Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016

Khi Trung Quốc thống trị các đại dương

Trung Quốc từ nay vừa là cường quốc đất liền, vừa là cường quốc biển, có khả năng từ đất liền tác động đến những gì xảy ra trên biển. Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ không còn là quan hệ giữa một cường quốc biển và một cường quốc đất liền, mà là giữa hai cường quốc biển.

Tháng 9/2015, một đội tàu nhỏ của Trung Quốc đã xuất hiện trong vùng biển của Mỹ, vài tuần trước chuyến thăm Washington của Chủ tịch Tập Cận Bình vào ngày 24 cùng tháng đó. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hẳn đã lệnh cho các tàu đi tắt (một cách hợp pháp) qua các vùng lãnh hải của Mỹ, ngang tầm quần đảo Aleutian ngoài khơi Alaska. Tổng cộng, 5 tàu đã vượt qua eo biển Bering, dẫn đến phản ứng nhẹ nhàng và lịch thiệp của Washington. Một phát ngôn viên của Hải quân Mỹ đã tuyên bố: "Trung Quốc có lực lượng hải quân tầm cỡ quốc tế, và chúng tôi khuyến khích họ, cũng như những hải quân khác trên thế giới, qua lại trong các vùng biển quốc tế phù hợp với những chuẩn mực nghề nghiệp và an ninh, cũng như tôn trọng luật biển". 
Tại sao Trung Quốc lại "nhiễu sự" thực hiện một chuyến viễn du đến tận miền Bắc Tây bán cầu như vậy? Vì họ thấy cần phải chứng tỏ sự hiện diện của họ ở các vùng biển xa. Và vì họ có thể làm điều đó: Bắc Kinh không còn hoàn toàn phụ thuộc vào hạm đội quân sự của mình để đẩy lùi các mối đe dọa trên các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông. Giờ đây, Trung Quốc đã có các vũ khí tầm xa cho phép họ bắn tới các hạm đội của đối phương từ đất liền. Hạm đội của Hải quân Trung Quốc từ nay có thể đi lại tung hoành tới giáp ranh Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, hoặc thậm chí xa hơn.
Đối với Trung Quốc, một chiến lược hàng hải "tầm xa" mang lại nhiều lợi ích quan trọng, và ngày càng bớt đi những điều bất lợi. Chuyến viễn du nhỏ của Hải quân Trung quốc tới quần đảo Aleutian chỉ là biểu hiện gần đây nhất của dự án của Tập Cận Bình nhằm đưa Trung Quốc từ vị thế cường quốc lục địa truyền thống trở thành "cường quốc biển thực sự" – (và như vậy giúp Trung Quốc thực hiện "Giấc mộng Trung Hoa"). Những khát vọng của Trung Quốc đã được nêu lên trong các cuộc thảo luận ngày 24/9/2015 giữa Barack Obama và Tập Cận Bình. Thách thức đặt ra là gì? Một thời đại mới của Hải quân Trung Quốc trên biển khơi.
Bắc Kinh sẽ được gì với chiến lược biển nói đúng ra là mạo hiểm này? Có nhiều lợi ích. Hãy bắt đầu trước hết với nơi họ vừa đột nhập: eo biển Bering là lối vào Bắc Băng Dương thuận tiện nhất cho các tàu buôn và tàu quân sự của Trung Quốc. Tình trạng tan băng do sự nóng lên toàn cầu sẽ khiến cho các tuyến hàng hải ở Bắc cực trở nên ngắn hơn và trực tiếp hơn (và do đó ít tốn kém và ít phức tạp hơn) so với các tuyến đường hiện tại. Do vậy, có thể dễ dàng hiểu vì sao Hải quân Trung Quốc lại quan tâm đến việc triển khai dọc theo các tuyến đường biển ở phía Bắc của lục Á-Âu.
Mặt khác, việc thám hiểm các vùng biển xa sẽ hun đúc "tinh thần hải quân", khả năng tác chiến và lòng nhiệt huyết. Nếu Trung Quốc muốn Hải quân của họ trở thành một lực lượng có sức mạnh tương đương với Hải quân Mỹ, Lực lượng phòng vệ Nhật Bản, và các lực lượng hải quân lớn khác, thì hạm đội của Hải quân Trung Quốc phải có các hoạt động triển khai tham vọng hơn, phức tạp hơn và vươn xa hơn về mặt địa lý.
Cách đây ít lâu, các sĩ quan hải quân Trung Quốc vẫn do dự khi điều quân ra ngoài phạm vi Tây Thái Bình Dương và các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông. Điều này đã thay đổi khi hạm đội hải quân Trung Quốc phát triển về vật chất. Vũ khí tốt không quan trọng bằng có người điều khiển vũ khí giỏi. Hải quân Trung Quốc dường như rất hài lòng về trang thiết bị của mình, và bây giờ là lúc hoàn thiện yếu tố con người. Đó là lý do khiến Hải quân Trung Quốc xuất hiện nhiều hơn trên các vùng biển của thế giới (ngoài chuyến dừng chân mới đây tại quần đảo Aleutian, còn có chuyến thăm cảng Ai Cập hồi tháng 9/2015, một chuyến đi vòng quanh Biển Đen vào tháng 5/2015, và nhiều cuộc phiêu lưu trên biển cũng như các chuyến thăm ngoại giao khác). Cải tiến thiết bị và nâng cao năng lực con người chính là con đường lý tưởng để thực hiện một quan điểm mang tính chiến lược.
Ngoài tất cả những điều trên, Tập Cận Bình và các cộng sự của ông có lẽ muốn thúc đẩy tham vọng của Trung Quốc trong vùng biển của mình, đồng thời khiêu khích Mỹ ngay chính trong các vùng biển của Mỹ. Các nhà lãnh đạo và các sĩ quan Trung Quốc thường nghĩ rằng người Mỹ sẽ không bao giờ chấp nhận trong các vùng biển của Mỹ điều mà Hải quân Mỹ đang làm ở vùng biển gần Trung Quốc (chẳng hạn điều máy bay trinh sát dọc các bờ biển, thực hiện các nhiệm vụ giám sát dưới biển, cho các máy bay chiến thuật cất cánh từ các tàu sân bay…). Đó là lý do tại sao họ không ngừng đề cập tới học thuyết Monroe hay cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba hoặc bất kỳ giai đoạn lịch sử nào khác của nước Mỹ để chứng tỏ rằng Mỹ tự cho mình quyền ngăn cấm một số hoạt động trong không gian biển của họ.
Với lý do có đi có lại, Trung Quốc đã đòi hỏi Washington phải dành cho các cường quốc khác những đặc quyền như vậy trong các vùng biển lân cận của Mỹ. Và Trung Quốc thực sự mong muốn các nước khác không áp đặt các quy tắc chi phối các hoạt động quân sự trong vùng biển của Trung Quốc. Đặc biệt, Bắc Kinh muốn cấm thực hiện trên các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông các chuyến bay giám sát, hoạt động trinh thám dưới biển và hoạt động của các tàu sân bay nước ngoài (chỉ cho phép qua lại trên một số tuyến đường hàng hải khu vực, nối từ điểm A đến điểm B). Những hoạt động này vốn đã được quy tắc hóa thông qua pháp luật theo tập quán và các điều ước quốc tế. Để cho Trung Quốc độc chiếm sẽ là xóa bỏ quyền tự do đi lại trên các vùng biển này. Các tàu nước ngoài sẽ chỉ được sử dụng các tuyến đường biển của Trung Quốc khi Bắc Kinh cho phép. Theo thời gian, việc mất quyền tự do đi lại trên biển ở Đông Nam Á có thể ảnh hưởng xấu tới nguyên tắc này thậm chí ở khắp nơi trên thế giới. Biển Đông Nam Á (Biển Đông) không còn là tài sản biển chung toàn cầu nữa. Và điều này có thể khuyến khích các cường quốc hung hăng khác trên thế giới đòi chủ quyền đối với các tuyến đường biển ở gần lãnh thổ của họ. Hôm nay là Biển Đông Nam Á, ngày mai là Biển Đen hay Vịnh Persian?
Tuy nhiên, nếu Bắc Kinh hy vọng có thể khiến Washington mệt mỏi và giảm bớt các hoạt động hải quân của Mỹ trong khu vực châu Á, thì Bắc Kinh có lẽ sẽ thất vọng. Một số người ngờ rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc tưởng người Mỹ có cách nhìn nhận thế giới giống họ và cũng sẽ phản ứng như họ trước các hành động của nước khác giống người Trung Quốc.
Người Mỹ không có thái độ đòi hỏi về biển như vậy giống người Trung Quốc. Vả lại, người Mỹ thấy không cần thiết phải coi biển nằm trong lãnh thổ của họ (không phải vô cớ mà vùng biển phía Nam nước Mỹ lại được gọi là Vịnh Mexico). Ngay cả vào lúc cực điểm của chủ nghĩa Mỹ, với học thuyết Monroe trong thế kỷ 19, Mỹ chưa bao giờ đòi chủ quyền đối với Vịnh Mexico hoặc biển Caribe. Đây là một sự khác biệt rõ ràng với Trung Quốc khi nước này coi Biển Đông như là "vùng đất xanh" của họ – một lãnh thổ thuộc Trung Quốc và là nơi thực thi luật lệ Trung Quốc.
Để hiểu cách thức phản ứng của Mỹ trước sự xâm nhập của Hải quân Trung Quốc vào vùng biển của Mỹ, chúng ta hãy tham khảo thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Washington vẫn coi sự hiện diện của lực lượng hải quân nước ngoài ở gần các bờ biển nước Mỹ như là cái giá phải trả cho các hoạt động giao thương của Mỹ trên đại dương. Tự do đi lại trên biển là một vấn đề có đi có lại. Nếu một nước hạn chế tự do đi lại trên biển của các nước khác thì họ cũng sẽ hạn chế quyền tự do đi lại của nước đó.
Trong Chiến tranh Lạnh, Hải quân Liên Xô, thường xuyên hoạt động trên các vùng biển gần nước Mỹ. Các tàu ngầm hạt nhân từng thực hiện các hoạt động tuần tra răn đe ở ngoài khơi. Các tàu do thám (AGI – tàu thuộc cơ quan tình báo), tàu đánh cá của Liên Xô trang bị đầy các thiết bị điện tử hết sức tinh vi, đã theo dõi các lực lượng hải quân Mỹ. Các AGI có mặt ở khắp nơi, đến mức nhiều lần một thuyền trưởng Mỹ đã phải sắp xếp cho một tàu Liên Xô đi vào trong hàng ngũ hạm đội của mình, để tránh xảy ra bất kỳ va chạm nào trong khi thay đổi hành trình hay tốc độ. Như vậy, trên thực tế, AGI đã trở thành bạn đồng hành của một hạm đội thù địch. Có những cách hành xử lịch thiệp ngay cả giữa các kẻ thù hung bạo với nhau.
Trung Quốc vẫn còn phải học cách thích ứng với những "luật chơi" trên biển. Tại sao? Bởi vì một cường quốc lục địa như Trung Quốc có xu hướng nhìn nhận về biển khác với những quốc gia biển như Mỹ hay Anh. Nơi nào mà các quốc gia biển coi là một tài sản chung, một không gian tự do mỗi nước đều có thể sử dụng, thì các quốc gia lục địa lại coi đó là một lãnh thổ quốc gia giống như đất liền. Một hố sâu thực sự ngăn cách giữa cách nhìn của Trung Quốc và cách nhìn của phương Tây.
Tuy nhiên, kinh nghiệm của cuộc Chiến tranh Lạnh đã không làm thay đổi nhiều quan điểm của Trung Quốc. Với mong muốn nhanh chóng trở thành một cường quốc công nghiệp hiện đại, dưới thời Mao Trạch Đông từ năm 1949 đến năm 1976, Trung Quốc đã hướng vào nội địa. Ở giai đoạn đó, Hải quân Trung Quốc bị ngăn cách sau một quần đảo bị các lực lượng đồng minh chiếm đóng và do vậy đành bằng lòng với nhiệm vụ bảo vệ các bờ biển của Trung Quốc chống lại một cuộc xâm nhập của các tàu đổ bộ. Bị ám ảnh bởi sự cạnh tranh chiến lược với Liên Xô, Chính phủ Trung Quốc rõ ràng đã dành nhiều sự quan tâm đến khu vực biên giới Trung-Xô hơn là đến biển. Trước khi triển khai cuộc cải cách kinh tế vào cuối những năm 1970, Trung Quốc đã tập trung chủ yếu vào đất liền. Không giống như Mỹ hay Liên Xô, Trung Quốc chưa bao giờ thích ứng với sự cạnh tranh chiến lược trên biển. 
Nhưng giờ đây Bắc Kinh dường như đi trên những "đường ray mới". Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã rất thường xuyên và hăng hái đưa ra những đòi hỏi về chủ quyền lãnh hải đến mức họ sẽ có nguy cơ tỏ ra hèn yếu và vụng về trước dân chúng của họ nếu như họ phải lùi bước. Giờ đây, khó có thể hình dung rằng họ sẽ từ bỏ ý định hạn chế quyền tự do đi lại trên biển. Vấn đề là ở chỗ thái độ rõ rệt không gì lay chuyển được của Bắc Kinh (lời tuyên bố mới đây rằng Biển Đông "thuộc Trung Quốc" là một ví dụ điển hình) đã gắn kết các bên liên quan.
Sở dĩ Trung Quốc từ nay lao vào cuộc phiêu lưu trên biển là vì họ có thể làm điều này. Các loại vũ khí được trưng ra trong cuộc duyệt binh ngày 2/9 tại Bắc Kinh, để kỷ niệm ngày Nhật Bản đầu hàng vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai, đã cho thấy vì sao các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã không còn sợ hãi khi đưa các hạm đội nhỏ của họ đến các vùng biển xa (ban đầu nhằm để bảo vệ Trung Quốc Đại lục đồng thời theo dõi những gì đang xảy ra trong không gian biển châu Á), và họ thấy không có nguy cơ gì lớn đối với họ. Nhờ những tiến bộ công nghệ trong ngành công nghiệp vũ khí, các tàu chiến của Hải quân Trung Quốc đã có thể đi lại trên tất cả các vùng biển của thế giới mà không lo sợ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Nói một cách rõ ràng hơn, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) ngày càng có thể đương đầu với các mối đe dọa tới các lợi ích của Trung Quốc ở biển khơi mà không cần tới các tàu của Hải quân Trung Quốc. Trước đây, thông thường cần phải có một tàu để chiến đấu chống lại một tàu khác. Công nghệ đã làm thay đổi điều đó. Hiện nay, Trung Quốc có một loạt vũ khí phòng thủ "chống tiếp cận" khá hiện đại để ngăn chặn phần lớn các mối đe dọa (kho vũ khí ven biển cho phép Trung Quốc quản lý các sự kiện trên biển).
Việc sở hữu các vũ khí phòng thủ hiện đại đã mở ra cho Bắc Kinh các cơ hội chiến lược hấp dẫn. Hạm đội của Hải quân Trung Quốc có thể tung hoành trên biển trong tầm bắn của các tên lửa hành trình chống tàu và các giàn tên lửa đạn đạo dọc bờ biển Trung Quốc, cộng thêm một hỏa lực mạnh trên đất liền. Các tên lửa đạn đạo chống tàu được phô trương trong cuộc duyệt binh ngày 2/9 có khả năng bắn tới các mục tiêu ở xa như các căn cứ của Mỹ trên đảo Guam ở Tây Thái Bình Dương.
Trong kho vũ khí của PLA còn phải kể tới các máy bay chiến đấu được trang bị các tên lửa chống tàu. Những máy bay này có thể tấn công các mục tiêu ở cách bờ biển châu Á hàng trăm km. Bổ sung cho các phương tiện không quân và các tên lửa trên bộ còn có các tàu ngầm và các tàu tuần tra mặt nước nhiệm vụ cảnh giới – giống như các trạm gác ngoài khơi để báo trước các cuộc tấn công. Tóm lại, chúng tạo thành một mạng lưới phòng thủ hết sức dày đặc, và trở thành một cơn ác mộng đối với Mỹ và các đồng minh muốn bảo vệ các nước bạn bè cũng như sự tự do trên biển và thực hiện các mục tiêu đáng quan tâm khác.
Như vậy, việc triển khai trên bộ của lực lượng hải quân đã cho phép Hải quân Trung Quốc bù lấp sự chênh lệch về hỏa lực giữa các tàu Trung Quốc và các tàu Mỹ. Việc cấm tiếp cận các tuyến đường biển đã mang lại những lợi thế không thể phủ nhận cho Trung Quốc. Nếu một cuộc chiến diễn ra ở Tây Thái Bình Dương, các lực lượng ven bờ của Trung Quốc có thể tấn công các lực lượng Mỹ, do đó làm gia tăng sức mạnh tấn công của Hải quân Trung Quốc. Chính vì vậy, so sánh số lượng tàu và máy bay của quân đội hai nước là sai lầm, mà cần so sánh sức mạnh của một bộ phận lực lượng Hải quân Mỹ (hạm đội Thái Bình Dương) với toàn bộ Hải quân Trung Quốc, cộng thêm sự tăng viện của pháo binh PLA, các tên lửa đạn đạo, cũng như các thiết bị của không quân và hải quân có khả năng tác chiến trên biển. 
Người ta có thể nghĩ rằng Hải quân Trung Quốc thậm chí không cần tham gia chiến đấu. Vì vậy, PLA có đủ khả năng tấn công các kẻ thù trong khu vực (như Hạm đội 7 của Mỹ, đóng tại Nhật Bản, và Lực lượng phòng vệ trên biển Nhật Bản). Thực tế này đã khiến Washington, Tokyo và những kẻ thù tiềm năng khác của Trung Quốc phải cân nhắc kỹ trước khi làm điều gì đó gây hại cho Trung Quốc. Nếu như mạng lưới chống tiếp cận vận hành như dự kiến, Bắc Kinh sẽ ngày càng ít do dự điều hạm đội quân sự của mình tới Ấn Độ Dương, Vịnh Persian, thậm chí tới Địa Trung Hải hay Đại Tây Dương.
Đối với Trung Quốc, việc bảo vệ vùng bờ biển là một phần của một chiến lược biển đầy tham vọng. Nếu pháo binh và các máy bay của PLA có thể tấn công kẻ thù từ bờ biển, thì tại sao họ không điều các tàu của Hải quân Trung Quốc tới những vùng biển xa hơn, để thực hiện những nhiệm vụ mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng quan trọng?
Cần nghiên cứu kỹ lịch sử để có một cái nhìn tổng quan về sự vận hành của cấu trúc phòng thủ của Trung Quốc. Cách đây một thế kỷ, chuyên gia nổi tiếng về biển Alfred Thayer Mahan đã chỉ trích Hải quân Đế quốc Nga là nhút nhát và thiếu tinh thần tấn công. Ông đã nói đến cuộc Chiến tranh Nga-Nhật năm 1904-1905, trong đó Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã đánh chìm một số lượng lớn các tàu của Nga trong không gian biển Đông Á và nắm quyền kiểm soát biển. Mahan chỉ trích lính hải quân Nga đã sử dụng thuyền của họ ở Thái Bình Dương như một "hạm đội pháo đài", chứ không như một lực lượng chiến đấu.
Chiến tranh trên biển không phải là một "chuyện nhỏ". Theo lý thuyết, các tàu chiến được triển khai nhằm bảo vệ các cảng biển quan trọng chống lại các kẻ thù trên biển. Tuy nhiên, trên thực tế, một số thuyền trưởng, cũng như các thuyền trưởng của Hải quân Đế quốc Nga lại muốn dùng cảng biển để bảo vệ các tàu chiến. Khi lực lượng bảo vệ lại trở thành đối tượng được bảo vệ, sẽ nảy sinh vấn đề, và đó chính là vấn đề mà Mahan nhấn mạnh.
Tại sao phải trú ẩn dưới các nòng pháo của một pháo đài (hay dưới các tên lửa và các máy bay chiến đấu ở thời kỳ cực kỳ hiện đại này)? Câu trả lời đơn giản là: Pháo đài lớn hơn tàu. Tàu lớn nhất vẫn nhỏ hơn pháo đài, và chỉ có không gian hạn chế không cho phép vận chuyển pháo hạng nặng và đạn dược. Các căn cứ cho phép sử dụng vũ khí hạng nặng hơn, cùng các kho dự trữ đạn dược lớn hơn. Giờ đây, điều này càng trở nên đúng hơn khi mà các tên lửa chống tàu được vận chuyển trên xe tải có thể được đặt ở bất kỳ khu vực ven biển nào. Pháo đài Trung Quốc mang lại một địa hình rộng lớn hơn để thiết lập các vũ khí chống tiếp cận.
Không ngạc nhiên khi Đô đốc Horatio Nelson, người giúp Hải quân Anh giành chiến thắng trước Hải quân Pháp và Hải quân Tây Ban Nha trong trận Trafalgar, từng tuyên bố rằng dùng tàu để tấn công pháo đài là một hành động điên rồ. Cũng không ngạc nhiên khi Hải quân Đế quốc Nga đã ẩn nấp tại cảng Arthur, trên Bán đảo Liêu Đông (Đông Bắc Trung Quốc) và để cho pháo binh bờ biển bảo vệ họ chống lại hạm đội của Đô đốc Togo Heihachiro. 
Có thể nói rằng đối với Trung Quốc, cách tấn công tốt nhất là phòng thủ tốt (chứ không phải ngược lại). Nói cách khác, có một hệ thống phòng thủ vững chắc trên bộ cho phép các tàu chiến của Hải quân Trung Quốc muốn đến đâu thì đến trên các vùng biển Hoa Đông và Biển Đông hay Tây Thái Bình Dương để thực hiện các nhiệm vụ tấn công, đồng thời có thể lợi dụng các máy bay và các giàn tên lửa di động trong trường hợp cần thiết. Như vậy, một cách nào đó các lực lượng phòng thủ ven biển đã "cởi trói" cho các tàu của Hải quân Trung Quốc.
Trung Quốc từ nay vừa là cường quốc đất liền, vừa là cường quốc biển, có khả năng từ đất liền tác động đến những gì xảy ra trên biển: một cường quốc biển tự do lựa chọn một chiến lược biển vươn xa. Các hạm đội của Hải quân Trung Quốc sẽ xuất hiện ngày càng thường xuyên hơn trong các cảng châu Á... và xa hơn nữa. Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ không còn là quan hệ giữa một cường quốc biển và một cường quốc đất liền, mà là giữa hai cường quốc biển.
James Holmes là giáo sư về chiến lược của trường Hải chiến và từng tham gia chiến đấu trong cuộc chiến Vùng Vịnh. Ông cũng là đồng tác giả của Red Star Over the Pacific: China's Rise and the Challenge to U.S. Maritime Strategy. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bài viết được đăng trên Foreign Policy.
http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/5737-khi-trung-quoc-thong-tri-cac-dai-duong

Trung Quốc có thể "đấu" Mỹ gần nhà, thua ngay nếu đi xa

Lược trích:

"... “Ngay cả ở khu vực quần đảo Trường Sa, Trung Quốc hiện đã có ưu thế liên quan đến việc họ thường xuyên hiện diện trong khu vực, còn người Mỹ phải điều lực lượng từ khắp thế giới đến đó. Ngoài ra, Trung Quốc còn có các khả năng phi đối xứng liên quan đến lực lượng tên lửa hiện đại và chính xác đông đảo triển khai trên mặt đất.


Ở khu vực này, Trung Quốc thực sự là địch thủ cực kỳ nguy hiểm đối với Mỹ. Xung đột Mỹ-Trung sẽ có những kết quả khó lường. Ở khoảng cách xa, người Mỹ sẽ có ưu thế ở tầm mức toàn cầu. Nhưng ở gần biên giới của mình, Trung Quốc có thể thách thức ai cũng được”...

-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------



Các nhà phân tích Mỹ mô hình hóa các cuộc xung đột quân sự giả định giữa Mỹ và Trung Quốc xung quanh Đài Loan và quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Ảnh minh họaẢnh minh họa

Kết quả cho thấy, nếu trong thập kỷ 1990, kiểu gì Mỹ cũng chắc chắn giành thắng lợi thì hiện nay, về nhiều tham số, kết cục sẽ không rõ ràng như thế, còn trong 10-15 năm tới, cán cân sức mạnh có thể còn thay đổi hơn nữa.

Các nhà phân tích của hãng phân tích chiến lược Mỹ RAND đã soạn thảo báo cáo về sự thay đổi của quân đội Trung Quốc kể từ đầu thập kỷ 1990. Họ so sánh quân đội Mỹ và Trung Quốc trên 10 thông số vào các năm 1996, 2003, 2010 và 2017 và dự báo kết quả cuộc xung đột quân sự tiềm tàng giữa hai bên. Họ xem xét 2 kịch bản xung đột: tại khu vực gần Trung Quốc, nghĩa là xung đột về Đài Loan, và ở khu vực xa hơn vì quần đảo Trường Sa. 

Báo cáo cho rằng, trong 20 năm qua, quân đội Trung Quốc đã có bước chuyển hóa, từ một quân đội đông người, nhưng lạc hậu thành một quân đội hiện đại, có sức chiến đấu. 10 thông số dùng để so sánh sức mạnh quân sự Mỹ, Trung như sau:

1. Khả năng của Trung Quốc tấn công các căn cứ không quân Mỹ: 

Các nhà phân tích Mỹ cho rằng, Trung Quốc có khả năng tiêu diệt các căn cứ không quân Mỹ gần nhất bằng các tên lửa đường đạn tầm ngắn mà Trung Quốc hiện có tới gần 1.400 quả. Ngay cả một phần nhỏ kho tên lửa này cũng đủ để loại khỏi vòng chiến các căn cứ này trong vài tuần, vì thế máy bay Mỹ sẽ phải bay qua khoảng cách xa hơn từ các căn cứ ở Alaska, quần đảo Hawaii và đảo Guam.
Tên lửa DF-21 của Trung Quốc
Về thông số này, các nhà phân tích cho rằng, Trung Quốc có ưu thế nhỏ khi xảy ra xung đột ở khu vực gần và hai bên có sự cân bằng nếu xung đột diễn ở ở khu vực xa.

2. Ưu thế trên không:
Hiện nay, một nửa không quân tiêm kích của Trung Quốc được trang bị các máy bay thế hệ 4. Bản thân điều đó đã làm giảm khoảng cách về năng lực giữa hai nước. Tuy nhiên, nếu như đến năm 2010, ưu thế của Mỹ là áp đảo thì nay đang có sự cân bằng ở khu vực gần và ưu thế nhỏ của Mỹ ở khu vực xa.

3. Khả năng xâm nhập không phận Trung Quốc:
Sự phát triển của hệ thống phòng không Trung Quốc đã dẫn tới việc Mỹ gặp khó khăn hơn nhiều để hoạt động trong không phận Trung Quốc hay ở dọc biên giới Trung Quốc. Vào năm 1996, các tên lửa đất đối không Trung Quốc chủ yếu là các vũ khí sao chép các hệ thống cũ của Liên Xô. Đến năm 2010, Trung Quốc đưa vào trang bị gần 200 bệ phóng với hệ thống sục sạo mục tiêu tinh vi hơn, với tầm hoạt động đến 200 km.
Khả năng của Không quân Mỹ được trang bị công nghệ tàng hình vẫn cho phép họ xâm nhập vào không phận Trung Quốc. Nhưng nếu như trong những năm 1990, có thể nói về ưu thế của Mỹ thì này đang có sự cân bằng ở khu vực gần và ưu thế nhỏ của Mỹ ở khu vực xa.

4. Khả năng của Mỹ tấn công các căn cứ không quân Trung Quốc:
Sự phát triển của vũ khí chính xác cao đã mang lại cho Mỹ hàng loại ưu thế và khả năng có thể sử dụng trong một cuộc xung đột có thể xảy ra vì đảo Đài Loan. Nhờ đó, về thông số này, Mỹ có ưu thế ở khu vực gần và ưu thế đáng kể ở khu vực xa.

5. Khả năng của Trung Quốc chống tàu mặt nước của Mỹ:
Khả năng chiến đấu của quân đội Trung Quốc đã đạt đến trình độ có thể đe dọa các tàu sân bay Mỹ bằng các tên lửa đường đạn chống hạm. Mặc dù các tên lửa này vẫn dễ tổn thương trước các hệ thống phòng thủ tên lửa, các vị tướng Mỹ giờ phải tính toán đến việc Trung Quốc có khả năng tấn công các tàu sân bay Mỹ và khả năng này chỉ có tăng.
Ngoài ra, Trung Quốc sẽ cải thiện được năng lực trinh sát, trong đó có trinh sát vệ tinh. Ngoài các tên lửa đường đạn chống hạm, bộ chỉ huy Mỹ cũng phải tính đến việc hoàn thiện các tàu ngầm Trung Quốc với tên lửa hành trình và ngư lôi. Do đó, ở đây, Trung Quốc có ưu thế nhỏ ở khu vực cần và có sự cân bằng ở khu vực xa.

6. Khả năng của Mỹ tấn công tàu chiến Trung Quốc:
Quân đội Mỹ đang có nhiều nỗ lực để ngăn chặn Trung Quốc tổ chức đổ bộ lên Đài Loan. Các tàu ngầm, máy bay và lực lượng mặt đất của Mỹ sẽ tiêu diệt đến 40% các tàu đổ bộ Trung Quốc, sau những tổn thất như thế, lực lượng đổ bộ sẽ không còn khả năng duy trì tính toàn vẹn và sự chỉ huy thống nhất.
Tiêm kích tàng hình F-22 "chim ăn thịt" của Mỹ
Tuy nhiên, Trung Quốc đang hoàn thiện các trực thăng chống ngầm và hạm tàu và tiếp tục tăng cường đội tàu đổ bộ. Khả năng đổ bộ của Trung Quốc từ năm 1996 đã tăng gấp đôi. Tuy nhiên, một khi nổ ra xung đột vì Đài Loan ưu thế ở đây sẽ thuộc về Mỹ, còn ở khu vực xa, ưu thế của Mỹ còn lớn hơn nữa.

7. Khả năng của Mỹ đối phó với các hệ thống vũ trụ của Trung Quốc:

Trong khi Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào các vệ tinh, nhưng cũng có tin về việc Trung Quốc phát triển các loại vũ khí có khả năng tiêu diệt các khí cụ vũ trụ thì từ năm 2002, Mỹ đã bắt đầu tài trợ cho việc phát triển vũ khí chống vệ tinh. Ngoài ra, Mỹ cũng đang phát triển các hệ thống laser năng lượng cao để loại khỏi vòng chiến các hệ thống cảm biến quang học của các vệ tinh Trung Quốc và các tên lửa đường đạn để bắn hạ các vệ tinh đó.

8. Khả năng của Trung Quốc đối phó với các hệ thống vũ trụ của Mỹ: 
Trung Quốc đã tiến hành một số thử nghiệm tên lửa động năng chống vệ tinh. Họ cũng đang phát triển các hệ thống laser có khả năng gây tổn hại các thiết bị của vệ tinh. Mối đe dọa đối với các vệ tinh được đánh giá là khá lớn. Xét về cả hai thông số cuối, sức mạnh của hai bên là gần ngang nhau. 

9. Chiến tranh mạng: 
Mặc dù các cơ quan nhà nước của Mỹ nhiều lần bị tin tặc do Trung Quốc yểm trợ tấn công, nhưng sẽ không có vấn đề đặc biệt với các mạng máy tính Mỹ một khi nổ ra xung đột. Mà Trung Quốc cũng chẳng phải quá lo mặc dù Mỹ có ưu thế nhất định trong lĩnh vực này. 

10. Khả năng sống còn của lực lượng hạt nhân:
Thông số này liên quan đến trạng thái của lực lượng hạt nhân quốc gia một khi bị tấn công hạt nhân nên cũng liên quan đến khả năng giáng trả hạt nhân. Trung Quốc liên tục phát triển lực lượng hạt nhân của mình và đưa vào trang bị các tên lửa đường đạn xuyên lục địa mới như DF-31/31A và tên lửa cải tiến DF-5.
Hải quân Trung Quốc đã nhận được tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm JL-2. Mặc dù vậy, số lượng đầu đạn hạt nhân của Mỹ so với Trung Quốc là 13/1 vì thế Trung Quốc không có cơ hội nào thực hiện đòn giáng trả hạt nhân.

Báo cáo cũng viết rằng, với xu hướng diễn biến như hiện nay, sau 5-15 năm nữa, ảnh hưởng của Mỹ ở châu Á sẽ suy giảm. Đồng thời, ban lãnh đạo Trung Quốc có thể đi đến kết luận rằng, Mỹ sẽ không can thiệp vào cuộc xung đột giữa Trung Quốc với một trong các nước láng giềng của họ. 

Đánh giá của chuyên gia quân sự Nga


Liên quan đến báo cáo của RAND, biên tập viên tạp chí Moscow Defense Brief, ông Vasily Kashin cho rằng: Mỹ có liên minh chính thức với Nhật Bản và Philippines. Mỹ cũng có đạo luật quan hệ với Đài Loan, theo đó Mỹ có thể can thiệp một khi Trung Quốc mưu toan dùng vũ lực sáp nhập Đài Loan. Nhưng luật này không quyết định rõ các phương án hành động mà người Mỹ sẽ tự quyết định có can thiệp hay không. Do đó, ở đây có sự bất định chiến lược.
Đối với các nước khác, Mỹ không có cam kết rõ ràng. Không nên nghi ngờ chuyện Mỹ sẽ giúp Nhật vì đây là đồng minh chủ chốt, bỏ mặc đồng minh cho số phận nghĩa là từ bỏ vai trò lãnh đạo toàn cầu và mọi tham vọng đối với vai trò đó. Đối với Philippines, mọi thứ không đơn giản thế, ở đây nói đến những cấp độ quy mô khác. Nhưng rõ ràng là hiện nay Đông Á là khu vực ưu tiên đối với Mỹ. Không nên xem nhẹ quyết tâm của Mỹ và Trung Quốc cũng hiểu rõ điều đó.
Việc Trung Quốc tiến hành các chiến dịch cục bộ chớp nhoáng mà Mỹ đơn giản là không kịp phản ứng là rủi ro lớn. Nhưng chỉ có thể nói đến khả năng xảy ra loại hành động như vậy đâu đó vào thập kỷ tới, khi mà quan hệ xấu đi và cán cân sức mạnh thay đổi.

Đồng thời, ông Kashin cũng nhất trí với các tác giả báo cáo ở chỗ, khả năng quân sự của Trung Quốc đã lớn mạnh đến mức, ở đâu đó, có sự vượt trội so với Mỹ: 

“Ngay cả ở khu vực quần đảo Trường Sa, Trung Quốc hiện đã có ưu thế liên quan đến việc họ thường xuyên hiện diện trong khu vực, còn người Mỹ phải điều lực lượng từ khắp thế giới đến đó. Ngoài ra, Trung Quốc còn có các khả năng phi đối xứng liên quan đến lực lượng tên lửa hiện đại và chính xác đông đảo triển khai trên mặt đất.
Ở khu vực này, Trung Quốc thực sự là địch thủ cực kỳ nguy hiểm đối với Mỹ. Xung đột Mỹ-Trung sẽ có những kết quả khó lường. Ở khoảng cách xa, người Mỹ sẽ có ưu thế ở tầm mức toàn cầu. Nhưng ở gần biên giới của mình, Trung Quốc có thể thách thức ai cũng được”, ông Kashin kết luận”.

http://viettimes.vn/quoc-phong/trung-quoc-co-the-dau-my-gan-nha-thua-ngay-neu-di-xa-29252.html

Hạm đội tàu ngầm Trung Quốc có năng lực đe dọa các tàu sân bay Mỹ?


Sự kiện nổi tiếng nhất phải kể đến vào năm 2006 khi một tàu ngầm SSK thuộc lớp Tống đột ngột trồi lên ở một khoảng cách rất gần với tàu sân bay USS Kitty Hawk của Hoa Kỳ.
Hạm đội tàu ngầm Trung Quốc có năng lực đe dọa các tàu sân bay Mỹ?
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều cuộc tranh luận về chiến lược chống xâm nhập/chống tiếp cận (A2/AD) của Trung Quốc. Tất cả đều dẫn đến một hình dung rằng các tàu sân bay của Hoa Kỳ sẽ rất dễ bị tổn thương nếu xảy ra xung đột giữa hai cường quốc ở Tây Thái Bình Dương. 
Điều đáng lo ngại ở đây chính là sự gia tăng tiềm lực tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc (PLAN) trong những năm gần đây. Chuyên gia phân tích cao cấp Ben Ho Wan Beng thuộc Chương trình Nghiên cứu Quân sự, Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam của Singapore đã có bài viết về vấn đề này.

Theo báo cáo của Văn phòng Tình báo Hải quân Hoa Kỳ, hạm đội tàu ngầm của Trung Quốc rất đông đảo. Phần lớn trong số này là tàu ngầm điện-diesel thông thường (SSK) (57 chiếc) và 5 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN). Các chuyên gia thường ám chỉ về mức độ đe doạ của các SSK đến hải quân Hoa Kỳ. 
Điều này xuất phát từ thực tế rằng trong nhiều trường hợp, các tàu SSK thậm chí còn vận hành êm ái và không ồn ào như SSN dù mức độ nguy hiểm đến từ vũ khí trang bị là cách khá xa nhau. 
Sự kiện nổi tiếng nhất phải kể đến vào năm 2006 khi một tàu ngầm SSK thuộc lớp Tống đột ngột trồi lên ở một khoảng cách rất gần với tàu sân bay USS Kitty Hawk của Hoa Kỳ. Cần chú ý rằng các tàu ngầm lớp Tống chỉ là bản sao nội địa được Trung Quốc sản xuất dựa trên nguyên mẫu là tàu ngầm SSK lớp Kilo của Nga. 
Vụ việc làm dấy lên tranh cãi rằng, nếu các tàu lớp Tống, vốn chỉ là một bản sao có thể dễ dàng lọt qua được các màn hình giám sát của biên đội tàu chiến Hoa Kỳ, thì các tàu ngầm lớp Kilo có thể làm được điều gì nữa?

Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta cần làm rõ hai vấn đề thuộc về năng lực của hạm đội tàu ngầm Trung Quốc. Thứ nhất, làm thế nào các tàu chiến của Bắc Kinh có thể xác định vị trí và theo dõi các tàu của Hoa Kỳ? Và thứ hai, nếu chúng có khả năng làm được điều đó, mức độ mà chúng sẽ phá huỷ hay đánh chìm các tàu sân bay là như thế nào?
Đội hình tàu sân bayUSS Kitty Hawk của Hoa Kỳ
Trong cuốn sách “Sức mạnh biển đang trỗi dậy của Trung Quốc: Thách thức từ tàu ngầm Hải quân Trung Quốc” do Routledge xuất bản năm 2006, các tàu ngầm của Trung Quốc có thể được triển khai theo đội hình hàng ngang. 
Những giới hạn về mặt tốc độ và khả năng tác chiến có thể biến những tàu ngầm này trở thành các bãi mìn di động dưới lòng biển. Những tiến bộ gần đây trong công nghệ đã đẩy xa tầm hoạt động của các tàu ngầm Trung Quốc, không chỉ còn giới hạn trong chuỗi đảo thứ nhất.

Thêm vào đó, nếu chỉ dựa vào ưu thế về số lượng, các tàu Trung Quốc sẽ rất khó có thể xác định được vị trí nhóm tàu sân bay của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu có sự kết hợp nhịp nhàng với hệ thống giám sát vệ tinh, vốn đã được Bắc Kinh đầu tư rất nhiều trong suốt thời gian qua, Trung Quốc có thể xác định được vị trí chính xác hơn trước. 
Do đó, nếu thiếu đi các hệ thống định vị vệ tinh, sẽ rất khó để các tàu ngầm Trung Quốc xác định, theo dõi và bắt kịp nhóm tác chiến tàu sân bay của Hoa Kỳ. 
Nói một cách khác, sự chậm chạp của các SSK của Trung Quốc sẽ không thể nào giúp nó bám kịp tàu sân bay của Washington, vốn có tốc độ lên tới 30 hải lý/giờ. Rất khó để một tàu ngầm Trung Quốc có thể giữ khoảng cách gần với tàu sân bay Hoa Kỳ mà không bị phát hiện.

Những giới hạn về tốc độ cũng như thời gian hoạt động và sự phức tạp về khu vực địa hình dưới lòng biển là nguyên nhân khiến các tàu ngầm Trung Quốc gặp khó khăn trong việc xác định vị trí và theo dõi tàu sân bay Hoa Kỳ. 
Tuy nhiên, một sự kết hợp với các hệ thống vệ tinh có thể khắc phục được những thiếu sót này. Giả sử tàu ngầm Trung Quốc có t hể vượt qua được những trở ngại đó và trở thành một mối đe doạ tầm gần với tàu sân bay của Washington, có vũ khí có thể lựa chọn để tấn công: ngư lôi hoặc tên lửa hành trình chống hạm.

Hiện nay, Hải quân Hoa Kỳ đang tích cực phát triển các thiết bị không người lái dưới nước, chuyên biệt cho việc phát hiện tàu ngầm đối phương, thậm chí là tiêu diệt nếu cần thiết. Điển hình như SQQ-89 hay máy bay tuần thám săn ngầm thế hệ mới P-8 Poseidon. Điều này chắc chắn đặt ra những thách thức mới cho Trung Quốc, đòi hỏi nước này cần có thời gian để tìm ra cách khắc chế.

Trong khi đó, các cải cách quân đội mới được Tập Cận Bình đưa ra gần đây được đánh giá là có khả năng gia tăng nguy cơ xung đột với Mỹ và các quốc gia láng giềng. 
Thứ nhất, trong trường hợp các cải cách được tiến hành thành công và khả năng chiến đấu của PLA được nâng cao, Mỹ và các nước khác sẽ ngày càng lo lắng hơn. Trước các căng thẳng về lãnh hải và lãnh thổ gần đây tại khu vực, việc PLA trở nên mạnh hơn hoàn toàn là nhân tố có thể khiến cho Trung Quốc trở nên quyết đoán hơn nữa so với hiện nay.

Thứ hai, gia tăng thẩm quyền cho các cấp chỉ huy thấp hơn có thể khiến cho các sự kiện đối đầu trên biển trở nên thường xuyên hơn, như vụ đối đầu giữa máy bay Mỹ và Trung Quốc năm 2001. Thông thường, Bắc Kinh cho rằng các sự kiện như vậy là hành động của các cá nhân ở ngoài thực địa hay các chỉ huy quân sự địa phương. 
Việc các chỉ huy cấp thấp có thể ra quyết định nhanh hơn khiến cho xung đột dễ xảy ra và giúp cho giới chức quân đội cấp cao ở Bắc Kinh có thể có khả năng “chối bỏ trách nhiệm” nếu có thiệt hại vật chất xảy ra khi đụng độ. 
Quá trình điều chỉnh cấu trúc như thế làm cho Mỹ và các nước khác khó có thể đổ lỗi cho các lãnh đạo Trung Quốc trong trường hợp có thiệt hại gây ra bởi các cuộc đối đầu cường độ thấp.

Một tàu ngầm tấn công của Trung Quốc vào tháng 10 đã tiến hành một cuộc tấn công giả định vào tàu sân bay USS Reagan, theo một quan chức quốc phòng Mỹ. Vụ việc xảy ra tại vùng biển Nhật Bản đã vi phạm các quy tắc được nêu ra trong Bộ Quy tắc ứng xử về các trường hợp va chạm ngẫu nhiên trên biển (CUES) được thiết kế để giảm thiểu nguy cơ xung đột giữa hai bên.

Sự việc khác cũng đáng chú ý đó là việc lần đầu tiên một máy bay tuần thám AP-3C Orion của Australia được ghi nhận là đang thực hiện quyền tự do hàng hải trên vùng biển của quần đảo Trường Sa. Vụ việc được phóng viên BBC là Wingfield-Hayes tường thuật khi ông cũng đang tiến hành một chuyến bay qua các đảo nhân tạo do Trung Quốc xây dựng. 
Đáng chú ý hơn, Canberra chưa bao giờ tuyên bố chính thức về các nhiệm vụ đảm bảo quyền tự do hàng hải (FONOPs) của mình tại Biển Đông. Trong khi đó, Mỹ tuyên bố sẽ không tiến hành các hoạt động FONOPS nào nữa trong năm 2015, nhưng sẽ bắt đầu lại vào tháng 1 năm 2016.
http://viettimes.vn/quoc-phong/vu-khi-cong-nghe/ham-doi-tau-ngam-trung-quoc-co-nang-luc-de-doa-cac-tau-san-bay-my-29616.html

Tại sao Trung Quốc 'hãi' cụm tác chiến tàu sân bay Mỹ


Cụm tàu sân bay xung kích thực sự là một tập đoàn quân viễn chinh, lực lượng răn đe và kiềm chế chiến lược của Mỹ trên sóng nước đại dương khắp toàn cầu.

Hạm đội và lực lượng không quân hùng hậu của Mỹ luôn thường trực ở châu ÁHạm đội và lực lượng không quân hùng hậu của Mỹ luôn thường trực ở châu Á
Trong khu vực chống ngầm tầm xa bảo vệ CVBG, tìm kiếm và truy quét tàu ngầm được tiến hành bởi các đài trinh sát thủy siêu âm và các phương tiện trinh sát khác. Cũng như các khí tài của các đài thuộc hệ thống SOSUS, máy bay, tàu ngầm, chiến hạm nổi do các đài trinh sát tìm kiếm tàu ngầm, ở dưới nước sonar và các thiết bị trinh sát thủy âm của các tàu ngầm đối phương có tầm hoạt động hơn hẳn các khí tài tìm kiếm, do đó, các tàu ngầm có thể phát hiện ra các phương tiện trinh sát tìm kiếm nó. Từ đó, có thể lẩn tránh lực lượng truy quét chống ngầm và bất ngờ tấn công mục tiêu đang được bảo vệ.
Chính vì vậy, lực lượng chống ngầm tầm xa sử dụng các trang thiết bị truy tìm thủy siêu âm và các đài sonar hoạt động ở chế độ chủ động chỉ có thể sau khi phát hiện sớm sự có mặt của tàu ngầm bằng các thiết bị thụ động nhằm xác định chủng loại tàu ngầm và vị trí của tàu ngầm, thường là khi tàu ngầm đang chuẩn bị tấn công.
Chống ngầm tầm xa cho CVBG được thực hiện bởi máy bay tuần biển Р-3С "Orion". Các máy bay tuần biển này hoạt động trong biên chế của lực lượng chống ngầm tầm xa. Máy bay tuần biển chống ngầm Р-3С "Orion" thực hiện nhiệm vụ chống ngầm không chỉ phòng thủ cho AIG, phụ thuộc vào khối lượng thông tin về vị trí có thể có tàu ngầm, sẽ tiến hành chủ động tìm kiếm tàu ngầm ở khu vực tập kết chuẩn bị tiến công, trong khu vực định trước, ở khu vực xuất phát, tiến hành các hoạt động tìm kiếm ngăn chặn và theo dõi tàu ngầm. Với biên chế vũ khí trang bị, P-3 Rion có thể tiến hành các cuộc tấn công tiêu diệt tàu ngầm trong điều kiện cần thiết.
Chống ngầm tầm trung và tầm gần
Trong giới hạn 100 hải lý (185 км) tính từ CVBG tìm kiếm, cảnh giới chống ngầm được thực hiện bởi máy bay chống ngầm S-3A "Viking" Khi tổ chức tuần tra cảnh giới chống ngầm, các máy bay Viking có kế hoạch bay tuần tiễu chính xác cả về thời gian và đường bay. Quỹ đạo đường bay được xác định bằng sơ đồ sao cho các máy bay chống ngầm có được khả năng nhiều lần bay gần với nhóm tàu cảnh giới của CVBG, có nghĩa là đường bay theo hình số 8 tính từ trung tâm của CVBG về hướng có nhiều khả năng xuất hiện tàu ngầm (theo hướng tiến và hai bên sườn), giãn cách mỗi lần tiếp cận gần nhóm tàu cảnh giới không lớn hơn 2 giờ bay, mà hiệu quả nhất là một giờ bay. Quỹ đạo đường bay mỗi máy bay được thực hiện trong giới hạn không gian tuần tiễu của mình và không được có quá nhiều đường bay cắt ngang.
Máy bay chống ngầm S-3 Viking.
Thời gian tuần tiễu liên tục của một phi đội máy bay chống ngầm Viking khoảng từ 5 -6 giờ bay. Phướng án chiến thuật sử dụng máy bay chống ngầm viking tương tự như máy bay chống ngầm tuần biển Р-3С "Оrion" với những tính toán về tính năng kỹ chiến thuật thấp hơn Orion.
Trong giai đoạn ngày nay, để thực hiện nhiệm vụ chống ngầm hiệu quả, các cụm tàu sân bay xung kích chủ lực sử dụng các tàu ngầm nguyên tử, các tàu này có được vận tốc cơ động cao, đồng thời giữ được bí mật khi cơ động, được trang bị các đài sonar thủy âm hiện đại và có thể giữ được thông tin liên lạc rất ổn định so với tàu nổi. Cơ động dưới nước với một khoảng cách xác định đối với nhóm tàu cảnh giới, giữ liên lạc thủy âm với các tàu nổi, tàu ngầm nguyên tử có khả năng tìm kiếm và tiêu diệt tàu ngầm đối phương hiệu quả nhất.
Căn cứ vào những điều kiện tối ưu cho hoạt động của thiết bị sonar chủ động, đặc điểm lan truyền thủy âm trong mỗi vùng nước, các chuyên gia tính toán tốc độ truyền âm ở các tầng nước khác nhau, đường truyền của các tia siêu âm, nhiệt độ của từng lớp nước để tính khoảng cách hoạt động của tàu ngầm nguyên tử trong nhiệm vụ chống ngầm. Các tàu ngầm nguyên tử, theo tính toán của các chuyên gia quân sự Mỹ, sẽ cơ động trên khoảng cách từ 40 – 90 hải lý (75 – 165 km) so với trung tâm của CVBG.
Vũ khí chống ngầm chủ yếu của cụm lực lượng chống ngầm là tên lửa – ngư lôi SABROK và ngư lôi có đầu đạn tự dẫn có điều khiển, bộ phận kích nổ phi tiếp xúc.
Phương tiện truy quét và tìm kiếm, chống ngầm hiệu quả tầm gần là trực thăng chống ngầm MH-60HK «Seahawk". Trực thăng chống ngầm được bay thành các phi đội 2 chiếc theo kế hoạch bay tuần tiễu và thả phao sonar thủy âm trong vùng truy quét tàu ngầm. Thời gian bay treo của phi đội thường là từ 1 – 2 phút, hành lang cảnh giới và tìm kiếm là 10 hải lý, mỗi đội bay sẽ tìm kiếm trong khoảng thời gian từ 1 giờ - 2 giờ.
Tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm lớp Los Angeles.
 Tập đoàn quân viễn chinh trên đại dương
Theo điều lệnh tác chiến của Hải quân Mỹ, CVBG có trong biên chế các lực lượng và phương tiện chiến đấu:
Tàu sân bay lớp "Nimitz" (hoặc "Enterprise"), được biên chế từ 60 – 80 máy bay các loại, tàu sân bay được biên chế trong lực lượng Không quân Hải quân. Chỉ huy tàu sân bay là sĩ quan Không quân Hải quân, thuyền trưởng hạng 1. (U.S. Naval aviation Captain).
Hải đoàn tuần dương tên lửa lớp "Ticonderoga" bao gồm hai tuần dương hạm có nhiệm vụ chủ yếu là phòng không và tấn công tên lửa. Theo biên chế chính thứ, hải đoàn được trang bị các tổ hợp tên lửa đánh chặn và tên lửa hành trình Tomahawk. Tất cả các tuần dương hạm lớp “Ticonderoga” đều được biên chế hệ thống trinh sát, điều khiển hỏa lực súng phòng không và tên lửa Aegis. Chỉ huy tàu tuần dương là sĩ quan hải quân Mỹ, thuyền trưởng hạng 1 (U.S. Navy Captain).
Hải đoàn các tàu khu trục tên lửa thuộc quyền chỉ huy của một sĩ quan hải quân Mỹ, thuyền trưởng hạng 1 , biên chế có thể lên đến 3 – 4 tàu khu trục tên lửa lớp "Arleigh Burke", tàu được trang bị bom chìm và ngư lôi chống ngầm, một số tàu khu trục có thể được biên chế tên lửa hành trình Tomahawk. Hải đoàn khu trục hạm có nhiệm vụ chủ yếu là chống ngầm, đồng thời trong hiệp đồng chiến đấu với tuần dương tên lửa có nhiệm vụ phòng không tầm gần. Thuyền trưởng khu trục hạm là sĩ quan Hải quân Mỹ, thuyền trưởng hạng II, (U.S. Navy Сommander).
Trực thăng chống ngầm và tác chiến ven bờ MH-60HK «Seahawk".
 Hải đoàn tàu ngầm nguyên tử bao gồm có từ 1 đến 2 tàu ngầm nguyên tử lớp Los Angeles, các tàu ngầm đa nhiệm này được biên chế ngư lôi chống ngầm, chống tàu và tên lửa hành trình Tomahawk, tàu ngầm lớp Los Angeles có khả năng chống ngầm rất cao, được biên chế trong cụm tàu liên hợp chống ngầm và có thể độc lập tác chiến, tấn công các mục tiêu trên biển (các chiến hạm đối phương) và các mục tiêu công trình quân sự ven biển.
Hải đoàn hậu cần kỹ thuật: được biên chế từ một đến hai tàu lớp "Seplay" vận chuyển tên lửa, vũ khí đạn và cơ sở vật chất, hải đoàn còn được biên chế tàu chở dầu và các tàu phụ trợ khác theo nhu cầu thực tế của chiến trường.
Trung đoàn không quân Hải quân trên tàu sân bay, chỉ huy trưởng là sĩ quan không quân hải quân hạng 1.
Lữ đoàn lính thủy đánh bộ, được biên chế vào CVBG , lữ đoàn trưởng cấp hàm đại tá lính thủy đánh bộ. (USMC Сolonel).
Trung đoàn không quân được biên chế thành 4 tiểu đoàn không quân tiêm kích (48 máy bay tiêm kích – cường kích đa nhiệm F/A-18 «Hornet" và F/A-18E/F «Super Hornet") tiểu đoàn máy bay tác chiến điện tử được trang bị các loại vũ khí, khí tài chế áp lực lượng phòng không đối phương, có 8 loại máy bay EA-18G «Growler", tiểu đoàn trinh sát điện tử, điều hành tác chiến được biên chế 4 máy bay trinh sát điện tử AWACS (ở một số trung đoàn được biên chế đến 5 máy bay) loại E-2C «Hawkeye".
Phi đoàn máy bay không vận được biên chế 2 máy bay loại C-2 «Greyhound", thực hiện các nhiệm vụ vận tải quân sự trên boong. Tiểu đoàn trực thăng chống ngầm, được biên chế đến 10 máy bay trực thăng chống ngầm loại MH-60HK «Seahawk". Cất hạ cánh trên boong tàu sân bay và trên boong các tàu tuần dương, khu trục.
Máy bay tàng hình không người lái X-47B đã được Mỹ thử nghiệm thành công trên tàu sân bay. Với sự xuất hiện của các thế hệ UAV tối tân, cụm tàu sân bay xung kích sẽ tăng thêm uy lực gấp nhiều lần, đồng thời giảm nguy cơ rủi ro về con người.
Căn cứ vào biên chế tổ chức lực lượng và phương tiện, vũ khí khí tài, có thể nhận thấy cụm tàu sân bay xung kích trên thực tế có thể coi như là một Tập đoàn quân viễn chinh trên đại dương, tập đoàn này có đầy đủ cơ số vũ khí trang bị hoàn toàn có khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh khu vực nhỏ (vùng châu Phi, châu Á) đối với các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển.
Ở cấp độ giải quyết các nhiệm vụ chiến lược khởi đầu cho một cuộc chiến tranh cục bộ, CVBG có khả năng duy trì cường độ tác chiến cao trong thời gian 10 ngày với tần suất không kích hàng trăm đợt mỗi ngày bằng máy bay chiến đấu, tên lửa hành trình.
Cụm CVAG có thể thực hiện các nhiệm vụ như can thiệp vũ trang vào một cuộc xung đột có giới hạn ( Sebia, Libya), đánh chiếm hải đảo, tiêu diệt lực lượng không quân – hải quân đối phương, đổ bộ đường biển và chống ngầm trên vùng nước lớn. Tập đoàn quân CVBG thực sự là một lực lượng răn đe và kiềm chế chiến lược của Mỹ trên sóng nước đại dương khắp toàn cầu.
http://viettimes.vn/quoc-phong/quan-doi/tai-sao-trung-quoc-hai-cum-tac-chien-tau-san-bay-my-44666.html

Tên lửa diệt hạm Việt Nam có thể “càn quét” hầu hết Biển Đông


Tổ hợp tên lửa chiến dịch-chiến thuật chống tàu bờ biển thế hệ thứ hai "Redut" với uy lực lượng nổ lớn hoặc sử dụng đầu đạn hạt nhân, một tên lửa có thể diệt gọn một tàu chiến thuộc bất cứ lớp tàu nào.
Tên lửa diệt hạm Việt Nam có thể “càn quét” hầu hết Biển Đông
Tên lửa Shaddock được phát triển dưới sự chỉ đạo của Trung tướng V.M. Chelomeya tại Trung tâm thiết kế và thử nghiệm OKB-52 theo Nghị định của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô № 903-378 ngày 16/8/1960 trên cơ sở của tên lửa chống hạm cấp chiến dịch – chiến thuật R-35.
Tổ hợp được thiết kế nhằm tiêu diệt tất cả các loại chiến hạm nổi. Tổ hợp tên lửa bờ biển nhận được mã hiệu P-35B. Khối quân sự NATO đặt mã hiệu là SS-N-3 "Shaddock".
Tổ hợp tên lửa Shaddock từ lâu đã nằm trong trang bị của quân chủng hải quân Việt Nam. Đã có thông tin về việc Việt Nam tiến hành cải tiến, nâng tầm bắn tên lửa Shaddock lên tới 900 km, tầm tiến công có thể bao phủ hầu hết diện tích Biển Đông.
Tổ hợp tên lửa được lắp đặt ra trên khung gầm thân xe cơ bản bốn cầu ZIL-135K (sau khi chuyển giao sản xuất hàng loạt thân xe cho nhà máy Bryansk – được mang mã hiệu là: BAZ-135MB). Nhà phát triển chính của hệ thống điều khiển tổ hợp "Redut" là trung tâm nghiên cứu và thử nghiệm NII-10 (Viện Nghiên cứu "Altair"). Động cơ phản lực của tên lửa được phát triển bởi Trung tâm thiết kế và thử nghiệm OKB-300.
Tên lửa chống tầu Redut.
Các thử nghiệm tổ hợp tên lửa F-35B được tiến hành vào mùa thu năm 1963. Theo Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô viết № 631-202 vào ngày 11/8/1966. Tổ hợp tên lửa "Redut" được biên chế vào lực lượng vũ trang Liên xô. Trung đoàn tên lửa phòng thủ độc lập số 10 thuộc lực lượng hải quân vùng Baltic được tiếp nhận các tổ hợp tên lửa "Redut" vào năm 1972. Trung đoàn được biên chế lại và hình thành tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển độc lập tăng cường số 1216 (OBRD).
Ngày 01/11/1974 Tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển số 1216 đã được tăng cường biên chế thành trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển (OBRP) số 844. Trong Hạm đội Biển Bắc, trung đoàn tên lửa bờ biển độc lập số 501, đóng quân trên bán đảo Rybachiy đã được biên chế chuyển loại tên lửa "Redut" trong 1971-1974.
Ngày 16/7/1961 Hội đồng Bộ trưởng Liên bang Xô Viết đã ban hành nghị định để tái cơ cấu lực lượng phòng thủ bờ biển các tổ hợp tên lửa cố định “Utes” sử dụng tên lửa “Sopka” được thay thế hoàn toàn bằng các tổ hợp tên lửa P-35B. Lần phóng tên lửa P-35B đầu tiên của trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển số 362 (OBRP) được thực hiện vào ngày 30/5/1971.
Chính thức, hai tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển tại Balaklava được trang bị tên lửa P-35B, theo Nghị quyết của hội đồng bộ trưởng Liên bang ngày 28/4/1973. Hiện nay hai tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển này tại Balaklava được chuyển cho Ukraine, có thông tin cho rằng, để đáp ứng yêu cầu của Mỹ, các tên lửa Redut đã bị phá hủy. Trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển trên đảo Kil'din được nhận tên lửa Redut thành hai giai đoạn: giai đoạn đầu tiên chuyển loại tên lửa P-35B vào năm 1976, và giai đoạn thứ hai - năm 1983.
Trung đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển, được trang bị tên lửa Redut thuộc Hạm đội Biển Đen đã nhiều lần cơ động di chuyển từ Crimea đến Bulgaria bằng chính các phương tiện được biên chế. Ở Bulgaria, trung đoàn chiếm lĩnh vị trí mà từ đó có thể quản lý toàn bộ vùng Dardanelles và biển Aegean.
Năm 1974, trên cơ sở của tổ hợp P-35 các viện nghiên cứu và trung tâm thiết kế thử nghiệm đã phát triển tổ hợp 3M44 "Progress". Sự thay đổi chính trong tên lửa là hệ thống dẫn đường và chỉ thị mục tiêu trên tên lửa được nâng cấp và tăng cường khả năng chống nhiễu cũng như chọn lọc hình ảnh. Các nhà sản xuất đã phát triển hệ thống mạng điện tử trên tên lửa hoàn toàn mới và động cơ phóng tên lửa mới, nâng cao hiệu suất phóng đạn. Tăng cường khả năng tấn công bí mật bất ngờ và khó bị bắn hạ bằng lực lượng phòng không đối phương được thực hiện bằng giải pháp kéo dài đường bay giai đoạn cuối của tên lửa ở độ cao thấp so với mặt nước biển.
Tổ hợp "Progress", so với P-35, đã áp dụng các giải pháp kỹ thuật mới như sau:
Lắp đặt đài radar tự tìm mục tiêu trên tên lửa có khả năng chống nhiễu cao;
Lắp đặt hệ thống tự động chuyển chế độ tự tìm kiếm mục tiêu và lựa chọn mục tiêu trong trường hợp mất thông tin liên lạc từ đài chỉ huy phóng tên lửa;
Giảm độ cao quỹ đạo bay của tên lửa ở giai đoạn cuối từ 100-120 m xuống đến 20-40 m;
Tăng chiều dài của giai đoạn cuối cùng từ 20 km đến 50 km;
Đưa vào đầu đạn tên lửa bộ phận logic tự lựa chọn mục tiêu;
Tăng cường số lượng tên lửa trong một loạt phóng đạn đến 16 tên lửa khi bắn với nhiều phương tiện mang (xe phóng tên lửa, tàu phóng tên lửa).
Sau những thử nghiệm cấp nhà nước trong năm 1976-1977 Tổ hợp "Progress" đã được đề xuất lắp đặt trên các tàu thuộc dự án 58 và 1134, cũng như các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển "Redut" và "Utes". Chính thức, tên lửa "Progress" đã được đưa vào biên chế từ năm 1982. Sản xuất tên lửa cho các tổ hợp tên lửa phòng thủ bờ biển được tiến hành trong những năm từ 1982-1987.
Trên các phiên bản Redut xuất khẩu ra nước ngoài hoặc được cấp giấy phép sản xuất chưa được biết có được xuất khẩu hoặc cung cấp giấy phép sản xuất hay không?. Khả năng xuất khẩu tên lửa Progress có lẽ rất hạn chế, và giấy phép sản xuất nó không thể được chuyển giao cho bất cứ nước nào.
Bộ Quốc phòng Mỹ đặt mã hiệu cho tên lửa này là - SSC-1B (Surface-to-Surface Cruise Type 1 Lớp thứ hai), mã hiệu của NATO - Sepal.
Toàn bộ tổ hợp tác chiến bao gồm:
Xe phóng tên lửa tự hành SPU-35B (STC-35B) 
Tên lửa chống tầu P-35B (3M44)
Xe chỉ huy lắp hệ thống điều khiển bắn "Skala" (4R45) và radar.
Tên lửa P- 35 có thể thu nhận thông tin chỉ thị mục tiêu từ các máy bay tác chiến trên biển như TU-95D, TU-16D, trực thăng Ka-25C (radar "Uspeh")
Biên chế tổ chức phóng trong một khẩu đội tên lửa có ba xe tự hành phóng tên lửa, 5-6 khẩu đội (15-18 xe tự hành phóng tên lửa) hình thành tiểu đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển, 3 tiểu đoàn cùng với các lực lượng và phương tiện đảm bảo công tác tham mưu, kỹ thuật, hậu cần được biên chế thành lữ đoàn tên lửa phòng thủ bờ biển (45 - 54 xe phóng tên lửa tự hành).
Theo các thông số tên lửa biên chế cho các hạm đội năm 1988 :
Hạm đội Baltic - 6 tiểu đoàn
Hạm đội Biển Đen - 5 tiểu đoàn
Hạm đội Biển Bắc - Tiểu đoàn 3
Hạm đội Thái Bình Dương - 5 tiểu đoàn
Triển khai sẵn sàng chiến đấu của tổ hợp tên lửa P-35 Redut
Hoạt động của tổ hợp tên lửa Redut P-35.
Tên lửa được đưa vào ống phóng dạng container trên xe phóng đạn tự hành đồng thời các công tác chuẩn bị khí tài tác chiến được thực hiện tại khu kỹ thuật. Thời gian chuyển trạng thái từ hành quân cơ động sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu khoảng 1,5 giờ. Các xe phóng tên lửa tự hành và các xe chỉ huy, tham mưu điều hành tác chiến, trinh sát mục tiêu đồng thời tiến vào chiếm lĩnh tuyến bắn trong trận địa phòng thủ bờ biển. Xe phóng tên lửa khi đã chiếm lĩnh trận địa nâng ống phóng đạn (container) vào góc phóng – 20o.
Đài radar trinh sát lữ đoàn rà quét phát hiện mục tiêu, xác định tọa độ mục tiêu và truyền thông số tọa độ mục tiêu xuống xe chỉ huy tiểu đoàn, trạm radar chỉ huy cấp tiểu đoàn theo dõi và bám mục tiêu, xác định mục tiêu ( địch – ta) bằng thiết bị nhận biết địch – ta. Khi đã xác định mục tiêu địch cần tiêu diệt. Hệ thống điều hành tác chiến lựa chọn xe phóng đạn và phóng tên lửa.
Phóng tên lửa.
Khi phóng tên lửa P-35, động cơ turbin phản lực hành trình được khởi động, tên lửa được phóng ra khỏi ống phóng nhờ lực đẩy của động cơ tăng tốc phản lực sử dụng nhiên liệu rắn. Sau khi được phóng ra khỏi ống phóng (container), tên lửa mở cánh ổn định. Nhờ lực đẩy của động cơ phản lực tăng tốc, tên lửa P-35 lấy độ cao và tốc độ hành trình. Sau khi động cơ tên lửa đốt cháy hết nhiên liệu, tên lửa sẽ cắt các động cơ tăng tốc đồng thời sử dụng chủ yếu là động cơ turbin phản lực. Tên lửa hạ độ cao xuống độ cao hành trình. Hệ thống đạo hàng quán tính sẽ điều khiển tên lửa giữ tốc độ, độ cao và hướng bay tên lửa.
Khi tên lửa bay đến khu vực mục tiêu, đầu dẫn tên lửa bật radar quang ảnh chủ động, phát hiện mục tiêu, tên lửa chụp ảnh mục tiêu và gửi ảnh mục tiêu lên màn hình của trắc thủ tên lửa. Trắc thủ xác định mục tiêu cần tiêu diệt, đầu dẫn tự động của tên lửa khóa mục tiêu và dẫn đường tên lửa tấn công tiêu diệt. Đầu đạn tên lửa P-35 được lắp đặt khối thuốc nổ phá lớn, bộ phận gây nổ kích nổ khối thuốc nổ mạnh phá hủy mục tiêu khi tên lửa lao vào và va chạm vào mục tiêu.
Điểm mạnh của tên lửa P-35 Redut
Tên lửa chống tàu Redut có đầu đạn mang khối thuốc nổ ủy lực rất lớn, tên lửa cơ động với tốc độ rất cao (tốc độ siêu âm), điều đó làm tăng khả năng đột phá tuyến phòng không của đối phương, tăng xác suất tiêu diệt mục tiêu, bằng một đạn hoặc bằng nhiều đạn cùng phóng từ nhiều bệ phóng (trường hợp tầu đối phương có hỏa lực phòng không rất mạnh).
Dù được chế tạo đã lâu và đã ngừng sản xuất, nhưng các tổ hợp tên lửa nâng cấp 3M44 “Progress” với các tính năng kỹ chiến thuật mạnh mẽ vẫn được sử dụng trong lực lượng hải quân Liên bang Nga. Nhờ có tầm tác chiến rất xa nên một khẩu đội tên lửa Redut dưới sự hỗ trợ thông tin mục tiêu từ các cấp có khả năng phòng thủ hàng trăm km bờ biển. Uy lực lượng nổ lớn hoặc sử dụng đầu đạn hạt nhân, một tên lửa có thể tiêu diệt một tầu chiến thuộc bất cứ lớp tàu nào.
Sức công phá dữ dội của tên lửa P-35 Redut trên mạn tầu mục tiêu.
Nhược điểm:
Tên lửa đã quá thời hạn sử dụng lâu, có khối lượng và kích thước quá lớn, chính vì vậy nên các xe phóng tên lửa chỉ mang được một đạn. Xe phóng tên lửa hoàn toàn thụ động, do đó không có khả năng tự phát hiện mục tiêu và tiêu diệt mục tiêu. Thời gian triển khai sẵn sàng chiến đấu quá lớn. Tầm bay xa của tên lửa cũng gây những khó khăn nhất định trong chỉ thị mục tiêu.
Tính năng kỹ chiến thuật tổ hợp tên lửa.
Tên lửa
Tầm bắn, km
25 - 270 - 460
Tầm bay hành trình của tên lửa, m
400 / 4000 / 7000
Trần bay tên lửa giai đoạn cuối, m
100
Tốc độ bay hành trình của tên lửa, chỉ số М
1,5
Góc tìm kiếm xác định mục tiêu, độ
80
Thời gian triển khai chiến đấu khi hành tiến, phút.
trên 30 phút.
Kích thước tên lửa, m:
- chiều dài
9,45 (9,75; 9,88; 10)
- sải cánh
2,6
- chiều rộng tên lửa khi gập cánh
1,544
- đường kính tên lửa max
1,0
- chiều cao tên lửa
1,5
Khối lượng tên lửa rỗng, kg
2330
Khối lượng cất cánh , kg.
4 500
Đầu đạn
Nổ phá hoặc hạt nhân
Khối lượng thuốc nổ, kg
~ 1000
Đương lượng nổ hạt nhân, kТ
350
Phương pháp phóng
Phóng góc nghiêng, góc phóng 20o
Các bộ phận điều khiển bay
Cánh cản khí động học
Hệ thống dẫn đường bay tên lửa
Đạo hàng quán tính + radar quang học chủ động.
Đông cơ hành trình
Тurbin phản lực
Nhiên liệu
Dầu hỏa
Động cơ phóng phản lực
Hai động cơ tên lửa phản lực nhiên liệu rắn
Lực đẩy, kgf
2 х 30 000
Thời gian động cơ phóng phản lực, s
2
Xe phóng tên lửa tự hành
Loại
Tự hành bánh hơi
Khung gầm cầu xe
8 х 8
Chủng loại xe
ZIL-135K (BAZ-135MB)
Trọng lượng xe phóng tên lửa, kg
21 000 (không có tên lửa. 18 000)
Kích thước toàn xe khi hành quân, m:
- chiều dài
13,5 (11,5)
- chiều rộng
2,86 (2,8)
- chiều cao
3,53 (3,0)
Tốc độ hành trình trên đường, km/h
40
Dự trữ hành trình, km
500
Kíp trắc thủ, người.
5
Thiết kế của Redut (4K44) cho thấy, tên lửa mặc dù có những khiếm khuyết nhất định, nhưng khả năng nâng cấp, cải tiến rất lớn. Các hướng nâng cấp, tăng cường khả năng tác chiến của tên lửa Redut là:
- Là tên lửa hành trình có tầm bắn xa, có thể nâng cấp trang bị hệ thống điểu khiển bay, dẫn đường và chỉ thị mục tiêu của tên lửa theo hướng tự động hóa, đồng bộ hóa đồng thời lập trình hóa nhiều tên lửa tấn công cho một mục tiêu. Hoặc một tên lửa có thể tự động lựa chọn tấn công mục tiêu khi mất liên lạc với đài chỉ huy theo nhiệm vụ được giao
- Tác chiến liên kết phối hợp giữa các loại tên lửa khác nhau trên các phương tiện mang khác nhau dựa trên cơ sở đồng bộ điều hành tác chiến C4IRS.
- Tăng khả năng cơ động của tên lửa theo hướng 2 tên lửa có thể bay theo hai quỹ đạo khác nhau, đặc biệt là giai đoạn cuối theo phương pháp ngẫu nhiên, trần bay thấp từ 20 m – 40 m so với mặt nước biển.
- Ứng dụng công nghệ stealth (sơn phủ tên lửa bằng các lớp sơn chống bức xạ radar, tránh khả năng phát hiện sớm tên lửa) công nghệ sơn này đã nghiên cứu thành công tại Việt Nam.
Những cải tiến, nâng cấp tên lửa Redut hoàn toàn nằm trong khả năng của các nước đang có P-35 trong biên chế, như Việt Nam. Do quá trình nâng cao hiệu suất tác chiến của tên lửa hoàn toàn không phụ thuộc vào phần cứng (động cơ, cấu hình) mà chỉ thay đổi các trang thiết bị điều khiển học, các thiết bị điện tử, máy tính trên đầu tự dẫn và hệ thống truyền thông.

http://viettimes.vn/quoc-phong/vu-khi-cong-nghe/ten-lua-diet-ham-viet-nam-co-the-can-quet-hau-het-bien-dong-47330.html