Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014

TQ muốn chiếm Senkaku/Điếu Ngư để trả mối thù 120 năm với Nhật

Trong mắt Trung Quốc, việc đòi lại Senkaku/Điếu Ngư dường như là bước khởi đầu tốt..., đảo ngược bánh xe lịch sử với Nhật Bản, trả thù cho thất bại trong quá khứ.

Trong bài phân tích mới đây trên tờ Foreign Policy, giáo sư James Holmes đã nêu lên những bài học rút ra từ cuộc chiến tranh Trung - Nhật (1894 - 1995), những bài học mà Nhật Bản và Trung Quốc cần phải quan tâm trong cuộc tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ngày nay.
Căng thẳng giữa Trung Quốc và Nhật Bản vẫn đang tiếp tục gia tăng căng thẳng ở các đảo và vùng biển trên biển Hoa Đông. Hồi cuối tháng 5, một máy bay chiến đấu của Trung Quốc bay cách máy bay tuần tra hàng hải Nhật Bản 30m - một khoảng cách gang tấc đối với máy bay tốc độ cao. Ngày 11/6, máy bay Nhật Bản và máy bay Trung Quốc một lần nữa bay sát nhau ở khoảng cách rất nguy hiểm, và hai bên đều đổ lỗi cho nhau về vụ việc.
Trong bối cảnh đó, Trung Quốc và Nhật Bản có lẽ nên nhớ lại các bài học từ cuộc chiến từ cách đây đúng 120 năm.
Dưới đây là những bài học được đề cập đến trong bài viết của giáo sư James Holmes. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
James Holmes là giáo sư về chiến lược tại Đại học Chiến tranh Hải quân tại Trường Các vấn đề Quốc tế và cộng đồng thuộc Đại học Georgia (Mỹ).
Bài học đầu tiên: Địa chính trị
Xung đột có giới hạn có thể mang lại những lợi ích sâu rộng cho một bên nào đó. Trận chiến sông Áp Lục năm 1894 - một cuộc giao tranh quy mô nhỏ giữa các hạm đội chiến đấu của Trung Quốc và Nhật Bản – đã giúp Nhật Bản giành được quyền kiểm soát Hoàng Hải và biển Hoa Đông.
Hiệp ước Shimonoseki ký kết tại Nhật Bản vào tháng 4/1895 buộc Trung Quốc phải từ bỏ Đài Loan và các đảo ngoại biên, phần lãnh thổ dọc theo bờ biển châu Á, đồng thời phải trả một khoản bồi thường lớn cho Nhật Bản. Từ đó, Trung Quốc không thể phản đối các động thái quân sự của Nhật Bản dọc bờ biển châu Á. Khi đã nắm quyền kiểm soát hàng hải, Nhật Bản đã thống trị luôn cả vùng Đông Bắc Á.
BÀI LIÊN QUAN
Về phần mình, Bắc Kinh muốn tái thiết lập hiện trạng địa chính trị như trước. Viết về cuộc chiến đã nửa phần bị quên lãng này, tác giả Sally Paine nhận định rằng, kể từ năm 1895, "trọng tâm chính sách đối ngoại của Trung Quốc là thay đổi kết quả, trong khi về phía Nhật Bản là khẳng định những gì đã giành được." Có vẻ như câu châm ngôn quân sự cổ xưa vẫn còn nguyên giá trị: Chiến tranh chưa thể kết thúc chừng nào kẻ bại trận chưa chịu từ bỏ.
Từ năm 1895, Nhật Bản đã quản lý Senkaku/Điếu Ngư, quần đảo nhỏ ở Biển Hoa Đông, điểm nóng xung đột hiện nay, vốn không chính thức nằm trong Hiệp ước Shimonoseki. Trong mắt Trung Quốc, việc đòi lại Senkaku/Điếu Ngư dường như là bước khởi đầu tốt nhằm hướng tới bãi bỏ hiệp ước hòa bình mà nước này cho là bất công, đảo ngược bánh xe lịch sử với Nhật Bản, trả thù cho thất bại trong quá khứ.
Bài học thứ hai: Diện tích nhỏ, lợi ích lớn
Tuy các vùng lãnh thổ tranh chấp có diện tích nhỏ nhưng lợi ích nó mang lại cho các bên liên quan là rất lớn. Cuộc chiến giành chủ quyền hàm chứa nhiều ý nghĩa, vượt quá những lợi ích vật chất thông thường. Đó là danh dự và uy tín quốc gia - những động cơ đủ mạnh mẽ để thổi bùng nhiệt huyết của cả hai phía.
Kết quả cuộc chiến Trung – Nhật là biểu tượng chính trị về thất bại tác chiến của Trung Quốc. Trên thực tế, đụng độ hải quân trên sông Áp Lục đã đảo ngược trật tự khu vực. Thất bại của Trung Quốc báo hiệu sự lụi tàn của một vương quốc sau nhiều thế kỷ bá chủ khu vực. Thật nhục nhã khi chính nó lại xướng tên Nhật Bản như vị thống soái mới ở châu Á.
Bắc Kinh luôn bị ám ảnh bởi tham vọng đảo ngược trật tự thế giới một lần nữa. Thất bại trong quá khứ vẫn còn là nỗi đau đớn dằn vặt cho Trung Quốc, thậm chí sau 120 năm cùng một số thay đổi về chế độ, trong khi đó, nước Nhật dân chủ không có ý định thay đổi hiện trạng đã giành được. Cả Tokyo và Bắc Kinh đều hướng tới những giá trị to lớn ẩn bên trong lợi ích vật chất và vị thế quốc tế của mình - và sẵn sàng trả giá đắt cho những lợi ích đó bằng mạng sống, tiền của và khí tài quân sự.
Người Nhật Bản cắm cờ trên đảo Senkaku/Điếu Ngư
Người Nhật Bản cắm cờ trên đảo Senkaku/Điếu Ngư
Bài học thứ ba: Sức mạnh trên biển quyết định vị thế quốc gia
Đối với các cường quốc, sức mạnh trên biển là yếu tố quyết định vị thế quốc gia và cũng là phương tiện để bảo vệ lợi ích ngoài khơi. Các cường quốc cần lực lượng hải quân hùng mạnh để thực hiện sứ mệnh của mình. Hoàng đế Nhật Bản từng ban chiếu lệnh sẽ hiện đại hóa quốc đảo này sau Minh Trị Duy Tân năm 1868.
Kể từ đó, thợ đóng tàu Nhật Bản đã mất gần hai thập kỷ để xây dựng một hạm đội chiến đấu từ mớ hỗn độn gồm nồi hơi, súng ống và nhiều thiết bị nhập khẩu khác. Hạm đội Frankenfleet của Tokyo sau khi hạ thủy đã làm bẽ mặt hạm đội của nhà Thanh vốn dày dạn trận mạc và vẫn thường được ca ngợi là mạnh mẽ hơn người.
Sức mạnh trên biển rõ ràng là rất quan trọng. Đối với Tokyo và Bắc Kinh ở thời điểm đó, kết quả của cuộc chiến Trung-Nhật một lần nữa khẳng định sự cần thiết phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng hải quân.
Trung Quốc đã đóng nhiều tàu khu trục tiên tiến, một số lượng lớn tàu ngầm diesel trang bị tên lửa và cũng có tàu sân bay đầu tiên của mình - tất cả đều được hỗ trợ bởi máy bay chiến đấu trên bờ và tên lửa đối hạm có thể tấn công mục tiêu hàng trăm dặm ngoài khơi.
Về phần mình, Nhật Bản cũng có những bước đi phù hợp với động thái của Trung Quốc, tăng cường lực lượng tàu ngầm đẳng cấp thế giới, lần đầu tiên sau một thập kỷ nới lỏng chi tiêu quốc phòng - mặc dù ngân sách quốc phòng của Trung Quốc, vốn đã lớn hơn rất nhiều và vẫn đang tiếp tục tăng lên một cách nhanh chóng. Tokyo cũng tiếp cận các quốc gia ven biển châu Á khác đang vướng vào tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh - các đối tác liên minh có thể bổ sung nguồn lực cho nhau khi đối đầu với Bắc Kinh trên mặt trận chính trị.

"Với thái độ bề trên, giống như phần lớn thời gian qua - Trung Quốc còn bắt nạt và đe dọa các quốc gia này. Thử hỏi làm sao có thể kết bạn hay kết đồng minh!".

Liệu Nhật Bản hay Trung Quốc có bỏ sót điều gì, hoặc có hiểu sai bài học khiến chiến lược của mình bị méo mó?
Bài học về liên minh: Nhật thấm nhuần, Trung Quốc thờ ơ
Một bài học mà Nhật Bản đã học được, nhưng Trung Quốc lại thờ ơ, đó là giá trị của liên minh. Chiến tranh Trung-Nhật là sự kiện một đấu một. Nhưng sau chiến tranh, Pháp, Đức và Nga đã can thiệp ngoại giao để Nhật Bản phải buông một phần lãnh thổ mới giành được ở phía bắc Trung Quốc. Châu Âu lo ngại đế quốc Nhật Bản hùng mạnh sẽ phong tỏa đường giao thương của các đế quốc khác với Trung Quốc và đảo ngược cán cân quyền lực trong khu vực.
Nhật Bản thấy như vậy đã là quá đủ. Nhưng rồi sau đó, Nga lại chớp lấy một số lợi ích của Nhật Bản - đáng chú ý là các thành trì ở Port Arthur, cửa ngõ hàng hải phía bắc Trung Quốc.
Để tránh bị bẽ mặt thêm một lần nữa, Tokyo đã thành lập liên minh với Anh trước khi bắt đầu cuộc chiến tiếp theo với Nga (1904-1905). Không cần cầm vũ khí, Anh chỉ việc đóng cửa kênh đào Suez chặn lực lượng hải quân Nga, buộc quân tiếp viện hải quân của Moscow phải đi vòng thêm 20.000 dặm quanh châu Phi, qua Ấn Độ Dương vào vùng biển Viễn Đông để tác chiến. Đường xa vòng vèo đã khiến Hạm đội Baltic của Nga suy yếu, trở thành mồi ngon cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong trận chiến then chốt ở eo biển Tsushima (được đặt tên theo vùng biển hẹp giữa Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên).
Năm 1905, Nhật Bản đã lấy lại lãnh thổ từng tuột khỏi tay năm 1895, và giảm trọng lượng tiếng nói của một đế quốc châu Âu trong đàm phán.
Có vẻ như liên minh mang lại rất nhiều lợi ích. Đó là Chiến lược 101, và một bài học mà liên minh an ninh sau chiến tranh với Mỹ thường xuyên nhắc nhở Nhật Bản. Trung Quốc, ngược lại, đứng tách biệt với các nước láng giềng Đông Á, thậm chí trong những thời điểm huy hoàng nhất của mình. Với thái độ bề trên, giống như phần lớn thời gian qua - Trung Quốc còn bắt nạt và đe dọa các quốc gia này. Thử hỏi làm sao có thể kết bạn hay kết đồng minh!.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe và Thủ tướng Anh David Cameron.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe gặp gỡ Thủ tướng Anh David Cameron.
Trung Quốc ảo tưởng về năng lực chiến đấu của mình
Bình luận của Trung Quốc về cuộc chiến Trung-Nhật còn hé lộ một góc khuất liên quan tới yếu tố con người trong chiến tranh hải quân. Các nhà chiến lược quân sự miễn cưỡng thừa nhận thành quả ấn tượng của Đế quốc Nhật về mặt tài sản vật chất. Họ đồng thời cũng tìm cách đổ lỗi cho Trung Quốc vì thua kém đối phương. Họ săn lùng kẻ có lỗi trong chính quyền nhà Thanh hoặc lực lượng hải quân. Giọng điệu phê phán giống như: Nhật Bản lẽ ra đã không thắng, Trung Quốc tự thua.
Ví dụ, nhiều ý kiến phân tích từ lâu đã chỉ trích chỉ huy hải quân Trung Quốc vì những sơ suất chiến thuật và kỹ thuật. Giờ đây, một số sĩ quan cấp cao của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) muốn minh oan cho các tướng lĩnh nhà Thanh, và thay vào đó quy kết chính triều đại này. Cách thức tổ chức quan liêu mà nhà Thanh áp dụng trở nên lạc hậu, thiếu linh hoạt, và không theo kịp với một Nhật Bản Minh Trị yếu thế hơn nhưng năng động hơn.
Dù việc đánh giá lại này đúng hay sai thì hành động chỉ trích một chế độ Trung Quốc đã chết cũng là cách hành xử thiếu tôn trọng đối với tài thao lược trên biển, tài chế tạo và sử dụng khí tài của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đôi khi một bên thua cuộc không hẳn vì kém mà bởi đối phương chiến đấu tốt hơn. Không chịu thừa nhận sự ưu việt của Nhật Bản trong quá khứ cũng chính là một biểu hiện coi thường đối phương của Trung Quốc trong thời đại ngày nay. Và trong khi Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản không hay khoe khoang về tiềm lực, Hải quân Trung Quốc vẫn ảo tưởng về năng lực chiến đấu của mình.
Gạt sang một bên những suy nghĩ thiển cận, Bắc Kinh không phải là không có những lợi thế về trí tuệ và cảm xúc. Trước kia Nhật Bản từng rút ra được nhiều bài học trong lĩnh vực này, và vì thế có thể nảy sinh tâm lý tự mãn. So với giới chiến lược gia Trung Quốc, số lượng nhà nghiên cứu Nhật Bản hiện nay rất ít để ngồi nghiền ngẫm mọi ngóc ngách lịch sử.
Tại sao lại khác biệt như vậy? Có lẽ những thất bại và hổ thẹn khiến các bộ óc xích lại với nhau, trong khi việc bảo vệ thành quả lâu đời thì dễ bị xao lãng. Có lẽ quyết tâm lấy một thứ gì đó từ kẻ khác khiến con người ta sục sôi theo cách mà kẻ đang sở hữu không làm được. Dù trong trường hợp nào thì Bắc Kinh cũng là phía có mong muốn mãnh liệt hơn.
Những gì mà các bên tham chiến học được từ lịch sử sẽ khiến họ không quyết định tiến hành một cuộc chiến tranh bất chợt và thần tốc, nếu nó thực sự diễn ra trên Biển Hoa Đông. Nhưng lịch sử cũng có thể tạo nên khác biệt bằng cách tập trung sự quan tâm vào nỗ lực phát triển lực lượng hải quân – đồng thời kích động những cái đầu nóng ở cả Bắc Kinh lẫn Tokyo.
http://soha.vn/quoc-te/bai-tran-truoc-nhat-ban-2-bai-hoc-tq-hoc-120-nam-van-chua-thuoc-20140619113535875.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét