Những ảnh vệ tinh mới nhất cho thấy Trung quốc đã xây dựng các khu vực phóng cho các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cơ động DF-31/31A ở miền trung nước này. Một số tổ hợp phóng DF-31/31A đã xuất hiện ở các khu vực phía đông tỉnh Thanh Hải (Tây Bắc Trung Quốc) vào tháng 6/2011.
Ngày 25/8/2014, Trung quốc đã cho thử nghiệm lần đầu phiên bản tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cơ động trên mặt đất mới có mã số DF-31B. Nó được phóng từ một trường bắn miền trung Trung Quốc. Trong ba tháng gần đây, quân đoàn pháo binh PLA đã cho thử nghiệm ít nhất 2 quả tên lửa dòng DF-31.
Hiện nay, các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa hạng nặng DF-5 nhiên liệu lỏng đang được thay thế dần bằng các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cơ động nhiên liệu rắn DF-31 và DF-31A. Theo Báo cáo của Bộ quốc phòng Mỹ thì Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc đổi mới kho tên lửa đạn đạo xuyên lục địa của mình.
Số lượng DF-31 và DF-31A đã vượt số lượng tên lửa nhiên liệu lỏng bố trí trong hầm phóng DF-5. Cũng theo số liệu trong báo cáo này, hiện DF-5 –còn khoảng 20 quả, DF-31 và DF-31A – khoảng gần 30.
Năm 2009, một số nguồn tin công khai có đề cập đến loại tên lửa đạn đạo xuyên lục địa nhiên liệu rắn mới của Trung quốc là DF-41. Có thông tin cho rằng tầm bắn của DF-41 lên tới 15.000 km và mang đầu tác chiến tự tách với 10 khối tác chiến và phương tiện chọc thủng hệ thống phòng chống tên lửa.
Nếu tính tới thực tế là DF-31 gặp những khó khăn nhất định khi vận chuyển, nhiều khả năng DF-41 sẽ được bố trí trong các hầm phóng.
Thành tố không quân của Bộ ba hạt nhân TQ
Không quân PLA còn có gần 100 máy bay ném bom Xian H-6 – máy bay mang bom hạt nhân rơi tự do. Đây là loại máy bay tương đối lạc hậu – máy bay “ Xô viết” Tu-16 đã được “Trung Quốc hóa”.
Năm 2011. H-6K hiện đại hóa có khả năng tác chiến tốt hơn được đưa vào trang bị . H-6K sử dụng động cơ Nga D-30KP-2, được trang bị tổ hợp trang thiết bị điện tử mới và các phương tiện tác chiến điện tử. Tải trọng tác chiến lên đến 12.000 kg, bán kính hoạt động được tăng từ 1.800 km lên 3.000 km. H-6K có thể mang 6 tên lửa chiến lược có cánh CJ-10A (áp dụng các giải pháp kỹ thuật của Kh-55 Xô Viết).
Tuy nhiên, dù đã được cải tiến nhưng H-6K vẫn không thể xếp vào loại máy bay hiện đại. Bán kính tác chiến của máy bay , kể cả khi mang tên lửa có cánh tầm xa không đủ để giải quyết các nhiệm vụ chiến lược.
H-6K có khả năng cơ động kém, cồng kềnh, tốc độ dưới âm và có bề mặt phản xạ (radar) hữu dụng lớn - trong trường hợp có một cuộc xung đột vũ trang với Mỹ hoặc Nga nó sẽ trỏ thành con mồi ngon cho các máy bay tiêm kích hoặc các phương tiện phòng không hai nước trên (nhận xét của các chuyên gia quân sự Nga).
Cách đây mấy năm có thông tin là Trung Quốc đang thiết kế loại máy bay ném bom tầm xa mới. Nhưng có lẽ trong tương lai gần chưa thể nói tới việc Trung Quốc có thể sở hữu các tổ hợp hàng không hiện đại tầm xa tự sản xuất.
Vì đây là một nhiệm vụ cực kỳ phức tạp đối với ngành công nghiệp hàng không Trung Quốc. Để tiết kiệm thời gian, Trung Quốc đã từng đề nghị Nga bán tài liệu kỹ thuật của Tu-22M3, nhưng đã bị từ chối thẳng.
Trong một thời gian dài, phương tiên hàng không mang tên lửa hạt nhân chiến thuật chủ yếu của Trung Quốc là máy bay cường kích Nanchang Q-5 chế tạo theo mẫu MiG-19 Xô viết. Khoảng 30 trong số 100 chiếc Q-5 có trong biên chế đã được cải hoán để có thể mang bom hạt nhân.
|
Máy bay Q-5. |
Hiện nay, các máy bay Q-5 mang vũ khí hạt nhân chiến thuật đang được Không quân PLA thay thế dần bằng máy bay tiêm kích- ném bom Xian JH-7A.
Lực lượng tàu ngầm
Vào đầu những năm 2000, Trung Quốc bắt đầu triển khai hoàn thiện thành tố biển (Hải quân) của Lực lượng kiềm chế hạt nhân. Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo đầu tiên của Trung quốc dự án 092 chế tạo theo mẫu tàu ngầm nguyên tử “Han” đã được khỏi công đóng từ năm 1978 tại nhà máy đóng tàu thành phố Hồ lô đảo. Tàu ngầm được hạ thủy ngày 30/4/1981, nhưng do một số trục trặc kỹ thuật và sự cố nên mãi đến năm 1987 mới được đưa vào trang bị.
Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo dự án 092 “Hạ” này có 12 khoang (hầm) để bảo quản và phóng tên lửa đạn đạo nhiên liệu rắn hai tầng JL-1 có tầm bắn hơn 1.700 km. Tên lửa JL-2 mang đầu tác chiến đơn công suất từ 200 đến 300 Kt. Dự án tàu ngầm nguyên tử lớp “Hạ” của Trung Quốc không thực sự thành công, nên chỉ được đóng có một chiếc.
Trong suốt thời gian khai thác lớp “Hạ” không một lần rời vùng nội thủy của Trung Quốc. Như vậy, có thể coi “Hạ” là một loại vũ khí để khai thác thử nghiệm , không thể tham gia vào “công cuộc kiềm chế hạt nhân” do các tính năng kỹ - chiến thuật yếu kém của mình. Mặc dù vậy, nó cũng đã giữ một vai trò quan trong trong việc xây dựng lực lượng hạt nhân biển của Trung Quốc, là “ trường học” để đào tạo cán bộ và là “ giá thí nghiệm bơi” để hoàn thiện công nghệ.
|
Tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo “Hạ” dự án 092 TQ |
Bước tiếp theo là tàu ngầm nguyên tử lớp 094 “ Kim”, được thiết kế để thay thế cho tàu ngầm chiến lược có độ tin cậy kém lớp 092 “Hạ” như đã nói ở trên.
Nhìn bề ngoài, “Kim” giống các tàu mang tên lửa Xô Viết dự án 667BDRM” Delphin”. Các tàu ngầm lớp 094 mang 12 tên lửa đạn đạo kiểu JL-2 với tầm bắn 8.000 km.
Khi chế tạo tên lửa đạn đạo nhiêm liệu rắn hai tầng JL-2, Trung Quốc đã sử dụng các giải pháp kỹ thuật và một số chi tiết của DF-31. Không có số liệu chính xác về đầu tác chiến của JL-2.
|
Ảnh vệ tinh của Google Earth: Tàu ngầm nguyên tử Trung Quốc lớp “Kim” tại căn cứ ở Thanh Đảo |
Tàu ngầm đầu tiên lớp này được đưa vào biên chế năm 2004. Căn cứ vào các ảnh vệ tinh, có thể phán đoán là có ít nhất 3 tàu lớp “Kim “ nữa. Theo số liệu của các phương tiện thông tin đại chúng Trung Quốc, vào tháng 3/2010, chiếc tàu ngầm thứ sáu kiểu này đã được hạ thủy. Theo một số nguồn khác, việc đưa vào biên chế tất cả các tàu kiểu 094 “Kim” đang bị trì hoãn vì các tổ hợp vũ khí của tàu chưa hoàn thiện.
|
Ảnh vệ tinh của Google Earth: tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo dự án 094 “Kim” tại căn cứ ở đảo Hải Nam, các cửa của hầm phóng tên lửa đang mở . |
Trung Quốc đưa các tàu ngầm nguyên tử chiến lược “Kim” vào tuần tiễu năm 2014. Các chuyến tuần tiễu được thực hiện gần lãnh hải nước này dưới sự yểm trợ của lực lượng tàu nổi và không quân hải quân – và có lẽ chỉ nhằm mục đích huấn luyện. Nếu tính tới việc cự ly bắn của tên lửa đạn đạo JL-2 (nếu ở các khu vực này) không đủ với tới các mục tiêu sâu trong lãnh thổ Mỹ, có thể khẳng định rằng, nếu “Kim” tiến hành tuẫn tiễu tác chiến thực sự ở khu vực xa bờ biển Trung Quốc, chúng sẽ gặp sự “ đối đầu hết sức nghiêm túc” từ phía lực lượng chống ngầm của Hải quân Mỹ.
Trong thời điểm hiện tại, Trung Quốc đang đóng các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo dự án 096 “ Tấn ”. Nó sẽ được trang bị 24 tên lửa đạn đạo với tầm bắn không ít hơn 11.000 km, có thể chắc chắn với tới các mục tiêu sâu trong lãnh thổ đối phương từ các khu vực được Hải quân Trung quốc bảo vệ.
Nếu tính tới sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc, có thể dự đoán là đến năm 2020 Hải quân nước này sẽ có trong trang bị không ít hơn 6 tàu ngầm nguyên tử mang tên lửa đạn đạo dự án 094 và 096 với khoảng 80 tên lửa đạn đạo có tầm bắn xuyên lục địa (250 đến 300 đầu tác chiến). Tương tự như số lượng của Nga hiện nay.
Hiện nay, Trung Quốc đang ráo riết hoàn thiện lực lượng hạt nhân chiến lược. Giới lãnh đạo chính trị Trung Quốc cho rằng làm như vậy sẽ kiềm chế được những ý đồ giải quyết các tranh chấp của Mỹ với Trung quốc trong tương lai bằng vũ lực.
Tuy nhiên, việc hoàn thiện và tăng chỉ tiêu số lượng lực lượng kiềm chế hạt nhân của Trung Quốc gặp nhiều khó khăn do không có đủ vật liệu hạt nhân cần thiết để chế tạo các đầu tác chiến. Để khắc phục khó khăn này, Trung quốc đã có dự án tăng sản lượng sản xuất Urani lên gấp 2 lần.
Có một phương pháp để tính (một cách tương đối) số lượng các đầu tác chiến hạt nhân của Trung Quốc. Theo các nguồn số liệu khác nhau, từ cuối những năm 60 đến đầu những năm 90 các xí nghiệp Trung Quốc đã sản xuất được hơn 40 -45 tấn Urani làm giàu ở cấp độ có thể dùng để sản xuất vũ khí và 8 đến 10 tấn Plutoni vũ khí.
Như vậy, trong suốt thời gian thực hiện chương trình hạt nhân, nước này chỉ có thể chế tạo không hơn 1.800 -2.000 đầu đạn hạt nhân. Mặc dù có sự phát triển về công nghệ, các đầu đạn hạt nhân có thời hạn bảo quản (tuổi thọ) hạn chế. Mỹ và Nga có thể bảo quản được từ 20 đến 25 năm, nhưng Trung quốc chưa thể đạt được “thành tích “như vậy.
Với cách tính trên, số lượng các đầu tác chiến hạt nhân đã triển khai của Trung Quốc trên các phương tiện mang chiến lược không vượt quá 250 -300 đơn vị và tổng số lượng vũ khí hạt nhân chiến thuật không vượt quá con số 400-500 – đây là các số liệu trên có lẽ gần với thực tế hơn cả - nếu căn cứ và đối chiếu với các nguồn thông tin hiện có.
|
Số lượng các tên lửa hạt nhân TQ - Số liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ đến năm 2012 |
Tiềm lực này nếu so sánh với lực lượng hạt nhân của Mỹ và Nga thì không nhiều. Nhưng nó đủ để gây những tổn thất không chịu đựng nổi (cho đối phương) trong đòn đánh trả của PLA và có thể sử dụng để tiến hành các hoạt động tác chiến quy mô lớn sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật chống lại lực lượng vũ trang của bất kỳ cường quốc hạt nhân nào..
|
Cự ly bắn của tên lửa đạn đạo Trung Quốc |
Có một điểm rất đáng chú ý là trong trang bị của “ Quân đoàn pháo binh số hai “ có một khối lượng lớn các tên lửa cơ động DF-21 ( hơn 100). Những tổ hợp này bất lực trong cuộc đối đầu với Mỹ. Nhưng chúng có thể với tới các mục tiêu trên một phần đáng kể lãnh thổ của chúng ta (Nga).
Những hệ thống tên lửa hạt nhân hiện có trong trang bị của Trung Quốc được chế tạo trong những năm 60-70, do khả năng sẵn sàng chiến đấu kém, khả năng sốt sót hạn chế nên không thể đảm bảo chắc chắn khả năng tiến hành đòn tấn công đáp trả ( khi tên lửa đối phương mới phóng) hoặc một đòn tấn công trả đũa (sau đòn tấn công của đối phương vào lãnh thổ Trung Quốc) đủ mạnh.
Trong khuôn khổ chương trình hiện đại hóa các lực lượng chiến lược, Trung Quốc đang chuyển từ các tên lửa nhiên liệu lỏng đã lạc hậu sang các tên lửa nhiên liệu rắn. Các hệ thống mới có tính cơ động cao hơn và vì thế mà xác xuất bị tổn thương (tiêu diệt) ít hơn trước các đòn tấn công của đối phương.
Nhưng tiến độ sản xuất các tổ hợp cơ động mới được triển khai rất chậm. Điểm yếu nhất của các tên lửa đạn đạo Trung Quốc vẫn là hệ số tin cậy kỹ thuật thấp.
Căn cứ vào tất cả các thông tin có được, các tổ hợp cơ động của Trung Quốc dễ bị tổn thương hơn nhiều so với các tổ hợp của Nga. Các tổ hợp phóng của nước này cồng kềnh hơn, khả năng cơ động trên các loại địa hình kém hơn, thời gian chuẩn bị phóng dài hơn.
Các khu vực miền Trung Trung Quốc không có nhiều khu rừng lớn như ở Nga và các tổ hợp tên lửa khó có thể ngụy trang vào khoảng thời gian ban ngày. Công tác bảo dưỡng kỹ thuật cho chúng cần nhiều giờ công kỹ thuật và nhiều trang thiết bị phụ trợ. Chính vì thế mà các tổ hợp cơ động Trung quốc khó thể cơ động nhanh và dễ bị các phương tiện trinh sát vũ trụ của đối phương phát hiện.
Hiện nay Trung Quốc vẫn tiếp tục dành rất nhiều kinh phí không chỉ để chế tạo và hoàn thiện các mẫu tên lửa đạn đạo mới (phương tiện mang) mà còn tiếp tục phát triển các đầu đạn hạt nhân kiểu mới.
Nếu như trong các năm 70-80 số tên lửa đạn đạo không nhiều của Trung Quốc mang đầu đạn nhiệt hạch đơn cỡ Mt có sai số xác xuất vòng tròn khoảng 3 km chỉ thích hợp cho tấn công các thành phố lớn - “các sát thủ thành phố” thì các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa Trung Quốc hiện nay đã mang các đầu tự tách - tự dẫn sức công phá đến 300 Kt có độ chính xác cao hơn (sai số xác xuất vòng tròn chỉ còn cỡ vài trăm m).
Cũng cần phải thấy rằng, cùng với sự hiện diện của lực lượng quân sự Mỹ ở Trung Á, một phần tiềm lực hạt nhân của Trung quốc nằm trong bán kính tác chiến của Không quân chiến thuật Mỹ. Chính vì vậy mà phần lớn các lực lượng tên lửa chiến lược Trung Quốc thường xuyên được bố trí trong các hầm đào sâu vào núi trên các khu vực núi của Trung Quốc.
Việc bố trí như vậy đảm bảo trong thời bình tránh được các phương tiện trinh sát vệ tinh, còn trong thời chiến bảo vệ tương đối chắc chắn (lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc) trước các đòn tấn công bất ngờ. Trung Quốc đã xây dựng nhiều đường hầm và các công trình ngầm có diện tích và chiều dài lớn.
II . Về Học thuyết hạt nhân Trung quốc và một số vấn đề khác
Các chuyên gia cho rằng, các tổ hợp tên lửa cơ động Trung Quốc sẽ không được sử dụng ngay khi có đòn tấn công hạt nhân vào lãnh thổ Trung Quốc, mà là phải hai tuần sau đó (sau khi bị tấn công) - chúng sẽ được đưa ra khỏi các hầm ngầm và thực hiện các đòn tấn công đối phương từng đợt một trong một khoảng thời gian tương đối dài, nhưng vẫn đảm bảo chắc chắn khả năng tấn công “trả đũa” đối phương. Trung Quốc không thể tiến hành một đòn tấn công ồ ạt của toàn bộ lực lượng kiềm chế hạt nhân trong cùng một thời điểm vì cần có một thời gian dài để chuẩn bị.
Đây là lý do buộc Trung Quốc phải thay đổi quan điểm về “ quy trình” sử dụng vũ khí hạt nhân cuả mình.
Theo Học thuyết quân sự công khai, Trung Quốc cam kết không sử dụngvũ khí hạt nhân trước. Nhưng trong những năm gần đây giới lãnh đạo quân sự Bắc kinh đã tính đến khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân trước. Kịch bản này có thể được thực hiện trong những điều kiện khẩn cấp như sau:
1/ các chiến dịch quân sự ở khu vực biên giới bị thất bại và có mối đe dọa là các cụm quân PLA sẽ bị đánh bại hoàn toàn;
2/ mất một phần đáng kể lãnh thổ có các trung tâm chính trị-hành chính và khu vực kinh tế cực kỳ quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với kết cục chiến tranh;
3/ có mối đe dọa thực tế tiêu diệt các lực lượng hạt nhân chiến lược của Trung Quốc bằng vũ khí thông thường (xác xuất xảy ra khả năng này cực kỳ thấp, nếu tính đến thực trạng và quân số của PLA).
Sự tăng trưởng nhanh chóng tiềm lực khoa học- kỹ thuật (của Trung Quốc) và nếu tốc độ phát triển vẫn được giữ như hiện nay sẽ đảm bảo cho lực lượng kiềm chế hạt nhân Trung Quốc trong các thập kỷ sắp tới có khả năng tiến hành các đòn tấn công đáp trả và trả đũa.
Một sự thay đổi về chất cỗ máy quân sự Trung quốc sẽ không còn xa nữa.
http://baodatviet.vn/quoc-phong/luc-luong-vu-trang/soi-tiem-luc-hat-nhan-trung-quoc-su-troi-day-dang-gom-3298794/?paged=4