phía nam so với hướng bình thường. Sau đó, Echo II đi chậm lại và chuyển lên chiều sâu kính tiềm vọng rồi tiếp tục chủ động đi rất nhanh dựa trên máy dò sâu của mình có thang đo ngắn không phù hợp với độ sâu của nước ở khu vực này. Tàu ngầm đã mất dấu!
Trong khi ở độ sâu kính tiềm vọng, con tàu Xô Viết chắc đã phải thu nhận được một sự chỉnh sửa tốt bởi vì Echo II đã lặn xuống sâu, hướng về Bashi Channel, tăng tốc độ lên 16 hải lý. Sau khi báo cáo về sự điều chỉnh hướng nhanh chóng này qua các phao phát tín hiệu, Guardfish tăng tốc phóng theo tàu Xô Viết, biết rằng việc tái định vị các tàu ngầm Mỹ sẽ gần như là không thể nếu dựa trên bản tin ngắn này. Như là một biện pháp phòng ngừa chống va chạm với một tàu ngầm Mỹ, thuyền trưởng thay đổi độ sâu đến 100 mét, độ sâu thường được sử dụng bởi các tàu ngầm Liên Xô và đó là độ sâu mà các tàu ngầm Hoa Kỳ thường tránh. Mối lo sợ của ông đã được chứng minh khi Guardfish phát hiện một tàu ngầm của Mỹ đang tiến xa về phía bắc với tốc độ rất cao.
Ngày 18 Tháng 5 Echo II đi vào Biển Đông và chuyển đến một điểm ngoài khơi cách bờ biển đảo Luzon khoảng 300 dặm. Trong tám ngày, nó thiết lập lưới cơ động chậm rãi tạo nên một khu vực tuần tra hình chữ nhật cách xa khoảng 700 dặm tới tuyến mà các tàu sân bay của chúng ta đang di chuyển dọc theo bờ biển Việt Nam và vượt xa ngoài phạm vi xạ kích tên lửa 200 dặm của nó.
Trong khi nhóm theo dõi phải vật lộn để duy trì tiếp xúc với Echo II, các sự kiện trên thế giới đang chuyển sang xu hướng hòa bình hơn. Sau các cuộc đàm phán lâu dài, Tổng thống Nixon đã đến Moskva tham dự hội nghị thượng đỉnh lịch sử của mình với Tổng Bí thư Brezhnev của Liên Xô. Trong thời gian hội nghị thượng đỉnh, ngày 24 tháng 5, Cố vấn An ninh quốc gia Kissinger thông báo cho ông Brezhnev rằng Hoa Kỳ đã biết việc Liên Xô triển khai các tàu ngầm và sự hiện diện của họ quá gần khu vực chiến tranh Việt Nam là một hành động khiêu khích và cực kỳ nguy hiểm. Trong hai ngày kể từ cuộc đối chất này, người Liên Xô nhắm mắt làm ngơ và tàu ngầm Echo bắt đầu hướng về phía bắc.
Sau khi vượt qua Bashi Channel tàu ngầm Echo thiết lập một khu vực tuần tra thứ hai trong biển Philippines về phía nam đảo Okinawa. Khu vực này của đại dương có những đặc tính về thủy âm tồi nhất đến mức có thể. Nó thường bị đan chéo bởi các giao thông thương mại dày đặc và vào ban đêm tiếng ồn sinh học và các cơn mưa thường xuyên làm nhiễu loạn sonar. Duy trì tiếp xúc trở nên khó khăn hơn so với trước đây, làm cho Guardfish cần phải bám đuổi ở những khoảng cách gần hơn và gần hơn nữa.
Một thủ tục dài nhằm chuyển sự theo dõi cho một tàu ngầm khác của Mỹ, vừa được phát triển bởi bộ tham mưu, được phát trên mạng truyền tin rộng rãi. Trong khi Guardfish đang ở độ sâu kính tiềm vọng sao chép tin nhắn khẩn cấp này, tàu ngầm Echo II đã bất ngờ nổi lên độ sâu kính tiềm vọng và phát hiện trực quan được Guardfish. Các thao tác cơ động tiếp theo của cả Guardfish và Echo II diễn ra rất mãnh liệt và ở tốc độ cao. Việc cố giữ tiếp xúc cảnh báo được chứng minh là không thể và tiếp xúc với Echo II đã bị mất.
Victor-II
Victor-II.
 
Khi Guardfish trở về Guam vào ngày 10 tháng 6, thủy thủ đoàn đã bơi ngầm 123 ngày với chỉ 8 ngày ngừng đi biển để sửa chữa. Họ đã thực hiện hai hoạt động có yêu cầu đặc biệt bao gồm cuộc theo dõi 28 ngày tàu ngầm Xô viết Echo II trong những điều kiện cực kỳ căng thẳng, nhưng tinh thần của Guardfish cực kỳ cao. Các sĩ quan và thủy thủ đoàn tự hào rất chính đáng về những gì họ đã hoàn thành.
Chi tiết cuộc chạm trán, truy đuổi hết sức căng thẳng, gay cấn giữa lực lượng tàu ngầm chiến lược Xô - Mỹ ở Biển Đông nhìn nhận thế nào bởi chỉ huy hai phía Liên Xô và Mỹ sẽ được đăng tải trong các kỳ tiếp theo.


Chuẩn đô đốc hải quân Liên Xô Alfred Semenovitch Berzin kể về sự kiện người Mỹ khoe tàu ngầm chiến lược Mỹ truy đuổi tàu ngầm hạt nhân Liên Xô do chính ông chỉ huy...
Mới đây thôi, người ta đưa cho tôi cuốn sách "Các tàu ngầm của Hoa Kỳ" (United States Submarines), trong đó tôi đọc được bài viết của đại tá hải quân Mỹ đã về hưu David Minton với tiêu đề "Tàu ngầm Guardfish truy kích tàu ngầm lớp Echo". Ngay lập tức tôi hiểu rằng David Minton truy đuổi tàu ngầm K-184, hồi đó do tôi chỉ huy. Tôi sẽ kể về sự kiện đó từ góc nhìn của mình, trong khi đó cũng quan tâm tới những bình luận của David Minton.
Khi đang phục vụ trên cương vị hạm trưởng tàu ngầm nguyên tử K-184 trên Thái Bình Dương, tôi đã tham gia vào hoạt động trinh sát chống lại tàu sân bay xung kích "America", tàu sân bay và săn ngầm "Ticonderoga", và đồng thời chống lại tàu ngầm nguyên tử Guardfish..."
Những kinh nghiệm thu được (trong thời gian đó) đã có ích cho giai đoạn phục vụ sau này của tôi. Trong thời gian học tập tại trường sỹ quan Hải quân, rồi tại hệ đào tạo cao cấp cho sỹ quan tại Học viện Hải quân, người sỹ quan cần phải thu nhận được kiến thức cơ bản và chuyên sâu về phương pháp tiến hành trinh sát, vững vàng làm chủ và biết cách sử dụng trên thực tế các phương tiện trinh sát, biết cách phân tích các số liệu thu được về đối thủ và ra các kết luận phù hợp, mà trên cơ sở đó cần cho anh ta ra quyết định sử dụng ngư lôi hay tên lửa hay là tránh (tạm lánh) khỏi các lực lượng săn ngầm của đối thủ.
Quá trình học tập và rèn luyện này phải tiếp tục ngay cả tại hạm đội, nghĩa là không được phép ngừng. Đối với bất kỳ người hạm trưởng tàu ngầm nào, trong thời bình cũng phải tạo ra khả năng thu nhận kinh nghiệm tiến hành các hoạt động trinh sát các tàu mặt nước, tàu ngầm của đối thủ tiềm năng. Về tàu ngầm của đối thủ tiềm năng, chỉ huy của chúng ta cần phải biết tường tận lần lượt các vấn đề sau:
- Độ ồn,
- Khả năng của tổ hợp định vị thủy âm,
- Các thông số của trạm vô tuyến định vị,
- Chiến thuật hoạt động,
- Các phương tiện chống định vị thủy âm,
- Các tốc độ lớn nhất và ít tiếng ồn nhất,
- Chiều sâu lặn lớn nhất,
- Khả năng của vũ khí ngư lôi và tên lửa.

Tàu ngầm nguyên tử đề án 675 trong ngày lễ Hải quân tại vịnh Amur. Vladivostok, 198x. - Sư đoàn tàu ngầm số 10 Hạm đội Thái Bình Dương. Con người, sự kiện, chiến hạm. - Saint-Petersbourg, 2005. Số đặc biệt của tạp chí Taifun
Tàu ngầm nguyên tử đề án 675 trong ngày lễ Hải quân tại vịnh Amur. Vladivostok, 198x. - Sư đoàn tàu ngầm số 10 Hạm đội Thái Bình Dương.
Ngày 9 tháng 5 năm 1972, chiếc tàu ngầm K-184 do tôi chỉ huy đã trực chiến một tháng tại vịnh Pavlovskii. Buổi sáng, toàn sư đoàn tập hợp tại sân tập và tư lệnh sư đoàn, chuẩn đô đốc Verenikin I.I. chúc sức khỏe và chúc mừng từng thủy thủ đoàn nhân Ngày Chiến thắng phát xít Đức, tiếp theo là lễ diễu binh trọng thể ngang qua lễ đài cùng với Bộ chỉ huy sư đoàn. Sau đó tôi bước vào phiên trực chiến và nhận được tin trinh sát tình báo như sau:
"Khu vực bán đảo Đông Dương. Tiến hành các hoạt động chiến tranh chống lực lượng yêu nước Đông Dương hiện có các tàu sân bay xung kích "Coral Sea", "Kitty Hawk", "Saratoga", tại khu vực 170 dặm phía nam Sài Gòn là tàu "Constellation" trong sự hỗ trợ đảm bảo của 38 tàu chiến các loại khác. Trong một ngày đêm, từ các tàu sân bay đã thực hiện 353 phi vụ, trong đó có 256 phi vụ không kích."
Trong nửa sau ngày hôm đó, Hạm đội Thái Bình Dương chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, còn chiếc tàu ngầm của chúng tôi thì được lệnh báo động. Theo điều lệnh quy định, thủy thủ đoàn sắp xếp và sẵn sàng chờ lệnh. Đã có lệnh tất cả ở nguyên trên tàu. Trạm năng lượng chính (ГЭУ-Главную энергетическую установку)) còn chưa đưa vào hoạt động.
Vào chiều tối, tư lệnh sư đoàn, chuẩn đô đốc Verenikin I.I. gọi tôi lên buồng chỉ huy của ông và ra lệnh cho phát động cả hai trạm năng lượng hai mạn tàu (nói đơn giản là khởi động lò phản ứng), và ông nói ngắn gọn: "Hãy tới Biển Đông để giúp đỡ người anh em Việt Nam". Ngoài ra, từ ông tôi biết được, các tàu ngầm "K-45" (hạm trưởng đại tá hải quân Yu.N.Ganz) và "K-57" (hạm trưởng đại tá hải quân Shipovnikov Yu.Ph.) cũng đến đó sau chúng tôi.
K-45, tàu đầu tiên đề án 659, chính thức nhập biên chế Hải quân năm 1961. Vũ khí - 6 tên lửa hành trình
K-45, tàu ngầm đầu tiên đề án 659, chính thức nhập biên chế Hải quân năm 1961. 
 
Ngày 10 tháng 5, từ sáng sớm, cả hai trạm năng lượng hai mạn đều chuyển sang chế độ tuabin phát. Lệnh chiến đấu bằng điện tín đã tới, lệnh đó cùng với hành trình trên hải đồ đã được Tham mưu trưởng sư đoàn đại tá hải quân Abramov M.B. trao cho hạm truởng. Sau những chỉ thị cuối cùng của tư lệnh sư đoàn, tàu "K-184" rời bến bắt đầu di chuyển theo hải trình.
David Minton viết: "Mùa hè năm 1972, tàu ngầm Guardfish (SSN-612) đang ở biển Nhật Bản khi mà các sự kiện trên thế giới đã lôi cuốn nó và thủy thủ đoàn của nó tham gia vào cuộc phiêu lưu thế kỷ. Cùng với sự thất bại của các cuộc đàm phán hòa bình tai Paris, từ ngày 9 tháng 5, chiến tranh tại Việt Nam đã chuyển sang một bước ngoặt đột ngột và quân đội chúng ta đã phong tỏa bằng thủy lôi cảng Hải Phòng và các cảng quan trọng khác của miền Bắc Việt Nam nhằm cắt đứt sự tiếp tế đường biển cho quân đội Bắc Việt Nam. Trên tàu Guardfish đã được thông báo về khả năng sẽ có chiến dịch hải quân đáp trả từ phía những người Xô Viết. Tình hình thế giới đã nóng bỏng đến mức tới hạn. Không ai biết Liên bang Xô Viết sẽ phản ứng thế nào trước cuộc phong tỏa thủy lôi này.
Tàu ngầm Guardfish đang ở vị trí gần với căn cứ hải quân lớn nhất của người Xô Viết tại Thái Bình Dương, với tư thế chìm sâu dưới mặt nước và quan sát tình hình qua kính tiềm vọng. Vào chiều tối Guardfish đã quan sát thấy bằng kính tiềm vọng một tàu ngầm đang cắt ngang thủy đạo với một tốc độ khá lớn và hướng thẳng về phía tàu ngầm Guardfish đang chờ sẵn nó. Khi tiếp xúc gần hơn nữa, từ khối vật thể tối sẫm đang di chuyển đó, chúng tôi đã nhận ra một tàu ngầm tên lửa Xô viết lớp Echo-2. Tàu ngầm đó có lượng giãn nước 5.000 tấn, trang bị lò phản ứng hạt nhân, mang theo trên tàu 8 tên lửa đất đối đất Shaddock có thể bắn trúng mục tiêu ở khoảng cách 200 dặm. Guardfish bám theo nó. Chẳng mấy chốc Echo-2 lặn sâu xuống nước và thẳng hướng Đông-Nam, sau đó di chuyển với vận tốc lớn. Đó phải chăng là cuộc xuất kích đáp trả sự phong tỏa Hải Phòng bằng thủy lôi?
Cuộc phiêu lưu trong chiến tranh Lạnh. Tháng 5 năm 1972. Nhìn từ quan điểm của kẻ thù tiềm năng
Sơ đồ cuộc phiêu lưu tàu ngầm trong chiến tranh Lạnh tháng 5 năm 1972.
 
Ngày 11 tháng 5. Độ sâu 100m, tốc độ 12,5 hải lý. Sau mỗi giờ đồng hồ, chúng tôi lại chuyển hướng 90 độ. Chúng tôi lắng nghe đằng lái xem có dấu hiệu bị theo dõi bởi tàu ngầm Mỹ không. Cuộc sống trên tàu ngầm đã vào nề nếp và đang đi vào guồng quay của nó. Từ tin trinh sát được biết:"Tại Việt Nam đang có 6 tàu sân bay xung kích và 2 tàu đổ bộ chở máy bay trực thăng". Trong phiên liên lạc ghi nhận tín hiệu của trạm vô tuyến định vị AN/APS-20 trên máy bay săn ngầm "Neptune" của Mỹ: tín hiệu yếu. Chúng tôi chuyển hướng hành trình và lặn xuống độ sâu 200m.
Ba mươi phút sau, thiếu tá trưởng ban 2 (vũ khí tên lửa-pháo) Tsimbalenko V.I. có mặt tại buồng điều khiển trung tâm và báo cáo rằng ống cáp của thùng chứa số 6 rỏ nước, có nghĩa là thùng chứa số 6 không kín, mà trong đó lại đang chứa tên lửa với bộ phận tác chiến đặc biệt. Nếu thùng chứa bị ngập nước, tên lửa sẽ bị loại khỏi đội hình, đó thực sự là mối nguy cơ tiềm tàng cho hệ thống vũ khí. Vậy là ngay từ đầu chuyến đi chúng tôi đã lâm vào tình trạng này rồi: Làm gì đây?
Sau khi nghe báo cáo của trưởng ban 2 thiếu tá Tsimbalenko V.I. và đề nghị của trưởng ban 5 (ban kỹ thuật cơ điện) trung tá Baiburin M.S., tôi quyết định mở van xả khoang số 7 để nước từ thùng chứa số 6 chảy vào khoang hầm tàu vốn được chế tạo để đo lượng nước thâm nhập-10 lít một phút, nước trong khoang hầm theo định kỳ được máy bơm nước bơm ra ngoài tàu. Ngoài việc đó ra tôi cũng quyết định cho tàu nổi lên để thử bít lại chỗ hở (khe nứt) trên ống cáp thùng chứa số 6.
 
Vào lúc 15h20 phút, chúng tôi nổi lên, quay máy nâng cao thùng chứa số 5 và số 6 và nhóm chuyên gia kỹ thuật bắt đầu xem xét ống cáp thùng chứa số 6. Mười phút sau tại đường chân trời đã thấy bóng 2 tàu đánh cá Nhật Bản, chúng tôi chuyển hướng tránh xa chúng, vào 15h35 phút, ghi nhận tín hiệu của đài vô tuyến định vị AN/APS-20 trên máy bay chống ngầm "Neptune" (tức P2 "Neptune") của Mỹ: tín hiệu yếu. Tôi ra lệnh tạm thời lặn xuống và tránh máy bay. Trưởng ban 2 thiếu tá Tsimbalenko và trưởng ban 5 trung tá Baiburin M.S. báo cáo rằng sau khi kiểm tra thấy mọi việc vẫn tốt, như vậy có nghĩa là khiếm khuyết này không nhìn thấy được bằng mắt thường.
Ba mươi phút sau nước lại chảy vào qua van xả khoang số 7. Tôi quyết định lại nổi lên một lần nữa để sửa chữa. Trưởng ban 5 trung tá Baiburin M.S. đề nghị phủ mặt bích lại bằng lớp băng gắn keo epoxy. Lúc 20h00 chúng tôi nổi lên để tiến hành làm theo đề nghị đó, đồng thời qua radio điện báo về bờ tình trạng nước chảy vào thùng chứa số 6. Chúng tôi nhận được tin trinh sát: "Các tàu sân bay xung kích "Coral Sea", "Kitty Hawk", "Constellation" đang ở cách Đà Nẵng 190 dặm về phía bắc. Tàu sân bay xung kích "Midway" đang ở phía đông Sài Gòn với sự hộ tống của 47 tàu chiến khác. Trong một ngày đêm từ các tàu sân bay trên đã có 369 phi vụ được thực hiện, trong số đó các phi vụ tấn công là 279. Trong thời gian một ngày đêm vừa qua, các tàu sân bay và các máy bay ném bom Mỹ đã hai lần dùng pháo hạm bắn phá và dùng máy bay ném bom tấn công các công trình bến cảng tại Hải Phòng và Cẩm Phả, đảo Cát Bà và bán đảo Đồ Sơn, kết quả của những cuộc oanh tạc đó là tàu chở hàng Xô viết "G.Akopian" tại cảng Cẩm Phả đã bị bắn cháy. Tàu sân bay đổ bộ chở máy bay lên thẳng "Okinawa" trong thành phần nhóm tàu tác chiến thủy bộ đang ở cách Đà Nẵng về phía bắc 180 dặm."
 
David Minton viết tiếp: "Trong hai ngày tiếp sau, tàu ngầm Xô Viết thường đi chậm lại và một thời gian dài đi ngầm ở độ sâu khả dụng của kính tiềm vọng, có lẽ là đang nhận mệnh lệnh cụ thể từ Bộ chỉ huy Hải quân. Trong thời gian lắng nghe Echo-2, con tàu Guardfish cũng giảm tốc độ để mở thật rộng âm vực hoạt động của hệ thống sonar. Thủy thủ đoàn rất ngạc nhiên và bối rối khi phát hiện ra ít nhất có thể là 2, mà cũng có thể là có đến 3 tàu ngầm Xô Viết nữa có mặt trong khu vực này. Một tàu ngầm mà theo dõi 3 tàu ngầm là vấn đề rất phức tạp, nếu phải theo dõi đến 4 tàu ngầm khác thì đơn giản là không thể. Nhóm quân nhân theo dõi của tàu Guardfish đang tập trung mọi nỗ lực để giữ được kiếm soát với tàu ngầm Echo-2 mà họ có thể phân biệt bằng thị giác."
Ngày 12 tháng 5. Nước lại xâm nhập từ ống cáp của thùng chứa vũ khí tên lửa số 6 qua van xả vào khoang số 7. Vì việc này tôi quyết định tiếp tục bơi ở độ sâu không quá 80m. Vào lúc 6h00 chúng tôi đi qua đảo Ulyndo. Lúc 12h00 nổi lên ở chiều sâu khả dụng kính tiềm vọng để xác định vị trí. Tại đường chân trời, ở các phương vị 1200-2500, khoảng cách 7 dặm là gần 50 thuyền đánh cá Nhật Bản. Trưởng ban 1 (hoa tiêu) thiếu tá hải quân Voronin V.báo cáo rằng có tiếng dội từ máy đo sâu. Cùng với hoa tiêu, tôi xác định vị trí theo Mặt Trời và "Loran A và C". Vào 16h34 phút vọng lại một loạt tiếng dội và chúng tôi may mắn đi ngang qua dải đá ngầm ở chiều sâu từ 9 đến 30m.
........
David Minton viết tiếp: " Bằng cách đó, khi Echo-2 vẫn tiếp tục hành trình rời biển Nhật Bản đi về phía Đông Nam, tôi với tư cách hạm trưởng (Guardfish) cần phải quyết định 2 vấn đề quan trọng. Thứ nhất, việc phát hiện 3 mà có thể đến 4 tàu ngầm Xô viết có đáng để (Guardfish) ngừng phát sóng liên lạc radio không? Vấn đề quan trọng trước hết khi thực hiện giám sát hoạt động của tàu ngầm là làm sao có thể cảnh báo sớm nhất về trường hợp bố trí bất thường này của các tàu ngầm quân sự Xô Viết. Kiểu tin tình báo "khẩn cấp" như thế , trước đây chưa bao giờ được tôi gửi đi, Tôi quyết định ngay lập tức truờng hợp này, khi mà Guardfish còn có thể phá vỡ im lặng, thông báo về tình thế cho Tổng tư lệnh của mình. Thứ hai, Guardfish có nên chấm dứt sự giám sát tại biển Nhật Bản và bám theo tàu ngầm Xô Viết kia (K-184) hay không. Lệnh từ Bộ chỉ huy (Mỹ) đối với vấn đề này - vẫn im lặng. Nhưng có lẽ Tổng tư lệnh muốn biết-người Xô Viết đi đâu. Vì không đủ thời gian để chờ lệnh nữa, tôi đành nói một câu phương ngôn với Tổng tư lệnh của chúng tôi: "Yếu đuối thì không thể thành anh hùng" và chúng tôi bám theo dấu vết.
Ngày 13 tháng 5. Mây mù cấp 10, tầm nhìn xa 2-5 dặm, biển động cấp 3-4. Chúng tôi đã đến gần eo biển Triều Tiên, còn cách đảo Okinoxima 15 dặm. Chúng tôi xác định vị trí theo đài vô tuyến định vị ở chế độ đơn công, hành trình đang tiếp tục ở độ sâu 50m, vận tốc 12 hải lý. Chúng tôi vẫn kiểm tra vị trí một cách có hệ thống qua tiếng dội (từ đài đo sâu). Chúng tôi đã đi vào Biển Đông, nước biển đã ấm hơn +220...."
Ngày 14 tháng 5. Chúng tôi đang đi trong biển Hoa Đông và đã tới gần khu vực có dòng hải lưu Kuro-Sivo chảy với vận tốc đến 2,5 hải lý. Trợ lý hạm trưởng thiếu tá Saipov L.V báo cáo về những nhận xét chưa được trong khi kiểm tra trực chiến tại các khoang trên tàu và đề nghị của mình về việc khắc phục chúng trong các phiên gác tiếp sau.
 
Ngày 15 tháng 5. Chúng tôi đã đi vào biển Philippines. Điện tín đến, trong đó, trong mệnh lệnh tác chiến người ta giao cho chúng tôi khu vực số 1 trong số các thủy lộ dẫn vào vịnh Bắc Bộ. Cấu trúc khu vực này trông giống như nắp quan tài. Tàu ngầm "K-45" được giao khu vực số 2, khu vực này có nhiều bãi cạn và doi cát ngầm. Chỉ thị ban ra là sẵn sàng sử dụng vũ khí thông thường theo mệnh lệnh và để tự vệ. Đêm về, chúng tôi nhận được tin chính trị "Sỹ quan Kuzmin lên án hành động xâm lược Việt Nam của Hoa Kỳ". Đó là tin "tối quan trọng" với tàu ngầm.
David Minton viết: "Theo dõi là một nhiệm vụ rất phức tạp. Để không bị phát hiện, tàu ngầm cần phải có một vị trí tiếp xúc thích hợp, vận tốc và hướng xác định theo sonar thụ động. Việc đo khoảng cách theo sonar thụ động đòi hỏi Guardfish phải thường xuyên cơ động để nhận được phương vị biến đổi nhằm duy trì vị trí tiếp xúc (để theo dõi, kiểm soát nhưng không bị phát hiện bởi người bị theo dõi). Quá gần-anh có thể bị phát hiện, nhưng quá xa anh sẽ mất tiếp xúc (mất dấu). Những động tác cơ động này thường tiến hành ở trong khu vực không nghe được tiếp xúc, khu vực "chết" sau đuôi tàu. Thực tế là từng giờ, Echo-2 lại đổi hướng để nghe ngóng khu vực này (xem có bị bám đuôi hay không).
Thỉnh thoảng đó là những cú ngoặt thụ động 90 độ để hệ thống sonar của họ có thể nghe được tất cả những gì diễn ra sau con tàu của mình, đôi lúc họ lại chủ động quay 180 độ và đi theo hướng ngược lại đâm thẳng về phía Guardfish. Động tác này vô cùng nguy hiểm và đe dọa gây ra va chạm. Khi khoảng cách giữa chúng tôi rút ngắn lại, Echo-2 có cơ may thực tế phát hiện ra Guardfish. Bất kể khi nào Echo-2 thực hiện kiểm tra vùng không nghe được, Guardfish cần phải đoán trước được Echo-2 sẽ quay hướng nào, nhằm bám theo một cách vô hình tàu ngầm Xô Viết từ phía đối diện. Để làm được điều này, Guardfish cần ngay lập tức giảm tốc độ, cố gắng giảm tiếng ồn xuống mức thấp hơn nữa nếu có thể nhằm đủ thời gian và khoảng cách cho Echo-2 quay về hướng cũ.
David Minton viết: "Ở Washington, người ta yêu cầu gửi báo cáo tình hình, để họ có thể xác định mức độ đe dọa xuất phát từ các lực lượng vũ trang Xô viết và ý đồ của người Xô viết. Tổng thống Nixon và cố vấn an ninh quốc gia hàng ngày đều nhận được các bản phúc trình. Do điện tín truyền từ tàu Guardfish có thể được truyền trên tần số cao công suất lớn, nên khả năng bị hệ thống chặn giữ điện tử của người Xô viết ghi nhận được là có và lúc đó vị trí của tàu ngầm (Mỹ) sẽ bị lộ, vì vậy phải sử dụng phương pháp liên lạc đảo pha. Máy bay P3 của lực lượng chống ngầm đã thực hiện một số phi vụ bí mật bay tới vị trí giả định là nơi có Guardfish và nhận những tin tình báo ngắn gọn trên tần số siêu cao của sóng radio từ Guardfish, khi này đang bơi ở chiều sâu khả dụng của kính tiềm vọng, hoặc là với sự giúp đỡ của các phao thả không lớn, có những thiết bị nhỏ có nguồn tự nuôi, được lập trình cho việc truyền các thông báo kích thước nhỏ và cho các nguồn tín hiệu phát qua ejektor, trong lúc Guardfish đang bơi ở độ sâu theo dõi. Trong thời gian theo dõi này, bất kỳ tàu ngầm nào đang ở trên Thái Bình Dương sẽ theo thời hạn mà chuyển vị trí nhằm đảm bảo an toàn cho các tàu sân bay đang hoạt động gần duyên hải Việt Nam, cũng như để dò tìm các tàu ngầm Xô Viết. Điều đó tạo thành một vấn đề chung, đối với bản thân tàu ngầm Guardfish, cũng như đối với bộ chỉ huy chiến dịch này.
 
Ngày 16 tháng 5. Chúng tôi tiếp tục đi tới khu vực trách nhiệm, sau khi vượt qua đảo Okinawa chúng tôi chỉ có hai lần nổi lên vào phiên liên lạc vô tuyến. Tôi gọi vào phòng chỉ huy trung tâm trưởng ban 2 thiếu tá Tsimbalenko V.I., trong số các sỹ quan trực ban, anh là người được huấn luyện tốt nhất, am hiểu công việc nhất, chuyên môn vũ khí tên lửa-pháo của mình anh nắm vững đến mức hoàn hảo. Anh ấy báo cáo rằng, thùng chứa số 6 hiện ở tình trạng bình thường, sự rò nước qua ống cáp không phát triển thêm nữa.
Ngày 17 tháng 5. Biển động cấp 3, gợn sóng, sương mù và mưa rào nhiệt đới. Chúng tôi nổi lên ở độ sâu khả dụng kính tiềm vọng để xác định vị trí trước khi vượt qua eo biển Bashi. Chúng tôi xác định vị trí theo phương pháp "Loran A và C", cùng với sự giúp đỡ của Đài vô tuyến định vị. Tin trinh sát: "Tuần dương hạm và các khu trục hạm đã rời vịnh Bắc Bộ đi về hướng Sài Gòn. Nixon chuẩn bị ngày 25 tháng 5 đến Moskva để thương lượng. Cường độ các hoạt động quân sự tại Việt Nam đã giảm đáng kể."
Tổng thống Nixon dự kiến ném bom hạt nhân xuống Việt Nam
Tổng thống Nixon đã không lường được sự ngoan cường của người Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống xâm lược
 
David Minton viết: " Một lần khi đang ở biển Philippines, Echo-2 ngoặt sang hướng tây-nam, về phía eo Bashi giữa đảo Đài Loan và các đảo phía bắc Luzon, Philippin. Eo biển Bashi thường được sử dụng làm thủy đạo bắc để vào biển "Nam Trung Hoa" (Biển Đông) và tôi thì tin tưởng rằng đó chính là đích đến của tàu ngầm Xô Viết nhưng chiếc tàu lại quay chếch về hướng nam nhiều hơn so với hướng đi thông thường. Echo-2 giảm tốc độ, nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng, rồi lại di chuyển rất nhanh, định hướng theo tiếng dội từ đài đo độ sâu, đài này làm việc trong một âm vực ngắn, không được phép ở độ sâu này. Tàu ngầm đã biến mất. Trong khi ở độ sâu kính tiềm vọng, tàu ngầm xác định rất rõ vị trí của mình, bởi vì sau đó nó lặn xuống sâu, quay về hướng eo Bashi và tăng tốc độ lên 16 hải lý. Sau khi tin tình báo về sự chuyển hướng nhanh chóng này được truyền đi nhờ các phao tiêu, Guardfish cố gắng lao theo tàu ngầm Xô Viết khi biết rằng việc đảo vị trí của các tàu ngầm Mỹ là không thể, vì thời gian sau khi truyền thông báo còn lại rất ít. Để tránh va chạm với các tàu ngầm Mỹ khác, Guardfish chuyển sang độ sâu 100m, là độ sâu mà các tàu ngầm Xô Viết hay sử dụng, vì như tôi biết, nhằm tránh các tàu ngầm Mỹ. mối e ngại của tôi tỏ ra đúng đắn khi mà Guardfish phát hiện ra một tàu ngầm Mỹ đang đi về phía bắc với tốc độ lớn.
Ngày 18 tháng 5. Trưởng ban Kỹ thuật thông tin liên lạc vô tuyến thiếu tá hải quân Tereshenko V.F. báo cáo kiến giải của mình về việc săn tìm các tàu mặt nước và tàu ngầm của đối thủ tiềm năng tại khu vực trách nhiệm-khu vực số 1, cũng như tình hình hải văn chờ đợi ở khu vực này, về các biện pháp ngụy trang tàu ngầm trước lực lượng săn ngầm của đối thủ.


David Minton viết: "Ngày 18 tháng 5, Echo-2 đi vào biển "Nam Trung Hoa", tới điểm có vị trí cách bờ biển đảo Luzon khoảng 300 dặm. Chuẩn đô đốc hải quân Liên Xô Alfred Semenovitch Berzin kể tiếp về cuộc truy đuổi...
 
Ngày 19 tháng 5. Trong ngày thực hiện kiểm tra phương tiện cứu nạn trên toàn tàu ngầm. Phát hiện được vài điều chưa đạt nhưng đã nhanh chóng khắc phục được. Hồi tháng 4, trước khi ra khơi chuyến này, tàu đã được kiểm tra bởi một ủy ban của Bộ Tổng tham mưu Hải quân do chuẩn đô dốc Ivanov dẫn đầu. Họ kiểm tra tình trạng các phương tiện cứu nạn và sự thành thục của các thành viên trong hoạt động khi có sự cố. Không có nhắc nhở đặc biệt nào. Vào cuối cuộc thanh sát, chuẩn đô đốc Ivanov ra tình huống kiểm tra báo động sự cố. Một trong những dữ kiện đầu bài là: "Con tàu mất lái. Biển động cấp 4. Yêu cầu đưa cáp kéo từ tàu cứu hộ sang tàu ngầm."
Tôi gọi lên cầu chỉ huy trưởng ban 2 thiếu tá hải quân Tsimbalenko V.I. và ra lệnh neo cáp vào mũi tàu ngầm. Người ta nạp hỏa tiễn-kéo dây cứu hộ vào súng bắn hỏa tiễn cầm tay (линемёт ракетой), trên hỏa tiễn gắn cáp (cáp kéo). Tôi hướng dẫn cho Tsimbalenko V.I. về biện pháp an toàn và chỉ hướng bắn-bôt tín hiệu. Đạn được bắn đi ....và Tsimbalenko do không để ý chống giật khi bắn nên đã ngã vào rào chắn đài chỉ huy, bị thương vào phần mềm và hơi hoảng. Hỏa tiễn phóng về phía bốt tín hiệu, kéo theo sợi cáp, một đầu gắn trên thân nó, một đầu trên tàu ngầm. Khi hỏa tiễn lao vun vút về phía bốt tín hiệu, người thủy thủ đánh tín hiệu hốt hoảng gọi điện cho trực ban tác chiến sư đoàn: "Hỏa tiễn từ tàu ngầm của Berzin bay ra và đâm vào bốt tín hiệu." Người trực ban tác chiến ban đầu sửng sốt, trong đầu anh ta "tưởng tượng" ra lập tức "hỏa tiễn" - tên lửa P-6 vũ khí cơ bản trên tàu ngầm đề án 675. Rất may là anh ta không tức tốc gọi điện báo trực ban tác chiến hạm đội mà cố gắng tìm hiểu sự việc trước đã.
Sau đó tất cả mọi người còn cười mãi khi nhớ lại khung cảnh sự kiện này. Người ta cười không chỉ vì cái lệnh bắn dây neo do Tsimbalenko chỉ huy, người mà sau đó phải đi thu lại 300m dây cáp neo mà cười vì cái phương pháp bắn hỏa tiễn đặc biệt đã vật ngã anh ta trên vị trí chỉ huy theo điều lệnh.
 
Ngày 20 tháng 5. Chúng tôi chiếm lĩnh khu vực số 1. Lúc 8h30 phút chúng tôi nổi lên đến độ sâu kính tiềm vọng để thực hiện phiên liên lạc và xác định vị trí. Ngay lập tức qua kính tiềm vọng chúng tôi thấy trên đúng hướng tàu chúng tôi, ở khoảng cách 10 kaben (1 kaben quốc tế, hay 1 cable length theo tiếng Anh bằng 1/10 hải lý hay dặm biển-nautical mile) một tàu hậu cần của Hải quân Mỹ đang đi thẳng về phía tàu mình. Chúng tôi hút đầy nước vào các sitec rồi nhanh chóng lặn xuống độ sâu an toàn. Các kỹ thuật viên thủy âm không nghe thấy tàu Mỹ. Tình hình hải văn rất tồi-chúng tôi không nghe được gì. Bởi vậy mọi cuộc nổi lên ở đây đều tiềm ẩn những mối nguy hiểm có thể va chạm với các tàu mặt nước.
David Minton viết: "Suốt 8 ngày, tàu ngầm Echo-2 đi vận tốc nhỏ, tuần tiễu trong một khu vực có hình chữ nhật cách các tàu sân bay của chúng ta đang đi dọc theo bờ biển Việt Nam một khoảng ước 700 dặm và cách xa khu vực giới hạn 200 dặm mà tên lửa (P6-Shaddock) trên Echo-2 có thể vươn tới. Trong thời gian đó, lệnh theo dõi là cố gắng không để mất dấu tàu ngầm Xô viết...
Nếu bây giờ mà các hoạt động quân sự nổ ra, biển Nhật Bản sẽ là cái bẫy đối với Hạm đội Thái Bình Dương, giống như vịnh Phần Lan đối với các loại tàu chiến và tàu ngầm năm 1943. Trong các eo biển: Laperuda, Sangarskii và Triều Tiên có thể nhanh chóng và dễ dàng dựng lên một tuyến chống ngầm và trong thời điểm hiện tại đối thủ tiềm năng của chúng ta sẽ kiểm soát khá chắc sự qua lại của các tàu ngầm của chúng ta.

Ngày 22 tháng 5. Ghi nhận được tín hiệu của đài vô tuyến định vị AN/APS-80 trên máy bay săn ngầm "Orion" của Mỹ, tín hiệu yếu. Chúng tôi lại tạm thời di chuyển tránh máy bay.
Ngày 23 tháng 5. Vào lúc 8h30 phút, tàu nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng để thực hiện phiên liên lạc và xác định vị trí. Tin chính trị:"Ban cán sự Đoàn thanh niên Komsomol hạm đội đã đi qua". Và không thêm một lời nào. Tất nhiên đó là thông tin "cực quý giá" đối với tàu ngầm đang ở biển Đông. Ghi nhận được tín hiệu làm việc của ra đa AN/APS-80 của máy bay săn ngầm "Orion" của Mỹ, tín hiệu yếu. Tạm thời tàu ngầm di chuyển tránh máy bay.
Ngày 24 tháng 5. Lệnh báo cáo vị trí được chuyển đến cho chúng tôi (K-184), K7, K-45. Lúc 12h chúng tôi báo cáo số liệu vị trí (vĩ tuyến và kinh tuyến). Trong tin nhận được có đoạn:"Nixon đang ở Moskva tiến hành các cuộc hội đàm". Ghi nhận tín hiệu của đài vô tuyến định vị AN/APS-20 trên máy bay săn ngầm "Neptune" của Mỹ, tín hiệu yếu. Chúng tôi tạm thời di chuyển tránh máy bay. Tiến hành phân tích hai phát hiện gần đây nhất về tín hiệu của ra đa AN/APS-20, chúng tôi kết luận có lẽ máy bay săn ngầm (Mỹ) đang săn tìm các tàu ngầm trên hành trình.
 Tổng Bí thư Liên Xô Brezhnev hội kiến với Tổng thống Mỹ Nixon
Ngày 25 tháng 5. Đâu đó sau bữa trưa, trưởng ban 5 trung tá hải quân Baiburin M.S. báo cáo rằng bộ phận ХГЦЭН - 601 của mạn trái bị rò rỉ (bộ phận làm lạnh thuộc hệ thống bơm chu trình thứ nhất của lò phản ứng: A.S.Berzin), chúng tôi quyết định tạm ngừng hoạt động thiết bị này, bởi vì độ phóng xạ của hơi và khí dung (xon khí) bắt đầu tăng cao. Chúng tôi cùng Baiburin M.S. nhớ lại chuyến đi tại biển Okhot từ ngày 24 tháng 9 đến ngày 5 tháng 10 năm 1971 trong một chiến dịch săn tìm. Ngày 26 tháng 9 tàu ngầm chúng tôi đã chiếm lĩnh khu vực săn tìm và bắt đầu tìm kiếm tàu ngầm "quân xanh". Ngày 29 tháng 9, vào lúc 12h30, tại độ sâu 80m đã xảy ra sự rò khí phóng xạ trong khu vực có chắn cách ly buồng máy phía mũi tàu của khoang số 6 chứa lò phản ứng.
Khí và khí dung phóng xạ bốc ra ngày càng nhiều trong khu vực có cách ly của buồng máy phía mũi tàu, trên tầng 2 và 3 khoang 6 chỉ số mật độ phóng xạ tập trung cho phép tới hạn (PDK-predelnodopuschimykh konsentratsia) đã tới 20. Ngay lập tức còi và tín hiệu báo động "Phóng xạ nguy hiểm" phát ra và các khoang số 5,6,7 được tuyên bố là khu vực áp dụng chế độ giới nghiêm đặc biệt. Sau 10 phút, tàu ngầm nổi lên và khoang 6 được thông gió. Cũng ngay tức khắc máy bay săn ngầm "Orion" của Hải quân Mỹ xuất hiện và bay lượn quanh tàu ở độ cao 100m. Tàu ngầm lại lặn xuống tạm thời.
Lúc này tình hình hơi và khí dung có phóng xạ lại trở nên càng phức tạp hơn: tại khoang 6 tầng 3 chỉ số PDK đã đến 300, tại khu vực buồng máy mũi tàu-5000 PDK, trên tầng 2-1700 PDK, trong các khoang 5 và 7-đến 40 PDK. Việc giữ các thành viên tiếp tục ở lại các khoang 5,6,7 là không thể. Bởi vậy đã di chuyển họ sang các khoang kế bên và ban chỉ huy tàu phải đánh điện vào bờ báo cáo tình hình phức tạp đang diễn ra. Các khoang 5,6,7 được thông gió vào không trung. Vào quãng 24 giờ ngày 29.9 tình hình rò phóng xạ đã giảm tới mức bình thường tại khoang 5 và 7, còn tại khoang 6 là 1-2 PDK.
Tại các khoang khác trong suốt thời gian trên chỉ số PDK là từ 5-10. Trong các khoang 5,6,7 mức độ nhiễm phóng xạ đạt tới 100 phân rã trong một phút, bắt đầu quá trình khử phóng xạ trong các khoang. Đến 12h ngày 30.9 tình hình phóng xạ trên tàu ngầm đã ổn định: khắp nơi hơi và khí dung phóng xạ đã trở về mức giới hạn bình thường. Trên bờ đã được báo cáo và đã ra lệnh cấm tàu trở về căn cứ trong trạng thái lặn ngầm. Một giờ sau có lệnh cho phép trở về. Sau sự cố trên, một phần thủy thủ đoàn mắc chứng đau đầu, tức ngực, chứng buồn nôn ám ảnh họ cả tháng sau đó. Khi về tới căn cứ cũng chẳng ai khám nghiệm cho chúng tôi.
Ngày 26 tháng 5. Lúc 2h chúng tôi nổi lên đến độ sâu kính tiềm vọng. Ngay lập tức qua kính tiềm vọng chúng tôi thấy một con tàu có độ giãn nước 10.000 tấn đang thẳng hướng tiến tới, khoảng cách 10 kaben, các máy thủy âm không nghe được gì. Tàu ngầm nhanh chóng bơm nước vào hầm lặn nhanh và lặn xuống độ sâu an toàn. Trong phiên liên lạc vô tuyến tiếp theo, chúng tôi nhận được bức điện từ Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương cho lệnh quay về căn cứ.
David Minton viết: "...Các sự kiện trên thế giới bắt đầu diễn biến theo chiều hướng hòa bình. Sau những cuộc thương thuyết lâu dài, tổng thống Nixon đã đến Moskva theo lời mời, tại đó diễn ra cuộc gặp lịch sử với Tổng Bí thư Brezhnev. Trong thời gian cuộc gặp ngày 24 tháng 5, Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger thông báo với Brezhnev rằng Hoa Kỳ biết về việc bố trí của tàu ngầm Xô Viết và rằng sự tồn tại của những tàu ngầm đó gần khu vực đang có chiến sự tại Việt Nam là có tính chất khiêu khích và đặc biệt nguy hiểm. Sau hai ngày của cuộc đối đầu đó, tàu ngầm Xô Viết lên đường về phương bắc."
 
Ngày 27 tháng 5. Ban đêm, một bức điện chuyển tới với lệnh thay đổi chuyến trở về căn cứ, thay vào đó chúng tôi (K-184) cần chiếm lĩnh một khu vực mới tại biển Philippinnes có dạng vòng tròn bán kính 30 dặm, để làm gì thì người ta không thông báo cho chúng tôi biết. K-57 và K-189 cũng nhận các khu vực của mình tại biển Philippinnes. Chúng tôi vượt qua eo Bashi, xác định vị trí bằng phương vị theo mắt thường dựa vào các hòn đảo. Trong phiên liên lạc (nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng), trên hướng tàu của mình, tại góc 1720 bên mạn trái, chúng tôi phát hiện tín hiệu của đài vô tuyến định vị đang hoạt động ở chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-đường chân trời sạch.
Xác định tham số đài ra đa định vị nhưng không thành công. Tôi bắt đầu dùng bàn đạc với mục đích phát hiện sự theo dõi tàu ngầm chúng tôi mỗi khi nổi lên ở chiều sâu kính tiềm vọng, chiều sâu mà con tàu có thể thu nhận được tất cả các tín hiệu tới, ghi nhận được thời tiết, những phát hiện bằng mắt thường, và sự cơ động của mình. Có thể đó là đài ra đa AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm hạt nhân kiểu "Permit" (của Mỹ).
Bách khoa toàn thư tàu chiến/Tàu ngầm nguyên tử đa chức năng Mỹ
Tàu ngầm nguyên tử đa chức năng Mỹ "Permit".
 
Ngày 28 tháng 5. Đã chiếm lĩnh xong khu vực trách nhiệm tại biển Philippinnes. Có 2 bức điện tới, trong đó cho lệnh chiếm lĩnh khu vực mới là hình tròn bán kính 50 dặm; điện cũng thông báo rằng báo chí Mỹ đang phổ biến tin phát hiện tàu ngầm Xô Viết tại biển Đông. Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, đô đốc Smirnov N.I. yêu cầu chúng tôi phải giữ bí mật, "xỉ vả" K-57 vì tội đã phát bức điện báo cáo chiếm lĩnh xong khu vực trách nhiệm. Bí mật đã bị Bộ Tham mưu (hạm đội) vi phạm ngay từ lúc khởi hành: Hành trình vượt biển bất kỳ ai cũng có thể thấy được; tất cả các con tàu đều được cho phép đi theo một hành trình; khi ở biển Đông" lại ra lệnh cho chúng tôi báo cáo vị trí của mình; không có bất cứ động tác nghi binh nào nhằm che giấu chuyến đi thật của các con tàu.
Trong phiên liên lạc, trên hướng tàu của chúng tôi, tại góc 1700 bên mạn trái, phát hiện tín hiệu của đài vô tuyến định vị đang hoạt động ở chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Việc theo dõi xác định tần số xung và độ dài xung của đài ra đa định vị này không thành công, do đài đó chỉ hoạt động khoảng 3 giây đồng hồ. Trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Có khả năng đó là đài ra đa AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm hạt nhân kiểu "Permit".
David Minton viết: "Sau khi qua eo Bashi, Echo-2 thiết lập khu vực tuần tiễu mới trong biển Philippin về phía nam đảo Okinawa. Trong khu vực đại dương này, các điều kiện thủy âm là xấu nhất mà người ta có thể nghĩ ra. Về đêm, tiếng ồn của thiên nhiên và mưa thường xuyên át hết sonar. Việc cố duy trì tiếp xúc là vô cùng vất vả, đòi hỏi Guardfish phải tiến hành bám sát để theo dõi Echo-2 ở khoảng cách gần hơn nữa. Bộ chỉ huy đã thảo ra một quy tắc rất dài cho việc chuyển giao theo dõi tàu ngầm Echo-2 bởi một tàu ngầm khác của Hoa Kỳ. Tin này được truyền trên mạng thông báo rộng.
Ngày 29 tháng 5. Chiếm lĩnh xong khu vực mới, tốc độ 6 hải lý, nhiệm vụ chiến đấu không được nêu ra, tôi quyết định bắt đầu săn tìm các tàu mặt nước và tàu ngầm của Mỹ và Nhật Bản. Trong phiên liên lạc, trên hướng của mình, ở góc 1750 mạn trái lại phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Xác định tần số và độ dài xung của đài ra đa này không thành công vì đài đó chỉ làm việc gần 5 giây. Trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Có thể đó là đài ra đa AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm hạt nhân kiểu "Permit". Nhưng tất cả đều là giả thiết.
Ngày 30 tháng 5. Trong phiên liên lạc, trên hướng của mình, ở góc 1750 mạn trái lại phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Tôi nghe đề nghị của trợ lý trưởng và các chỉ huy trưởng bộ phận chiến đấu về việc phát hiện ra tàu ngầm nước ngoài và cách "cắt đuôi" nó.
Ngày 31 tháng 5. Tại phiên liên lạc nhận được điện, trong đó giao trách nhiệm cho chúng tôi một khu vực khác, cũng như thông báo rằng có vẻ người Mỹ đã biết về sự tồn tại của tàu ngầm chúng ta ở biển Đông. Các khu vực khác được giao cho K-7, K-45, K-57. Đường tới các khu vực đó phải đi qua các bãi đá ngầm và doi cát cạn. Vì lý do này, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương nhắc các hạm trưởng về biện pháp an toàn khi chỉ huy tàu. Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đang đến gần biển Philippinnes. Tổng thống Nixon đã bay sang Iran, còn Bộ trưởng Quốc phòng của ông ta ra lệnh tạm ngừng triển khai hệ thống phòng thủ chống tên lửa "SafeGuard".
Anh hùng Liên bang Xô Viết Smirnov Nikolai Ivanovitch. Từ năm 1969 là Tư lệnh Hạm đội Cờ đỏ Thái Bình Dương, trong những năm 1974-1988 là Phó Tổng tư lệnh thứ nhất Hải quân Xô Viết
Anh hùng Liên bang Xô Viết Smirnov Nikolai Ivanovitch. Từ năm 1969 là Tư lệnh Hạm đội Cờ đỏ Thái Bình Dương, trong những năm 1974-1988 là Phó Tổng tư lệnh thứ nhất Hải quân Xô Viết.
 
Ngày 1 tháng 6. Tại phiên liên lạc, trên hướng của mình, ở góc 1750 mạn trái phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, trong kính tiềm vọng-chân trời sạch. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đã tới Guam bổ sung nhiên liệu. Trong vịnh Bắc Bộ-3 tàu sân bay xung kích, phía đông Sài Gòn-1 tàu sân bay xung kích.
Ngày 2 tháng 6. Thực hiện các thao tác cơ động đặc biệt nhằm phát hiện tàu ngầm nước ngoài có thể đang theo dõi chúng tôi. Không phát hiện được tàu ngầm đó. Ban ngày, nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng trong phiên liên lạc, tại phương vị 2800, khoảng cách 40 kaben, phát hiện tàu vận tải độ giãn nước 10.000 tấn. Hệ thống thủy âm trước khi nổi lên không nghe được tàu vận tải. Tình trạng hải văn rất tồi.
Ngày 3 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" tiếp tục đi đến Philippin." Tàu ngầm K-45 nhận được lệnh tiếp tục đi qua eo Bashi vào biển Philippin, nơi tàu phải chiếm lĩnh khu vực mới, có nghĩa là lại băng qua các dải đá ngầm và bãi cạn. Lại chỉ thị của Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương về các biện pháp an toàn khi chỉ huy tàu. Chẳng mấy chốc đã ở suốt một tháng trên biển, đốt nhiên liệu hạt nhân, không hiệu quả và không mục đích, mặc dù đã có thể đặt ra nhiệm vụ săn tìm và theo dõi tàu sân bay xung kích. Một tháng ròng chúng tôi bơi với vận tốc 6 hải lý quanh quẩn trong những vòng tròn bán kính 50 dặm, không nghe và cũng chẳng nhìn thấy gì.
Ngày 4 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đi vào eo biển Luzon."
 
Ngày 5 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: " Tàu chở máy bay chống ngầm "Ticonderoga" đã đi vào vịnh Subic."
Ngày 6 tháng 6. Từ 29 tháng 5 đến 6 tháng 6 trong các phiên liên lạc tại độ sâu quan sát của kính tiềm vọng đã phát hiện phía đuôi tàu tín hiệu làm việc của ra đa định vị vô tuyến, kiểm tra góc hướng đuôi tàu với tốc độ di chuyển có đặc tính tiếng ồn nhỏ, áp dụng các thao tác cơ động đặc biệt, nhưng cũng không phát hiện được gì. Lúc 12h00 tàu nổi lên ở độ sâu kính tiềm vọng trong phiên liên lạc. Quan sát đường chân trời không phóng đại-sạch, sau đó quan sát với kính phóng đại, tại góc hướng đuôi bên mạn trái tàu-nhìn thấy kính tiềm vọng của một tàu ngầm trong cự ly khoảng 5-6 kaben, kính tiềm vọng nhô lên ước chừng 2 m so với mặt biển.
Tôi cho trợ lý chỉ huy tàu thiếu tá hải quân Saipov L.B. quan sát trên kính tiềm vọng, anh ta cũng khẳng định nhìn thấy tiềm vọng kính (của tàu ngầm nước ngoài). Hệ thống thủy âm không "quan sát" thấy tàu ngầm (nước ngoài). Khi tôi bắt đầu xem lại thì không còn thấy tiềm vọng kính đó nữa. Chúng tôi khẩn cấp đánh điện vào bờ báo cáo tình hình phát hiện ra tàu ngầm Mỹ. Chúng tôi phát hiện phía sau đuôi có tín hiệu làm việc của ra đa định vị vô tuyến trong chế độ đơn công, giả thiết từ trước là tín hiệu của đài AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm lớp "Permit". Chúng tôi lặn xuống độ sâu 80 m, xoay hướng để kiểm tra khu vực hình quạt phía đuôi, vận tốc tàu 4 hải lý, 30 phút sau chúng tôi bắt đầu cắt đuôi tàu ngầm Mỹ khi vừa thay đổi tốc độ và độ sâu bơi, vừa sử dụng các khí tài chủ động chống định vị thủy âm.
David Minton viết: "Bộ chỉ huy đã soạn thảo một thủ tục khá dài để chuyển giao việc theo dõi Echo-2 cho một tàu ngầm Mỹ khác. Thông báo này được truyền đi trên mạng truyền thông rộng rãi.. Lúc đó Guardfish đang ở trên độ sâu kính tiềm vọng, tiếp nhận thông báo khẩn này, Echo-2 đã bất thần nổi lên ở chiều sâu tiềm vọng kính và phát hiện được bằng mắt thường sự có mặt của Guardfish. Các động tác cơ động tiếp sau đó là rất chủ động và diễn ra với vận tốc lớn. Tiếp tục theo dõi một đối thủ đã cảnh giác đề phòng là không thể và tiếp xúc với Echo-2 đã bị mất.
Thời điểm phát hiện ra nhau của các tàu ngầm trên chiều sâu tiềm vọng. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Trên ảnh là các cột khí tài kéo xếp di động của К-184.
Thời điểm phát hiện ra nhau của các tàu ngầm trên chiều sâu tiềm vọng. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Trên ảnh là các cột khí tài kéo xếp di động của К-184..
 
Ngày 7 tháng 6. Điện đến từ Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương: "Hãy chú ý thận trọng, không theo dõi tàu ngầm Mỹ". Tại góc hướng 1720 mạn trái, chúng tôi phát hiện tín hiệu ra đa định vị hoạt động trong chế độ đơn công, giả thiết là tín hiệu của đài AN/BPS-9 đặc trưng cho tàu ngầm lớp "Permit". Tới cuối phiên liên lạc, đài thủy âm phát hiện và quan sát được trong 5 phút ở góc hướng 900 mạn trái tiếng ồn chân vịt của một tàu ngầm. Phát hiện rò rỉ thiết bị ХГЦЭН - 601 của mạn phải, quyết định ngừng hoạt động thiết bị vì trong khoang 6, độ phóng xạ của hơi và xon khí bắt đầu tăng cao. Trong khoang các thành viên nghe được tiếng chân vịt bên mạn trái, (có lẽ của một tàu ngầm).
Ngày 8 tháng 6. Việc cơ động của chúng tôi để cắt đuôi (tránh) tàu ngầm Mỹ không có kết quả. Đài thủy âm vẫn từng lúc một lại nghe được nó. Chúng tôi phát đi 3 bức điện về việc phát hiện ra tàu ngầm Mỹ. Về đêm, trong phiên liên lạc trên đài vô tuyến định vị tìm kiếm "Nakat", tất cả các màn hiện sóng đều lóe sáng (theo kiểu "tia chớp"), có vẻ là có đài định vị vô tuyến nào đó (nguồn gây nhiễu) đang hoạt động rất gần, chỉ cách 1-2 kaben, chúng tôi lặn xuống khẩn cấp, xuống đến độ sâu 60 m, các "tia chớp" vẫn còn trên các màn hình. Trong phiên liên lạc kế tiếp, phát hiện đài vô tuyến định vị AN/BPS-9 đang làm việc, chúng tôi tiếp tục cắt đuôi bằng các biện pháp thay đổi hướng đi, tốc độ, chiều sâu, sử dụng các phương tiện chống định vị thủy âm (ГПД).
Ngày 9 tháng 6, đài thủy âm phát hiện một tàu ngầm trên góc hướng 1500 mạn phải. Tôi quyết định cắt đuôi tàu ngầm Mỹ, để làm điều đó tôi vẽ ra hai vòng hồi chuyển thoải, sau khi đã đặt giữa tàu ngầm của chúng tôi và tàu ngầm Mỹ hai khí tài chủ động chống định vị thủy âm và thoát ra theo phương vị ngược lại với biện pháp thay đổi tốc độ, độ sâu, hướng. Tôi bước vào buồng hoa tiêu, tại đó hoa tiêu phụ thượng úy Konev A.V (ngày nay là phó đô đốc, Phó Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương) nói đùa với tôi: "Đồng chí hạm trưởng, cứ như trong sân diễn rạp xiếc ấy nhỉ, tàu ngầm quân ta giống con ngựa đang phi vòng tròn, còn tàu ngầm Mỹ ở bên đối diện thì chạy theo như anh chàng xà ích khốn khổ."
                     Chuẩn đô đốc hải quân Alfred Semenovitch Berzin
Tôi cười phá lên. Cũng tại đây, theo đường tiếp âm từ khoang thứ 2 sang, tiếng hạm phó chính trị trung tá hải quân Antonov G.Ya.: "Có lẽ chúng ta không cần bắt liên lạc với tàu ngầm Mỹ nữa nhỉ?" Một khi mọi người đã đùa bỡn như vậy thì tôi cũng trả lời một cách đùa cợt: "Đeo máy thở IDA-59 vào" (Máy thở dưỡng khí cách ly-Изолирующий дыхательный аппарат, ИДА). Không khí trong buồng điều khiển trung tâm đang căng thẳng, điều đó thấy rõ trên khuôn mặt mọi người, nhưng nếu họ đã đùa được rồi, thì có nghĩa là mọi việc đang trở về vòng trật tự.
Chúng tôi đã cắt đuôi được tàu ngầm Mỹ, bởi vì từ đó về sau không còn thấy nó nữa. Tại khu vực mất tiếp xúc, những chiếc máy bay chống ngầm "Orion" đang lượn đi lượn lại, chúng vẫn tiến hành tìm kiếm, nhưng chúng tôi đâu còn ở đó nữa. Chúng tôi nhận lệnh tìm kiếm tàu ngầm hạt nhân mang vũ khí đạn đạo (SSBN) trong giải di chuyển 400 dặm, sau đó tiếp tục về căn cứ, dự kiến về đến nơi vào ngày 19. Hành trình trở về cũng y như lúc triển khai chiến dịch.
Ngày 10 tháng 6. Chúng tôi đã chiếm lĩnh điểm cần tới và bắt đầu tìm kiếm SSBN trong giải di chuyển 400 dặm. Định kỳ, chúng tôi làm các động tác cơ động để phát hiện sự theo dõi của tàu ngầm nước ngoài. Không phát hiện thấy sự theo dõi nào.
Ngày 11 tháng 6. Vào ban ngày, lúc nổi lên trong phiên liên lạc, qua kính tiềm vọng chúng tôi phát hiện một con tàu ở phương vị 700, khoảng cách 40 kaben. Đài thủy âm chẳng nghe được gì. Thủy hải văn đối với chúng tôi thật là món khó xơi. Lúc 18h37 phút, đài thủy âm nghe có tiếng chân vịt. Tuân theo biện pháp đề phòng sớm, tàu nổi lên độ sâu tiềm vọng kính. Qua kính tiềm vọng chúng tôi phát hiện con tàu đang rời xa chúng tôi có độ giãn nước chừng 15.000 tấn, chúng tôi ở cách đuôi con tàu đó một khoảng 9 kaben. Như vậy có thể nói rằng, chúng tôi đã xác định được khoảng cách mà trong đó đài thủy âm sẽ phát hiện được các mục tiêu mặt nước trong điều kiện thủy văn hiện tại.
Ngày 12 tháng 6. Lúc 22h00 chúng tôi kết thúc tìm kiếm SSBN (ПЛАРБ) và bắt đầu hành trình về căn cứ. Trong suốt 40 ngày đêm bơi, chẳng có điện tín nào tới nơi mà không có sai lệch. Vậy mà đang là trong thời bình!
Ngày 13 tháng 6. Nhận được tin trinh sát: "Tàu chở máy bay trực thăng "Tripoli" đang tiếp tục tới Okinawa". Chúng tôi lại nhanh chóng đi tới đảo Okinawa, và đi vào biển Hoa Đông.
 
Ngày 14 tháng 6. Chúng tôi vẫn đang bơi trong biển Hoa Đông.
Ngày 15 tháng 6. Tàu ngầm nổi lên trong phiên liên lạc ban đêm, không có điện tín nào gửi vào địa chỉ của chúng tôi. Mây cấp 3, biển động cấp 2, tầm nhìn xa 3 dặm. Chúng tôi xác định vị trí theo sao trời và phương pháp "Loran". Các thành viên sửa soạn dọn dẹp trên tàu, chuẩn bị các báo cáo cho chuyến về căn cứ.
Ngày 16 tháng 6. Lúc 2h00, chúng tôi xác định vị trí theo đảo Danjo: phương vị theo mắt thường hướng về ngọn đèn biển, khoảng cách đến đảo xác định nhờ ra đa định vị vô tuyến phát ở chế độ "đơn công". Lúc 6h00, chúng tôi chính xác hóa vị trí (của K-184) một lần nữa rồi đi vào eo biển Triều Tiên trong tư thế bơi ngầm ở độ sâu 40 m. Lúc 12h00, xác định vị trí theo phương pháp "Loran A" (4 đường thẳng cắt nhau tại 1 điểm). Trên đường tiếp cận eo Đối Mã, tôi muốn chính xác hóa vị trí thêm một lần nữa, nhưng đài thủy âm nghe được tại phương vị 1480 tiếng chân vịt bám theo chúng tôi trong vòng 40 phút. Các quân nhân đài thủy âm không thể phân biệt được tiếng ồn đó của loại tàu nào. Sau đó chúng tôi lại lần nữa nổi lên trên chiều sâu tiềm vọng kính để hiệu chỉnh vị trí. Thời tiết: Biển lặng, có khói mù nhẹ; tầm nhìn xa: 20-30 kaben.
Ngày 17 tháng 6. Chúng tôi đi qua đảo Ulyn-Do, phía trước là điểm tàu nổi lên số 1. Chiều sâu biển ở đây là 2000 m và hơn nữa. Thời tiết: sương mù, biển động cấp 2.
Ngày 18 tháng 6. Toàn bộ thành viên trên tàu cạo râu, tắm rửa và thay quân phục mới theo chuyên ngành thật chỉnh tề và sạch sẽ.
Ngày 19 tháng 6. Lại bắn dây neo bến. Các sỹ quan Bộ Tham mưu ra đón chúng tôi cùng với dàn quân nhạc và tư lệnh sư đoàn, chuẩn đô đốc Verenikin I.I. Giao nhiệm vụ mới cho thủy thủ đoàn: chuẩn bị đón Bộ trưởng Quốc phòng Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết, sắp sửa đến thăm tàu ngầm và đến thăm các buồng thủy thủ trên bờ. Còn chúng tôi thì chỉ mơ yên tĩnh và nghỉ ngơi.
David Minton viết: "Tàu ngầm Guardfish thuộc về lớp Permit, anh em sinh đôi với tàu ngầm bất hạnh Thresher (SSN-593). Các tàu ngầm lớp này là loại lần đầu tiên hấp thu tất cả những thay đổi quan trọng nhất trong thiết kế kết cấu tàu ngầm. Đó là sự mở rộng giới hạn chiều sâu làm việc, các phương tiện phát hiện hiệu quả hơn, tiếng ồn giảm thấp, khoang ngư lôi được chuyển từ phía mũi tàu về gần thân tàu hơn.
Bảng số 1: So sánh các đặc tính và thông số của 2 lọai tàu ngầm mà Guardfish và K-184 là đại diện.
 
* - Độ ồn xác định theo kinh nghiệm đi biển của tác giả (chuẩn đô đốc A.S. Berzin), cũng như từ các ấn phẩm đã công bố của Hoa Kỳ và Liên Xô/Nga nơi sinh ra con tàu đề án 675 vốn được gọi vui là "Mụ bò rống".
**- Xác định theo kinh nghiệm đi biển của tác giả (chuẩn đô đốc A.S. Berzin), cụ thể trong chuyến đi này, khoảng cách xa mà tàu ngầm đề án 675 phát hiện được tàu ngầm kiểu Sturgeon khi đi ở vận tốc ít ồn nhất - 24 kaben, còn khoảng cách xa phát hiện được tàu ngầm Guardfish bởi tàu ngầm đề án 675 - 2 kaben.
Khi so sánh các đặc tính kỹ chiến thuật của tàu ngầm đề án 675 và tàu ngầm Guardfish trên bảng 1, có thể thấy Guardfish có ưu thế hơn K-184 ở những điểm sau:
- Vận tốc lớn hơn 5 hải lý;
- Chiều sâu lặn lớn hơn 60 m;
- Độ ồn nhỏ hơn 6 lần;
- Ngư lôi nhiều hơn 6 đạn;
- Có vũ khí "Sabrok" (tên lửa chống tàu ngầm, bắn từ ống phóng ngư lôi 533 mm, tiếng Anh: Underwater missile Subroc), loại mà chúng ta không có;
- Tầm xa mà đài định vị thủy âm phát hiện được lớn hơn hệ thống của chúng ta 6 lần.
Tất cả những điều đó tạo khả năng vô điều kiện để tàu ngầm Guardfish có khả năng theo dõi lâu dài tàu ngầm của chúng ta. Mặc dù vậy, tàu ngầm của chúng ta trên thực tế đã có khả năng phát hiện ra sự theo dõi và thực hành cắt đuôi đeo bám của tàu ngầm Guarsfish. Vậy có thể nói rằng: "Cái khó không bó được cái khôn".
David Milton ngày nay cùng con chó Emma, năm 2009. Nhờ Chúa mà giữa chúng tôi và các chính phủ chúng tôi đã có đủ trí tuệ để không làm nổ ra Chiến tranh Thế giới thứ Ba
David Milton ngày nay cùng con chó Emma, năm 2009. Ông tâm sự: Nhờ Chúa mà giữa chúng tôi và các chính phủ chúng tôi đã có đủ trí tuệ để không làm nổ ra Chiến tranh Thế giới thứ Ba.
 
Những điều sau đây đã tạo điều kiện (cho K-184) phát hiện ra sự theo dõi:
1. Tình hình thủy văn kém tại biển Philippinnes đã khiến tàu ngầm Guardfish phải rút ngắn khoảng cách theo dõi để không mất tiếp xúc, đến lượt nó, hành động trên đã cho phép K-184 phát hiện ra tàu ngầm Mỹ;
2. Việc sử dụng đài vô tuyến định vị của Guardfish, mà lần đầu tiên chúng ta phát hiện ra sự làm việc ngắn ngủi của nó ngày 27 tháng 5;
3. Việc K-184 sử dụng những động tác cơ động phi tiêu chuẩn khi phát hiện ra mình bị theo dõi, sự cơ động này cũng cho phép K-184 dứt khỏi sự đeo bám của Guardfish.
Việc cơ động như vậy được David Minton nói trong bài báo của mình là có tính chất gây hấn, diễn ra ở tốc độ lớn, làm cho cá nhân tôi hết sức ngạc nhiên, bởi lẽ trong hoàn cảnh đó, tôi coi hành động của ông ta là hết sức thù địch và đặc biệt nguy hiểm. Cần nói rằng, sự theo dõi giống như vậy trong thời bình có thể dẫn đến va chạm và tai nạn, những ví dụ về việc này là khá nhiều...."
Ngoài ra David Minton đã vi phạm chỉ dẫn của Bộ chỉ huy (của ông ta) về việc tiến hành theo dõi trong bí mật, khi mà sau đó, K-184 đã phát hiện kính tiềm vọng của Guardfish hôm 6 tháng 6 thì David Minton cần phải chấm dứt ngay lập tức sự theo dõi, nhưng ông ta lại không làm điều này, mà còn tiếp tục theo dõi chúng tôi đến tận ngày 9 tháng 6 tại những khoảng cách cực kỳ nguy hiểm, khiến trong một số khoang người ta có thể nghe được tiếng ồn chân vịt của Guardfish. Đeo bám theo dõi trong thời bình - đó mới chính là sự gây hấn.
Một số nhận xét việc chuẩn bị cho chuyến đi:
1. Bộ Tham mưu Hạm đội Thái Bình Dương đã chuẩn bị hành trình theo lối rập khuôn. Một vài sỹ quan chuyên ngành trưởng của sư đoàn đã nhìn thấy hành trình, mà đó chính là sự vi phạm thô bạo nhất và nguyên nhân gây nên sự tiết lộ bí mật có thể xảy ra với những dữ kiện loại này. Sự đảm bảo cho con tàu (hậu cần-kỹ thuật) trước khi ra khơi là không có. Không tiến hành việc tìm kiếm có kiểm soát các tàu ngầm.
2. Việc trở về căn cứ được tiến hành theo hải trình cũ với chiều ngược lại, đây là điều cho phép các lực lượng và phương tiện chống ngầm của Nhật Bản và Hoa Kỳ chẳng cần chú ý gì nhiều cũng có thể dễ dàng đeo bám theo dõi tàu ngầm (chúng ta).
3. Trong giai đoạn chuẩn bị trước khởi hành, tất cả căn cứ trên bờ đều biết về chuyến đi đã sắp đặt trước này của con tàu. Công tác chuẩn bị không hề có công đoạn ngụy trang, không hề có các hành động nghi binh.
Trong thời gian tiếp theo đó, đất nước chúng ta đã chế tạo được những chiếc tàu ngầm mà đặc tính kỹ-chiến thuật của chúng không hề thua kém các tàu ngầm Hoa Kỳ. Ví dụ cho điều này là tàu ngầm nguyên tử mới "Gepard", đã được trang bị cho Hạm đội hải quân của nước Nga."
Kíp thủy thủ của tôi (K-184), năm 1973
Kíp thủy thủ của tôi (K-184), năm 1973.
TMT sư đoàn tàu ngầm 26 đại tá hải quân Nikolai Udovitchenko trao cho tôi một chú heo quay chúc mừng chiến dịch đi biển dài ngày và xạ kích tên lửa thành công (heo quay được chia cho toàn bộ kíp thủy thủ)
TMT sư đoàn tàu ngầm 26 đại tá hải quân Nikolai Udovitchenko trao cho tôi một chú heo quay chúc mừng chiến dịch đi biển dài ngày và xạ kích tên lửa thành công (heo quay được chia cho toàn bộ kíp thủy thủ).
Tôi trao mâm heo quay cho trung sỹ đội trưởng đội thợ điện để chia cho mọi người
Tôi trao mâm heo quay cho trung sỹ đội trưởng đội thợ điện để chia cho mọi người.
 
Theo vnmilitaryhistory, flot.com



http://www.tienphong.vn/hanh-trang-nguoi-linh/616800/Truy-duoi-tau-ngam-o-Bien-Dong-ky-III-tpol.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét