Các chuyên gia T.X. Hammes và Sean Mirski cho rằng trong những trường hợp thích hợp, đặc biệt là một cuộc chiến tranh hạn chế trong thời gian dài giữa Mỹ và Trung Quốc, việc phong tỏa là một chiến lược có thể giúp giành được chiến thắng trong cuộc chiến.
Đầu năm 2013, một tàu khu trục của Trung Quốc đã khóa radar xác định mục tiêu vào một tàu khu trục của Nhật Bản ở gần quần đảo Senkaku. Cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo không người sinh sống ở gần Okinawa và Đài Loan này. Đây chỉ là một trong nhiều vụ tranh chấp lãnh thổ mà Trung Quốc có dính dáng tới ở Biển Đông và Hoa Đông.
Tuy nhiên rất may không có sự leo thang căng thẳng nào ở trường hợp lần này: Tàu khu trục của Nhật Bản đã không đáp trả. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu những điều này diễn biến khác đi vào lần tới? Thật không khó để tưởng tượng ra một viễn cảnh vượt ra khỏi tầm kiểm soát và dẫn tới một cuộc chiến tranh. Liệu Mỹ sẽ làm gì nếu một cuộc chiến tranh khu vực diễn ra trên diện rộng?
Trong trường hợp này và nhiều viễn cảnh khác xảy ra, Mỹ buộc phải bảo vệ các đồng minh của mình. Một biện pháp mà nước này có thể sẽ thực hiện là phong tỏa các tuyến giao thông hàng hải của Trung Quốc bằng lực lượng Mỹ với sự hỗ trợ công khai từ các nước khác, những nước kiểm soát các eo biển quốc tế quan trọng, trong đó có Indonesia và Malaysia. Cho dù có thể là tốn kém và nguy hiểm, việc phong tỏa có thể mang tính quyết định. Các chuyên gia T.X. Hammes và Sean Mirski cho rằng trong những trường hợp thích hợp, đặc biệt là một cuộc chiến tranh hạn chế trong thời gian dài, việc phong tỏa là một chiến lược có thể giành được chiến thắng trong chiến tranh.
Tuy nhiên, việc phong tỏa đồng thời cũng sẽ có những cạm bẫy. Sẽ rất mất thời gian để thực hiện việc này. Cũng cần phải cân bằng việc ngăn chặn lượng dầu mỏ nhập khẩu từ Trung Quốc với việc xuất khẩu hàng hóa. Và một quốc gia ban bố lệnh phong tỏa cũng sẽ cần phải cân nhắc xem làm thế nào để “cầm cương” để ngăn chặn Trung Quốc khỏi đạt được những mục tiêu của họ (trong ví dụ trên là đảm bảo kiểm soát vùng biển thuộc quần đảo Senkaku) trong khi duy trì hiệu lực lệnh phong tỏa.
Với những ưu và nhược điểm đó, các nhà hoạch định chính sách và các tư lệnh chiến trường phải hiểu làm cách nào để việc phong tỏa Trung Quốc thật sự có hiệu quả và các điều kiện cần thiết để có thể được thực hiện là gì.
Nên phong tỏa những lĩnh vực gì?
Khi cân nhắc lệnh phong tỏa, câu hỏi đầu tiên là: hàng hóa nào sẽ là mục tiêu của lệnh này? Một lựa chọn rõ ràng là tất cả mọi loại hàng hóa. NWP 1-14, Sổ tay của sĩ quan về Luật hoạt động Hải quân, nói rằng luật phong tỏa cho phép ngăn chặn mọi tàu thuyền và máy bay, kể cả hàng hóa đi qua khu vực được phong tỏa. Các lệnh phong tỏa khiến người dân chết đói là điều bất hợp pháp, nhưng trong trường hợp thích hợp thì có thể được áp dụng vì nguồn lương thực và năng lực y tế của Trung Quốc có thể phục vụ người dân kể cả khi bị phong tỏa.
Nhưng dù cho sự lựa chọn đó là hợp pháp thì nó cũng không nhất thiết là một sự lựa chọn khôn ngoan. Tất cả các lệnh phong tỏa, như chiến dịch tàu ngầm U-Boat của Đức nhằm chống lại Anh trong chiến tranh thế giới thứ hai, đều quá khó và tốn kém để thực hiện. SẼ hiệu quả hơn nếu nhằm vào một số mặt hàng cụ thể. Chẳng hạn như trong Thế chiến hai, Mỹ áp dụng cả chiến dịch trên không với châu Âu và chiến dịch dưới biển ở Thái Bình Dương để nhằm triệt phá hạ tầng dầu mỏ của Đức và Nhật Bản. Một chiến lược như vậy có thể sẽ phát huy tác dụng trong một cuộc xung đột kéo dài với Trung Quốc.
Thực tế, cũng giống như đối với các đế quốc Đức và Nhật Bản trước đây, dầu mỏ được coi là gót chân Asin của Trung Quốc. Sản xuất dầu mỏ nội địa của Trung Quốc chỉ đáo ứng được 40% nhu cầu tiêu thụ cho những mục đích hòa bình và lượng cầu về dầu tiếp tục gia tăng, kể cả trong những giai đoạn không tăng trưởng hoặc tăng trưởng âm về xuất khẩu ( như năm 2001 và 2009). Một lợi thế khác của việc phong tỏa nhằm vào dầu mỏ là làm giảm bớt sự phân biệt đối xử.
Tàu chở dầu là một loại tàu đặc thù, có thể làm giảm bớt gánh nặng của nước phong tỏa trong việc xác định và lựa chọn ưu tiên mục tiêu. Buôn lậu dầu với khối lượng lớn bằng những loại thuyền khác là điều không thể thực hiện được. Thêm nữa, Trung Quốc sẽ có một quãng thời gian khó khăn để có thể nhập khẩu đủ lượng dầu cho tất cả các khu vực vì những trở ngại địa hình, đường ống dẫn dầu chưa hoàn thiện cũng như cạnh tranh có được nguồn dầu mỏ Nga.
Tuy nhiên, Trung Quốc đã nhận ra sự lệ thuộc của nước này vào nguồn dầu bên ngoài và đang bắt đầu những bước đi đầu tiên để tự giảm thiểu sự tổn thương trước những sự gián đoạn nguồn cung dầu. Cụ thể, Trung Quốc đã bắt đầu tăng mạnh dự trữ dầu chiến lược. Lượng dầu dự trữ chiến lược của Trung Quốc năm 2011 có thể cung cấp đầy đủ cho sự tiêu thụ trong nước (chỉ với những hoạt động sản xuất trong nước) trong vòng 25 ngày. Những nâng cấp cho nguồn dự trữ này được dự tính sẽ có thể cung cấp trong khoảng thời gian dài gấp đôi vào năm 2020, kể cả với sự gia tăng nguồn cầu dầu của Trung Quốc.
Tác động của một cuộc chiến tranh lên nhu cầu về dầu mỏ của Trung Quốc cũng đáng để xem xét. Trung Quốc tiêu thụ dầu mỏ nhiều nhất. vào lĩnh vực vận tải, nên cứ cho rằng một cuộc chiến có thể làm giảm khối lượng xuất khẩu của Trung Quốc (nước này sẽ không tiếp tục giao thương với Mỹ và Nhật Bản nữa), nhu cầu về dầu mỏ để vận chuyển hàng hóa sẽ giảm xuống. Giao thông vận tải đường bộ làm giảm sự phụ thuộc của Trung Quốc vào dầu cho ngành hàng hải, cho dù nó chỉ đóng một lượng nhỏ trong tổng nhu cầu dâu mỏ của Trung Quốc. Một quốc gia tiến hành phong tỏa quốc gia khác cũng phải cảnh giác với việc bán lại nguồn dầu trung gian, loại dầu được phép đi qua khu vực phong tỏa. Do đó Mỹ cần kêu gọi một liên minh đủ mạnh để có thể bao vây Trung Quốc.
Tổng doanh thu 2.000 tỷ USD từ xuất khẩu của Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng một cách nặng nề bởi tuyên bố một lệnh phong tỏa như vậy (bên cạnh sự sụt giảm đột ngột về doanh thu từ việc các cảng của Mỹ đóng cửa với Trung Quốc). Sự sụt giảm đột ngột ngày có thể đem đến các chất xúc tác để chấm dứt thái độ thù địch, và nếu Trung Quốc dần chuyển sang nền kinh tế thời chiến thì tầng lớp trung lưu bất mãn với chế độ có thể bắt giới lãnh đạo Trung Quốc phải trả giá đắt, do đó sẽ giảm nguy cơ chiến tranh.
Nền kinh tế Trung Quốc vẫn chứng tỏ sự thích ứng với thời kỳ giảm lượng giao thương bằng việc thay thế xuất khẩu bằng kích thích và đầu tư trong nước. Nếu Trung Quốc quyết định rằng các mục tiêu chiến tranh xứng đáng với sự sụt giảm về xuất khẩu thì chủ nghĩa dân tộc được quản lí hiệu quả có thể là chiếc phao cứu sinh trong thời kỳ kinh tế khó khăn này. Khi những hứng thú với chiến tranh nhạt nhòa dần, sự kiểm soát kinh tế của chính phủ có thể là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong dài hạn (đầu tư vốn cố định đóng góp vào nền kinh tế Trung Quốc hơn xuất khẩu tới 75% và sự kích thích từ chính phủ có thể làm gia tăng hoạt động này).
Nhưng bởi vì sự chuyển dịch sang phát triển kinh tế nội địa vẫn cần có dầu mỏ, trọng tâm của một lệnh phong tỏa vẫn nên tập trung vào dầu mỏ trong khi vẫn ngăn chặn các mục tiêu khác khi có thể. Ngăn chặn một tàu chở container theo định kỳ khiến người ta tin vào tác động của lệnh phong tỏa xuất khẩu và làm khách hàng bỏ đi, trong khi nỗ lực chính lại tập trung vào tình hình thương lượng nguồn dầu của Trung Quốc. Chung quy, các thủy thủ tàu ngầm của Thế chiến thứ II vẫn nhấn chìm các tàu chở quân nhưng tàu chở dầu là thứ họ đánh chìm trước tiên.
Tầng thứ hai này của chiến lược phong tỏa sẽ bao gồm cả tàu ngầm, chiến tranh mìn và thủy lôi và các máy bay tầm xa mà sẽ tấn công nước bị phong tỏa khi di chuyển qua hoặc xung quanh những điểm huyết mạch và thâm nhập vào vùng miễn trừ hàng hải...
Chiến lược phong tỏa nên được tiến hành như thế nào?
Một chiến lược phong tỏa Trung Quốc lý tưởng cần sử dụng nhiều tầng nấc khác nhau, mỗi tầng lại có một mục đích khác. Những tầng nấc này phải bao gồm (1) một cuộc phong tỏa thông thường ở khoảng cách xa tập trung vào những điểm huyết mạch của tuyến liên lạc đường biển với Trung Quốc; (2) một khu vực tác chiến thông thường trên biển ở sát gần và (3) sự can thiệp ngoại giao nhằm cấm vận các cảng biển.
Phần quan trọng nhất của cuộc phong tỏa là tầng đầu tiên: việc kiểm soát các điểm huyết mạch sử dụng các lực lượng thông thường. Tâm điểm của cuộc phong tỏa này là Eo biển Malacca và những eo biển thuộc các quần đảo lân cận quanh Indonesia. Những khu vực này có sự bảo vệ của luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, theo đó chiến tranh sẽ không được phép diễn ra trên những vùng nước trung lập này. Theo đó, để việc phong tỏa hợp pháp, các quốc gia quanh khu vực eo biển Malacca phải ủng hộ sự bao vây một cách công khai, trực tiếp trở thành các bên tham chiến.
Trong khi việc không thể lôi kéo được sự hỗ trợ của Malaysia sẽ là một thách thức có thể vượt qua được, chỉ cần di dời cuộc bao vây ra xa 12 dặm khỏi vùng eo biển, ngoài vùng biển quốc tế, thì sự ủng hộ của Indonesia sẽ quyết định sự thành bại của cuộc phong tỏa này. Các tuyến đường biển quốc tế quanh quần đảo ( ít nhất là 4 tuyến cơ bản) cung cấp hành lang cho những nước thực thi chiến lược phong tỏa khai thác việc qua lại vô hại. Nếu không có sự ủng hộ từ Indonesia, chỉ Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc mới có thể cho phép tiếp cận đến các tuyến đường biển này, và quyền phủ quyết của Trung Quốc trong Liên hợp quốc sẽ không cho phép điều này xảy ra.
Kể cả khi đặt tính pháp lý sang một bên thì việc bao vây eo biển Malacca cũng hết sức phức tạp. Với khối lượng khổng lồ các phương tiện đi qua các điểm huyết mạch mà phần lớn liên quan đến các nước đồng minh với Mỹ và các nước trung lập, những việc thông thường như ghé thăm hoặc tìm kiếm cũng trở nên khó khăn. Khoảng 165 tàu bè các loại di chuyển qua eo biển Malacca mỗi ngày, trong đó có 52 tàu chở dầu. Nước bao vây cần điều tra mọi thuyền bè thích hợp, đánh giá xem liệu chúng có phải là của nước bị bao vây không và bắt giữ những tàu như vậy.
Cần ít nhất 13 tàu chiến để thực hiện việc phong tỏa các tàu chở dầu sử dụng những biện pháp truyền thống là ghé thăm và tìm kiếm. Con số này không bao gồm lực lượng bảo vệ, thay thế hỏng hóc hoặc thủy thủy đoàn chiến lợi phẩm. Những tàu bổ sung sẽ phải bảo vệ các đoạn khác như eo biển Lombok và Makassar. Tỉ lệ các chủ thuyền sợ rủi ro và muốn được đảm bảo gia tăng sẽ làm giảm số lượng các tàu chở dầu tới Trung Quốc. Tuy nhiên, những hạm đội tàu lớn của quốc gia và các tàu buôn do các thương gia Trung Quốc sở hữu vẫn sẽ đi thuyền ra khơi và lượng dự trữ tiền mặt khổng lồ của Trung Quốc có thể thay thế các công ty bảo hiểm bảo đảm cho các tàu này. Như vậy, chỉ huy việc triển khai phong tỏa sẽ vẫn cần huy động đơn vị quy mô lớn để thực hiện việc bao vây phong tỏa, do đó buộc phải chấp nhận chi phí cơ hội quá lớn.
Việc phong tỏa này có thể thực hiện được nếu các biện pháp được áp dụng khi vẫn còn hòa bình (sẽ chẳng còn lúc nào như thời điểm hiện nay nữa). Những ví dụ cụ thể gồm sự phát triển của thủ tục, các mối quan hệ và công nghệ nhằm thiết lập một hệ thống Navicert (giấy cấp phép cho các thuyền bè chở hàng hóa trung lập, thường được sử dụng trong chiến tranh, bởi nước tiến hành bao vây) phục vụ vận chuyển và thiết lập các đội Tuần tra, Thâm nhập, Tìm kiếm và Bắt giữ (VBSS), huy động nguồn từ lực lượng Cảnh sát biển và các lực lượng trên bộ. Chu trình Navicert là một thủ tục giao thông tại các cảng trước đây được sử dụng bởi quân đội Anh khi bao vây Đức, nó giúp cho việc kiểm tra phong tỏa trở nên hiệu quả hơn.
Việc kết hợp chu trình Navicert với hệ thống điện tử ví dụ như Hệ thống nhận diện tự động (một hệ thống dữ liệu tự động được cài đặt trên mọi tàu trọng tải trên 300 tấn có thể lưu trữ khối lượng thông tin lớn) sẽ làm gia tăng khả năng thành công. Một tư lệnh chỉ huy có thể sử dụng kết hợp cả các đội VBSS đóng trên đất liền được tăng cường các máy bay do thám, máy bay trực thăng và tàu cỡ nhỏ để hỗ trợ tàu chiến ở các điểm huyết mạch, cho phép tàu khu trục và các tàu tuần dương hỗ trợ. Những khả năng này sẽ khó có thể được cải thiện trong chiến tranh nên các khả năng và các mối quan hệ này nên được nuôi dưỡng từ bây giờ để tăng hiệu quả ngay khi bắt đầu chiến sự.
Những nỗ lực sẽ cố gắng biến thành một cuộc phong tỏa khép kín, sử dụng những thiết bị có thể tồn tại và chống lại môi trường chống tiếp cận (A2/AD), điều đó có nghĩa là những thứ giống như chiến lược tác chiến trên không-biển có thể vẫn được sử dụng trong khi phong tỏa để đạt được hiệu quả và mang tính khả thi. Chỉ huy lực lượng có thể phải tập trung vào Hong Kong, Thượng Hải và các trung tâm vận tải hàng hải lớn khác trong khi vẫn chuẩn bị để mở rộng đối phó với việc Trung Quốc thích ứng được.
Tầng thứ hai này của chiến lược phong tỏa sẽ bao gồm cả tàu ngầm, chiến tranh mìn và thủy lôi và các máy bay tầm xa mà sẽ tấn công nước bị phong tỏa khi di chuyển qua hoặc xung quanh những điểm huyết mạch và thâm nhập vào vùng miễn trừ hàng hải (MEZ) được liên minh xác lập. Vùng MEZ sẽ phải 100% bất khả xâm phạm, nhưng một khối lượng hàng hóa lưu thông vừa đủ cần phải bị đánh chìm để tạo hiệu ứng, răn đe những nước có nguy cơ cần phải bao vây. Những ý tưởng truyền thống về thiết lập, thông báo, hiệu quả, công bằng và hạn chế sẽ vẫn được sử dụng để cung cấp cơ sở pháp lí được quốc tế công nhận cho tầng thứ hai của cuộc bao vây.
Cấp độ phong tỏa thứ ba sẽ là những nỗ lực ngoại giao để ngăn chặn việc vận chuyển dầu ở phía nguồn cung, tập trung vào thuyết phục các quốc gia ủng hộ một lệnh cấm vận dầu mỏ đối với Trung Quốc. Trung Quốc nhập khẩu dầu mỏ chủ yếu từ Iraq, Ả Rập Xê út, Iran, Nga, Oman, Angola, Sudan và Kuwait. Trong khi rất nhiều những nhà cung cấp dầu cho Trung Quốc đều đối kháng với Mỹ thì những đồng minh của Mỹ như Ả Rập Xê út, nước cung cấp lượng dầu đáng kể cho Trung Quốc, có thể thuyết phục để ủng hộ lệnh phong tỏa này.
Bởi vì dầu là một loại hàng hóa, Mỹ sẽ phải tìm kiếm những sự ủng hộ ngoại giao để tìm kiếm các khách hàng thay thế Trung Quốc cho đồng minh của mình ( kể cả phải nhập khẩu dầu của Ả Rập vào kho dự trữ dầu chiến lược của Mỹ). Một khi vài nước cung cấp dầu mỏ cho Trung Quốc ngưng lại, các nhà cung cấp khác dù không ủng hộ lệnh cấm vận dầu mỏ đối với Trung Quốc cũng buộc phải thiết lập những cơ sở và hạ tầng mới nếu họ muốn cung cấp cho một nguồn cầu ngắn hạn mà đầy rủi ro này.
Các tuyến đường xuyên quốc gia và sự trả đũa của Trung Quốc
Trong khi cuộc phong tỏa trên biển mang lại khả năng thành công cao, thì Nga có thể quyết định hỗ trợ dầu khí cho Trung Quốc bằng các tuyến đường ống trên đất liền xuyên quốc gia. Tuy nhiên khả năng của Nga vẫn hạn chế vì nguồn cung của họ và các thị trường khác. Khoảng 78% khối lượng dầu xuất khẩu của Nga là dành cho thị trường châu Âu ổn định và lâu dài. Giảm bớt dầu vào các thị trường này hoặc đầu tư quá nhiều vào sản xuất để hỗ trợ cho lượng cầu tăng đột biến trong ngắn hạn từ phía Trung Quốc không mang lại lợi ích cao nhất đối với các nhà tài phiệt về dầu mỏ của Nga, kể cả khi hành động này có thể chọc tức Mỹ.
Việc phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường ống dẫn dầu và đường sắt để hỗ trợ dầu cho Trung Quốc là một việc làm đắt đỏ và rất tốn thời gian. Như vậy, Nga sẽ phải coi đầu tư là một phần của lợi ích quốc gia. Những tuyến đường xuyên quốc gia khác cũng phải được mở rộng qua những địa hình hiểm trở, các quốc gia không mấy thân thiện và sự phụ thuộc vào ngành vận tải biển làm giảm hiệu quả của các tuyến đường thay thế.
Trung Quốc sẽ gặp phải khó khăn nếu muốn thách thức lệnh phong tỏa bằng một cuộc hải chiến lớn hoặc vận chuyển có hộ tống vì chính khả năng hạn chế của nước này trong việc dự định kiểm soát những vùng biển khác ngoài lãnh hải nước này. Tuy nhiên, viên tư lệnh chỉ huy việc triển khai chiến dịch phong tỏa cũng vẫn phải xem xét phản ứng của Trung Quốc, đặc biệt là khả năng các hành động phi đối xứng.
Pháo đài bay B-52 của Mỹ đã vài lần bay qua không phận các đảo nhân tạo Trung Quốc xây dựng phi pháp ở Biển Đông
Giống như những hoạt động hàng hải khác, một cuộc phong tỏa sẽ phụ thuộc vào độ phủ sóng của vệ tinh liên lạc và trinh sát cũng như trao đổi dữ liệu để theo dõi những nước bị phong tỏa và triển khai chu trình Navicert. Việc này rất dễ bị tổn hại bởi những cuộc tấn công từ phía Trung Quốc với những vũ khí chống vệ tinh và không gian mạng. Những hành động này có thể không khiến cuộc bao vây thất bại nhưng chúng sẽ làm gia tăng đáng kể các lực lượng cần huy động và giảm khả năng ngăn chặn được những nước bị bao vây.
Trong khi tiến hành chiến lược phong tỏa, các lực lượng liên minh cũng phải ngăn cản Trung Quốc chiếm những vùng lãnh thổ đang tranh chấp từ các nước đồng minh như quần đảo Senkaku hay Đài Loan. Như đã nói, việc tiếp tục cuộc chiến sẽ đòi hỏi phải hoạt động trong vùng chống tiếp cận. Mỹ cũng phải chuẩn bị cho viễn cảnh Trung Quốc đạt được mục tiêu của mình một cách nanh chóng, chiếm giữ Senkaku và chấm dứt các hoạt động chiến đấu. Liệu rằng những dư luận chung và sự đồng thuận quốc tế có ủng hộ việc tẩy chay Trung Quốc sau khi nước này chiếm giữ các đảo nhỏ một cách nhanh chóng? Ở điểm này, một cuộc phong tỏa kéo dài sẽ được coi như là một lệnh trừng phạt thuần túy và những lợi ích kinh tế quốc tế và nội địa sẽ gây áp lực với Mỹ để phải rút lại lệnh phong tỏa.
Cuộc chiến không dễ dàng
Không có cách nào để có thể gây ra một cuộc chiến tranh dễ dàng với Trung Quốc. Những lợi thế địa lí, khả năng quân sự của Trung Quốc và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cùng chủ nghĩa dân túy sẽ khiến bất kỳ cuộc chiến tranh nào cũng tốn kém, bất kể có áp dụng chiến lược gì. Một chiến lược phong tỏa sẽ phủ nhận những điểm mạnh của Trung Quốc và chỉ tập trung vào những điểm yếu, nhưng Trung Quốc vẫn còn nhiều sự lựa chọn để theo đuổi chiến tranh và đạt được những mục tiêu của mình. Chiến dịch phong tỏa sẽ đòi hỏi nguồn lực quân sự đáng kể, thời gian và sự cam kết chung tay của các nước đồng minh.
Thêm vào đó, Mỹ không thể chỉ đơn giản ở ngoài khu vực chống tiếp cận của Trung Quốc và bao vây từ một khoảng cách an toàn. Nếu Trung Quốc chọn tiếp tục chiến tranh bất chấp những hệ quả kinh tế ban đầu, Mỹ sẽ phải thâm nhập vùng chống tiếp cận để thiết lập một vòng vây chặt chẽ, hiệu quả nhằm thách thức Trung Quốc ở những điểm quyết định để giữ chân đồng minh của Mỹ tiếp tục cuộc chiến.
Chiến lược tác chiến không-biển có thể là giải pháp cho vấn đề này hoặc một hướng khác cần được thiết lập, nhưng Mỹ vẫn cần hiểu cách thức để triển khai trong bất kỳ môi trường nào nếu như cần thiết giải pháp quân sự.
Vấn đề của việc phong tỏa ít nằm ở tính khả thi về mặt quân sự mà phần nhiều ở ý chí chính trị và sự hy sinh lợi ích kinh tế. Lợi ích của Mỹ có thể được củng cố bởi quan hệ ngoại giao và kinh tế với Trung Quốc. Tuy nhiên thời kỳ bất ổn và những xâm phạm lợi ích không thể điều hòa có thể vẫn làm bùng phát một cuộc chiến mà Mỹ cần có một chiến lược. Như vậy, Mỹ không nên coi nhẹ bất kỳ chiến lược nào, đặc biệt là phong tỏa.
* Tác giả Jason Glab từng phục vụ 11 năm với vai trò sĩ quan tàu ngầm hoạt động ở khu vực Tây Thái Bình Dương. Ông cũng từng phục vụ trong ngành phân tích hải quân thuộc Cơ quan tình báo quân sự và học tại Trường Hải chiến Mỹ.
http://viettimes.vn/dia-chinh-tri/my-muu-khuat-phuc-trung-quoc-bang-don-phong-toa-ii-68291.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét