RFA - 25/5/2020
Tham vọng lớn nhất của lãnh đạo Trung Quốc hiện nay là phải trở thành siêu cường, chi phối sự phát triển của toàn cầu. Để thực hiện tham vọng đó, Trung Quốc tìm cách mở rộng ảnh hưởng và sức mạnh của mình. Trong các chính sách để thực hiện tham vọng đó, Trung Quốc đang áp dụng chính sách vùng đệm.
Yếu tố địa lý đã góp phần định hình vị trí địa chính trị của Trung Quốc. Và dựa trên vị trí địa chính trị đó, đã hình thành các chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Trung Quốc có biên giới trên đất liền chung với 14 quốc gia, có biên giới biển giáp với 6 quốc gia, cùng với 3 vùng lãnh thổ đặc biệt là Hồng Công, Macao và Đài Loan. Rất nhiều khu vực biên giới này vẫn đang trong tình trạng tranh chấp. Một học giả chuyên về Trung Quốc là Michael D. Swaine, cho biết: Chính sách vùng đệm được Trung Quốc nhắc tới lần đầu trong Đại hội Đảng Trung Quốc lần thứ 16 năm 2002. Trong kỳ đại hội này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhấn mạnh chính sách đối ngoại: “Các cường quốc là then chốt; các quốc gia láng giềng là tối quan trọng; các quốc gia đang phát triển là nền tảng; chủ nghĩa đa phương là diễn đàn quan trọng”. Theo giải thích của một học giả Trung Quốc là Yuan Peng (lúc đó là Phó Chủ tịch Viện Quan hệ Quốc tế đương đại của Trung Quốc, viết tắt là CICIR, là một think-tank của cơ quan tình báo lớn nhất của Trung Quốc - Bộ An ninh Nội địa) thì vùng đệm của Trung Quốc có 3 vòng. Vòng trong cùng bao gồm 14 quốc gia có chung biên giới trên đất liền với Trung Quốc. Vòng thứ 2 là các quốc gia tuy không có biên giới chung với Trung Quốc, nhưng là những quốc gia biển nằm ở vị trí mở rộng từ vòng 1. Các quốc gia này trải dài từ Tây Thái Bình Dương cho tới Ấn Độ Dương, cùng với một số quốc gia Trung Á và Nga. Vòng thứ 3 là “vòng ngoại vi” bao gồm châu Phi, châu Âu và châu Mỹ.
Từ năm 2012, sau khi giữ vị trí Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã tiếp tục chính sách vùng đệm với các quốc gia cận biên. Ông ta chính thức đưa ra “chính sách ngoại giao vùng đệm” hay còn được gọi là “chính sách ngoại giao láng giềng,” vốn được coi là trọng tâm trong chiến lược đối ngoại của Trung Quốc từ năm 2013 đến nay.
...Như đã trình bày, Việt Nam là một trong 14 quốc gia có chung biên giới trên đất liền với Trung Quốc. Việt Nam cũng là quốc gia nằm trong khu vực biển Đông, nơi mà Trung Quốc đang muốn độc chiếm để tạo ảnh hưởng. Chính vì vậy, có thể nói Việt Nam là một quốc gia nằm ở “vùng lõi” trong chính sách vùng đệm của Bắc Kinh. Quan hệ Việt - Trung đã trải qua rất nhiều biến cố, có lúc trầm, có lúc thăng. Đối với Việt Nam, quan hệ với Trung Quốc được đặt ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Nhưng với Trung Quốc, quan hệ với Việt Nam nằm ở hàng thứ yếu. Điều đó thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ Việt - Trung.
Trung Quốc, một mặt trong chính sách vùng đệm của mình, muốn giữ Việt Nam ở địa vị như một “chư hầu” cho vai trò “bá quyền” của mình. Chính vì vậy, Trung Quốc đã tìm mọi cách để lôi kéo kết hợp đe doạ Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, Trung Quốc với tham vọng thực hiện giấc mộng “đế vương” của mình, luôn muốn chiếm đoạt biển Đông, nơi Việt Nam có những quyền lợi thiết thân. Chính vì vậy, các yếu tố trên đã đẩy mối quan hệ Việt - Trung vào những “nan đề” khó giải quyết. Nhiều học giả ca ngợi chính sách đối ngoại “cân bằng” của Việt Nam trong việc xử lý vai trò của Mỹ và Trung Quốc trong quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, “sự cân bằng” này phản ánh sự không bền vững trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trong Sách trắng Quốc phòng mới nhất được ban hành hồi tháng 11 năm ngoái, Việt Nam tiếp tục nhắc lại Chính sách Ba Không. Trong đó nhấn mạnh vào khả năng “tự lực tự cường” của Việt Nam khi đối mặt với các thách thức an ninh. Về lý thuyết, đây là một chủ trương đúng. Nhưng thực tế, điều này đòi hỏi Việt Nam phải có đủ tiềm lực tương xứng. Tuy nhiên, sự quản trị của Việt Nam đang thực sự thể hiện nhiều vấn đề yếu kém. Bộ máy chính trị thiếu động lực phát triển, chủ yếu là phe nhóm đấu đá, giành giật quyền lực, khiến cho chính trị trong nước hỗn loạn, các tiềm năng phát triển bị hạn chế.
Những vấn đề chính trị nội bộ gần đây cho thấy sự bộc lộ các điểm yếu này. Tranh cãi giữa VKSNDTC và TANDTC trong vụ Hồ Duy Hải, một mặt cho thấy vụ căng thẳng này bắt đầu từ các cuộc đấu đá chính trị trước thềm Đại hội Đảng lần thứ 13, nhưng mặt khác cũng bộc lộ thấy sự yếu kém của nền tư pháp, vốn dĩ cần thiết với vai trò quan trọng để góp phần kiểm soát sự lạm quyền từ các quan chức Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, những đe doạ về an ninh quốc gia, bao gồm cả an ninh kinh tế và an ninh quốc phòng trước các cá nhân và doanh nghiệp từ Trung Quốc vẫn đang hiện hữu rõ ràng. Sự kiện mới đây, Bộ Quốc Phòng Việt Nam nêu đích danh các cá nhân và doanh nghiệp Trung Quốc thâu tóm doanh nghiệp và đất đai quốc phòng là vấn đề đáng lưu tâm. Trong khi trước đó không lâu, khi các đại biểu Quốc Hội chất vấn Chính phủ Việt Nam thì Bộ trưởng Tài Nguyên và Môi Trường cùng Bộ Công An khẳng định không có chuyện này. Với sự quản trị không rõ ràng về trách nhiệm và thiếu một cơ chế hữu hiệu để kiểm soát quyền lực, Việt Nam đang là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng. Trung Quốc lại vốn rất có kinh nghiệm trong việc sử dụng các “biện pháp kinh tế cưỡng đoạt” cùng với các đe doạ về sử dụng sức mạnh để can thiệp vào chính trường Việt Nam. Và điều này vẫn đang xảy ra hàng ngày. Chính vì vậy, chủ trương đúng nhưng khó có thể thực hiện trong thực tế nếu không có những mạnh dạn trong cải cách thể chế, đáp ứng những yêu cầu trong bối cảnh mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét