Cuộc chiến tranh giành quần đảo Falklands - trận chiến đầu tiên của các lực lượng hải quân hiện đại.
Đô đốc John Woodward cảnh báo: Ngày nay, Anh không có đủ lực lượng để giữ quần đảo Falklands (Argentina gọi là Malvinas) trong trường hợp nổ ra xung đột quân sự mới. Ảnh từ bản tin của kênh truyền hình British Forces News
|
Hướng chủ đạo của sức mạnh thời hậu chiến trên tầm mức địa-chính trị đã dịch chuyển sang hướng đại dương, và không chỉ do các lực lượng hạt nhân chiến lược được triển khai ở đó.
Tuy nhiên, với tất cả phạm vi và quy mô quân bị, không một nước nào thực sự có kinh nghiệm tác chiến hải quân cho đến khi xảy ra cuộc xung đột Falklands giữa Anh và Argentina vào năm 1982, cuộc xung đột mang trong mình những dấu hiệu của một cuộc chiến tranh hải quân đích thực.
Tuy nhiên, với tất cả phạm vi và quy mô quân bị, không một nước nào thực sự có kinh nghiệm tác chiến hải quân cho đến khi xảy ra cuộc xung đột Falklands giữa Anh và Argentina vào năm 1982, cuộc xung đột mang trong mình những dấu hiệu của một cuộc chiến tranh hải quân đích thực.
Đối với các chuyên gia, cuộc khủng hoảng Falklands đã cho phép kiểm nghiệm với độ tin cậy cao tính đúng đắn của những khái niệm và xu hướng cơ bản trong xây dựng hải quân, phát triển vũ khí hải quân, cũng như các thủ đoạn và phương thức tác chiến trên biển.
Các điều kiện chính trị và chiến dịch-chiến lược của cuộc xung đột
Khởi nguồn của các cuộc xung đột quân sự luôn rắc rối và không rõ ràng. Cuộc xung đột vì quần đảo Falklands cũng không phải là ngoại lệ.
Falklands, mà Argentina gọi là quần đảo Malvinas, về chính thức không có tiềm năng khoáng sản và nằm ở nơi có khí hậu khắc nghiệt, cách xa các tuyến đường biển quốc tế nhộn nhịp, chật vật để nuôi sống mấy ngàn con cừu và một nhúm điền chủ can đảm. Hạ tầng của hòn đảo cũng tương tự như sự hoang tàn của nó. Trên đó chỉ có vài đường băng, không thể phục vụ máy bay phản lực hiện đại và hệ thống bến cảng ọp ẹp.
Vậy cuộc xung đột thực tế nổ ra vì cái gì? Sẽ không quá sai nếu nói rằng, nó bắt nguồn từ trò chơi của những tham vọng chính trị lớn. Ở Argentina, một chế độ bán quân sự mới lại lên cầm quyền với những khẩu hiệu và lời hứa tranh cử mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa, trong đó có việc giành lại Malvinas (khu vực lãnh thổ tranh chấp).
Về mặt quân sự, chế độ cảm thấy tự tin vì một tàu sân bay mới mua của Pháp với lực lượng máy bay không chỉ có các máy bay A-4 Skyhawk trang bị bom, mà cả các máy bay Super Étendard tối tân của Pháp trang bị tên lửa chống hạm Exocet, có khả năng gây tổn thất nặng nề cho biên đội tàu chiến mà không phải bay vào tầm hỏa lực phòng không của nó. Sẵn sàng phát huy chiến quả của các máy bay là các tàu khu trục và frigate tên lửa. Lực lượng máy bay chiến đấu của Argentina có tới 200 chiếc. Các tổ lái Argentina lâu nay nổi tiếng là được huấn luyện tốt. Tất cả các điều kiện xem ra là ổn nên không thể không khích lệ các chiến lược gia Argentina “vuốt râu” con sư tử Anh già nua.
Thời kỳ đó, giới lãnh đạo chính trị-quân sự Anh chỉ tập trung hiện đại hóa lực lượng hạt nhân chiến lược trên biển dựa trên các tên lửa hạt nhân Trident mà bỏ bê hải quân. Vì thế, hạm đội Anh rất chật vật khi cả 2 tàu sân bay đang hoạt động, một số tàu mặt nước cơ bản, những cơ sở hạ tầng quan trọng nhất, phần lớn quân số bị cắt giảm vào năm 1982. Hơn nữa, vị thế “Chúa tể biển cả” của nước Anh cũng chẳng còn thuyết phục khi so với Pháp và về nhiều mặt (chất lượng và số lượng tàu nổi cơ bản) khi so với Nhật Bản. Vì thế, lãnh đạo Bộ Quốc phòng Anh không thể phòng thủ chứ chưa nói đến chuyện chiếm lại quần đảo Falklands. Hiển nhiên, phía Argentina thừa biết những khó khăn và tâm trạng đó ở Anh.
Tuy nhiên, tháng 4/1982, một đội quân Anh kha khá được trang bị máy bay cường kích hạng nhẹ và trực thăng đã đổ bộ lên quần đảo. Quân Anh cũng đồng thời chiếm thêm đảo South Georgia.
Quần đảo Falklands nằm cách lục địa Argentina dưới 400 hải lý, trong khi cách mẫu quốc Anh 8.000 hải lý. Mùa đông Nam cực đang đến và chỉ còn chưa đầy 2 tháng là mùa đông bắt đầu. Tóm lại, đây không phải thời gian và địa điểm tốt nhất cho tác chiến, thậm chí cho việc đi biển thông thường. Nhưng mặc dù điều kiện không thuận lợi, Thống soái Hải quân (First Sea Lord) Anh, Đô đốc hạm đội Henry Leach đã đề nghị Thủ tướng Margaret Thatcher cho phép bắt đầu tổ chức một binh đoàn tác chiến gọi là Lực lượng đặc nhiệm (Task Force) để phái đến Nam Đại Tây Dương.
Chuẩn bị và thực hành tác chiến
Ở giai đoạn động viên và triển khai, việc xây dựng và triển khai bộ phận tiền trạm của Lực lượng đặc nhiệm bắt đầu từ trạng thái tập trận định kỳ Springtrain ở Gibraltar với các tàu tham gia tập trận. Các tàu này ở gần hơn 2.000 hải lý so với tâm điểm cuộc xung đột. Việc triển khai bắt đầu dưới sự lãnh đạo của Tư lệnh hải đoàn tàu nổi 1 (First Flotilla), Chuẩn đô đốc J. Forster 'Sandy' Woodward. Không lâu sau, các lực lượng còn lại của Lực lượng đặc nhiệm cũng đến tập trung.
Các tàu đầu tiên đến khu vực đặc quyền hoàn toàn TZE (Total Exclusion Zone, khu vực do Anh tuyên bố ngày 30/4/1982 bao trùm một đường tròn 200 hải lý (370 km) tính từ trung tâm quần đảo Falklands. Trong cuộc chiến Falklands, bất kỳ tàu thuyền, máy bay của bất kỳ nước nào đi vào TEZ có thể bị bắn không cần cảnh báo), nơi có thể tiến hành tác chiến chống Argentina, là 3 tàu ngầm hạt nhân của Hạm đội Anh. Người ta cho thế là đã quá đủ để củng cố vành đai phong tỏa được tuyên bố đối với quần đảo mà Argentina liên tục tăng cường bằng các lực lượng mới.
Ngoài biên đội tàu ngầm, biên chế lực lượng viễn chinh Anh còn được tăng cường thêm: Binh đoàn đặc nhiệm Task Group 317.8 (Carrier/Battle Group – Binh đoàn tàu sân bay/chiến đấu) với 2 tàu sân bay hạng nhẹ là nòng cốt và Binh đoàn đặc nhiệm đổ bộ Task Group 317.0 (Amphibious Task Group). Sau đó, Anh phái thêm đến vùng chiến sự một cụm tàu hậu cần.
Các tàu Anh đã phải vượt qua quãng đường 6.000-8.000 hải lý đến các khu vực hoàn toàn không có các dấu hiệu có bến đỗ ở bờ. Ở khoảng giữa hành trình triển khai là đảo Phục sinh, khu vực đất liền cuối cùng được sử dụng làm căn cứ phía sau.
Tại đây tiến hành tập kết các lực lượng chủ lực của Lực lượng đặc nhiệm (Task Force) 317 của Hạm đội Hoàng gia Anh, sau đó, Chuẩn đô đốc John Woodward báo cáo quyết tâm chiến dịch mà sau này được biết là có mật danh Corporate với Tư lệnh Hải quân Anh, Đô đốc J. Fieldhouse, người đứng đầu bộ chỉ huy được thành lập đặc biệt.
Trong khi đó, người ta cũng đã tiến hành lập kế hoạch, các buổi họp về tất cả các loại hình tác chiến, bảo đảm, hướng dẫn, định hướng, giao nhiệm vụ ban đầu cho các lực lượng, hoàn tất tiếp nhận vật tư dự trữ khi đỗ tại vũng tàu. Tiếp đó, mọi công việc diễn ra ở ngoài đại dương và thường là ngay trong khi hành tiến.
Ngày 18/4, hạm đội tiếp tục triển khai. Đô đốc Fieldhouse bay đi London để bảo vệ kế hoạch chiến dịch vốn được thông qua ở gần “khu vực tiền duyên” với lãnh đạo cấp cao nhất nước Anh, bảo vệ từng điểm trong kế hoạch mà không có thì không thể chỉ đạo cuộc chiến tranh đang diễn ra cách Bộ Hải quân Anh 8.000 hải lý.
Ý đồ cơ bản trong quyết tâm của Tư lệnh Lực lượng đặc nhiệm là mọi hành động, bao gồm cả việc tái chiếm quần đảo Falklands, phải hoàn thành chậm nhất là vào giữa tháng 6. Sau đó thì các điều kiện khí tượng-thủy văn sẽ không những không cho phép tiến hành tác chiến, mà các lực lượng hạm tàu và máy bay chi viện hỏa lực và bảo đảm cho lực lượng trên bờ cũng không thể ở đó được. Bằng cách tính lùi, căn cứ vào thời gian cần thiết tối thiểu cho hoạt động của lực lượng đổ bộ ở trên bờ, người ta đã xác định thời gian muộn nhất để bắt đầu đổ bộ là 20-21/5. Cũng bằng cách đó, người ta đã xác định được cả thời hạn để Lực lượng đặc nhiệm đến được khu vực TEZ để giành ưu thế trên biển và trên không là ngày 1/5.
Những phát súng đầu tiên của cuộc chiến đã vang lên, bản liệt kê tổn thất đã được mở tại đảo South Georgia, nơi một cụm tàu chiến thuật chuyên trách đã loại khỏi vòng chiến và chiếm giữ được tàu ngầm ARA Santa Fe (S-21) của Argentina và kéo cờ Anh lên.
Việc hoàn tất triển khai lực lượng được đánh dấu bằng một loạt các cuộc không kích vào các sân bay Port Stanley và Goose Green. Trước hết, một máy bay ném bom chiến lược Vulcan cất cánh từ đảo Phục sinh vào đêm 30, rạng sáng 1/5 đã thả bom từ độ cao lớn xuống Port Stanley. Các máy bay trên hạm Sea Harrier phát huy chiến quả lúc rạng sáng. Các tàu chiến mặt nước lúc đó tiến hành pháo kích các mục tiêu trên bờ và lùng sục kiểm tra tàu ngầm đối phương.
Trong các cuộc không chiến nổ ra, không quân Argentina có ưu thế gấp gần 10 lần, nhưng các máy bay Sea Harrier của Anh có hiệu quả cao hơn các tên lửa Sidewinder có trong trang bị của Không quân Argentina.
Nhiệm vụ chủ yếu của ngày đầu tiên là bí mật đổ bộ một nhóm đặc nhiệm để trinh sát các vị trí của đối phương và chọn địa điểm đổ bộ sắp tới.
Cuộc chiến đấu giành ưu thế trên biển khai diễn theo những nguyên tắc kinh điển và cực kỳ ác liệt. Hạm đội Argentina đã kịp thời triển khai chiến đấu, dàn thế trận chiến đấu bao quanh Lực lượng đặc nhiệm Anh vừa mới tới từ hai hướng đông bắc và tây nam. Họ trù tính sử dụng số lượng lớn máy bay triển khai trên bờ để thực hiện các đòn đánh nghi binh và bảo đảm.
Các tàu ngầm nguyên tử Anh đã không thể phát hiện được tàu nổi đối phương. Cuối cùng, khi tàu ngầm nguyên tử HMS Conqueror (S48) phát hiện được tàu tuần dương ARA General Belgrano của Hải quân Argentina thì bắt đầu xảy ra rắc rối liên quan tới công tác chỉ huy tàu ngầm không tốt, cũng như do khó theo dõi tàu nổi ở vùng nước nông. Dẫu sao thì cuối cùng, tàu tuần dương Argentina vẫn bị đánh đắm bằng ngư lôi.
Tuần dương hạm ARA General Belgrano bị đánh chìm là tổn thất nặng nề nhất của Hải quân Argentina trong cuộc chiến, buộc họ phải rút khỏi cuộc chiến |
Người ta thường cho là chính việc tổn thất tàu tuần dương ARA General Belgrano đã buộc bộ chỉ huy Argentina đưa hạm đội quay về các căn cứ. Trên thực tế, Hải quân Argentina rất muốn báo thù, nhưng thời tiết đã cản trở họ mở cuộc tấn công chết chóc vào Lực lượng đặc nhiệm Anh. Hạm đội Argentina đã trở về căn cứ và sau đó không còn rời hải phậm nước này nữa.
Về hình thức thì việc tranh giành ưu thế trên biển có thể coi là hoàn thành ở đây, nhưng sự ác liệt trong giao tranh giữa lực lượng hai bên không hề suy giảm. Máy bay tiến công của Argentina đảm nhiệm vai trò tiến công chính và hạm đội Anh bắt đầu hứng chịu tổn thất lớn.
Tổn thất tàu khu trục HMS Sheffield (D80) có thể coi là do sự cẩu thả của hạm trưởng tàu này. Trong khi làm nhiệm vụ trực chiến phòng không/phòng thủ tên lửa, nhưng hạm trưởng lại cho tắt các radar trên tàu lại bị tắt đi, hạ cấp sẵn sàng chiến đấu, tàu không tổ chức phiên trực trên các mạng trao đổi thông tin và cảnh báo để có được kênh liên lạc vô tuyến điện có chất lượng tốt với London.
Tàu khu trục HMS Sheffield của Hải quân Anh sau khi trúng tên lửa Exocet |
Kết quả là các máy bay Super Eténdard bay thấp của Không quân Argentina đã bắn tên lửa hành trình Exocet vào tàu này. Mười ngày sau, tàu khu trục cùng loại, sống sót trong cuộc tấn công đó và chiến đấu dở ẹc là HMS Glasgow (D88) đã bị thương nặng. Bộ chỉ huy Lực lượng đặc nhiệm sau đó đã có nghi ngờ về hiệu quả của các hệ thống tên lửa phòng tốt nhất Sea Dart và Sea Wolf của họ.
Xét về mức độ tổn thất, chiến sự đạt cường độ cao nhất khi bắt đầu đổ bộ, bởi vì còn lâu quân Anh mới giành được ưu thế trên không và vấn đề được giải quyết bằng cách “tiêu hao” giản đơn các máy bay Argentina đang lao vào khu vực đổ bộ và bỏ neo của các tàu đổ bộ và tàu vận tải của Anh.
Dính bom của một chiếc Skyhawk của Argentina, chiếc frigate HMS Antelope (F170) của Anh gãy đôi và chìm xuống biển. Ảnh: Hải quân Anh |
Bản thân cuộc đổ bộ ngày 21/5 diễn ra thuận lợi, không có tổn thất, nhưng đến ngày 25/5, tổng số tàu Anh bị đánh đắm đã lên tới 4 chiếc, hầu như tất cả các tàu còn lại đều bị nhiều hư hại do chiến đấu. Cái giá phải trả khá cao mặc dù đã bảo toàn được tất cả các tàu đổ bộ và tàu vận tải, nhất là các tàu chở quân đổ bộ, cũng như các tàu sân bay.
Quân Anh phải chịu những tổn thất còn là vì hệ thống tên lửa phòng không Rapier không hiệu quả. Tổn thất về tàu của Anh ở đây đã có thể nặng nề hơn vô cùng nhiều nếu bộ chỉ huy Không quân Argentina chỉ huy các lực lượng của họ khôn khéo và sáng tạo hơn.
Tuy nhiên, hoạt động tấn công bằng máy bay trên hướng chống đổ bộ, cũng giống như các hoạt động không chiến trước đó, đã làm Không quân và Hải quân Argentina tổn thất không dưới 1/3 tổng số máy bay sẵn sàng chiến đấu và mất những phi công lão luyện nhất.
Chính lúc đó, bộ chỉ huy Không quân Argentina thấy lực lượng máy bay của họ đã bị hao hụt quá nghiêm trọng và cái giá như thế cho quần đảo Falklands là không thể chấp nhận. Nhưng trước khi rời trận địa, Không quân Argentina vẫn muốn giáng đòn đau nhớ đời cho Hải quân Anh.
Chiến hạm Anh HMS Antelope nổ và chìm |
Đó là vụ đánh đắm tàu chở container Atlantic Conveyor được hoán cải thành tàu chở máy bay. Trong cuộc tập kích được lên kế hoạch hoàn hảo của các máy bay Super Eténdard của Argentina tổ chức nhân quốc khánh Argentina, chiếc tàu chở container có độ bộc lộ radar giống với tàu sân bay HMS Hermes (R12) đã trúng 2 quả tên lửa Exocet. Một quả tên lửa được dẫn vào tàu Atlantic Conveyor, quả thứ hai sau khi bị lừa dẫn khỏi tàu HMS Hermes cũng lao vào Atlantic Conveyor và đánh bồi tàu này.
Chiếc tàu chất đầy các trang bị cực kỳ giá trị đối với lực lượng viễn chinh Anh là 3 trực thăng hạng nặng Chinook, 5 trực thăng Wessex, một lượng lớn bom chùm dự trữ cho các máy bay Harrier, trang thiết bị để xây dựng nhanh đường băng ở vịnh San Carlos, một số lượng lớn phụ tùng trực thăng, hàng hóa và trang bị dự phòng. Ngoài ra, chiếc tàu chở container vốn được cải hoán riêng theo kế hoạch động viên còn là tàu sân bay thứ ba của Lực lượng đặc nhiệm Anh.
Tuy nhiên, quân Anh đã chiếm được đầu cầu và binh sĩ cùng trang bị lên bờ, vì thế việc mất tàu Atlantic Conveyor tuy là điều không hay, nhưng không phải điều quyết định.
Hải quân Anh đã bảo toàn được các tàu sân bay mà đây mới là điều chủ yếu. Mặc dù chậm trễ, các hành động của quân Anh trên bờ diễn biến khá tốt và đến giữa tháng 6, quân Argentina đã phải quy hàng.
Kinh nghiệm quý báu của cuộc chiến này được các cường quốc hải quân, đặc biệt là Mỹ, vận dụng để hoàn thiện hạm đội của mình.
Vai trò của người chỉ huy và công tác chỉ huy trong chiến dịch
Đô đốc John Woodward
|
Vai trò của người chỉ huy trong bất kỳ chiến dịch hay cuộc hành quân nào cũng đều có ý nghĩa quyết định hay gần như thế. Nhất là trong một chiến dịch phức tạp và đặc thù như thế này. Tuy nhiên, người ta cũng thấy sự xung đột giữa tiền phương chiến trường đại dương với Bộ Hải quân Anh.
Trường hợp với Đô đốc Woodward còn đặc biệt trầm trọng hơn về tâm lý bởi bối cảnh, hầu như đến cuối chiến dịch, vị trí của ông vẫn ở “trạng thái treo”, một thứ tư lệnh chiến dịch tạm quyền. Các chỉ huy cấp trên tinh quái đã để ông ở tình trạng “kiễng chân” và bất kỳ lúc nào cũng sẵn sàng thay thế ông bằng một đô đốc “hai sao” dày dạn hơn và “xứng đáng” hơn. Nhưng điều đó cũng không cản trở Bộ Hải quân Anh vắt kiệt năng lực của Woodward.
Còn nếu ông Woodward thành công, như thực tế đã diễn ra thì Bộ Hải quân Anh có cớ để khiêm tốn nói rằng, trường hợp Woodward một lần nữa khẳng định rằng, mỗi đô đốc của họ dù là trẻ nhất, khi bị bất ngờ rút từ bất kỳ vị trí nào cũng sẵn sàng cầm đầu lực lượng viễn chinh và giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh ở bất cứ đâu, dù ở tận đầu bên kia của thế giới.
Thật may là Đô đốc Woodward đã vượt qua một cách xứng đáng cả thử thách tâm lý không đơn giản này khi cho thấy những nét và phẩm chất của một đô đốc chân chính.
Vậy gánh nặng trọng trách của vị tư lệnh là thế nào? Ngay ở giai đoạn chiến khai, bão tố đã gạt phăng người ra ngoài mạn tàu, các trực thăng thì rơi xuống biển, một máy bay chở khách chút xíu nữa thì bị bắn hạ vì bị nhầm là máy bay trinh sát Argentina hàng ngày quấy nhiễu. Vị đô đốc chắc chắn vẫn run sợ nhớ lại cho đến hôm nay.
Về ông Woodward thì nay người ta thường nói rằng, ông đã dẫn dắt cuộc chiến tranh máy tính đầu tiên trong lịch sử. Điều đó có thể hiểu theo những cách khác nhau. Tác giả bài viết đương thời từng “lang thang” trên tàu ngầm nguyên tử lớp Projekt 671RTM giữa vịnh Persique và vịnh Aden, giữa Seychelles và các vùng biển lân cận, nên dễ hiểu hơn đặc điểm của vũ khí trang bị có máy tính là như thế nào, độ tin cậy ra sao.
Phức tạp một cách vô lý và còn chưa đủ tin cậy, các hệ thống này thường tùy ý làm sững sờ các chuyên gia và các cấp chỉ huy. Ở đó lại thường xuyên thiếu làm mát, đi cùng với nó là độ ẩm 100%, muối biển lập tức sùi lên trên các tiếp điểm và giắc cắm. Trong khi đó, hỏa lực bắn loạt bằng vũ khí chủ yếu và hỏa lực phòng vệ phải tiếp nối đúng lúc và không thể tránh né, chứ không phải khi các chuyên gia sẵn sàng sau khi khởi động lại hệ thống 2 lần, 4 lần. Bởi vậy, tôi sẽ không bao giờ quên các chuyên gia máy tính và thủy âm của mình, họ là những chuyên gia do Chúa ban cho. Đằng sau họ không bao giờ có sự chậm trễ hay thậm chí trở ngại nào. Ở Falklands, những vấn đề đó bị trả giá bằng sự tồn vong của các con tàu và binh sĩ. Hoàn cảnh tàu khu trục HMS Coventry (D118) bị tiêu diệt cho thấy rõ điều đó.
Vậy vị tư lệnh có thể tác động tới vấn đề này tới mức nào? Trong mọi trường hợp, người chỉ huy không thể thờ ơ mà phải liên tục kiện toàn các thành phần của thế trận chiến đấu, các thủ đoạn và phương pháp giải quyết các nhiệm vụ phòng không và phòng thủ tên lửa. Cần bắt đầu từ việc lên quyết tâm chiến dịch của vị tư lệnh trong khi hoàn toàn thiếu thông tin, mà người ta gọi là “quyết định trên yên ngựa”. Việc hầu như không nội dung nào trong quyết tâm chiến dịch bị Bộ Hải quân Anh bác bỏ nói lên chất lượng quyết tâm của tư lệnh, cũng như sau đó là công tác soạn thảo kế hoạch chiến đấu.
Việc thực hiện kế hoạch này mà không cho phép sai thời hạn quá một ngày đêm cũng bộc lộ một nét khác trong tính cách của vị tư lệnh: sự cương quyết trong thực hiện kế hoạch chiến tranh. Đằng sau sự cương quyết đó này là sự thận trọng, chính xác rất cao trong hoàn thành toàn bộ các biện pháp cho phép kịp thời chuyển sang giai đoạn hành động tiếp theo.
Người hùng Woodward 30 năm sau chiến tranh Falklands
|
Nói lên nhiều điều về tính cách và phong cách chỉ huy của vị đô đốc là thái độ của vị tư lệnh đối với những người có trách nhiệm trực tiếp hay gián tiếp về những tổn thất nặng nề của hạm đội như hạm trưởng khu trục hạm Sheffield - một ví dụ về thái độ cẩu thả vô lối - và hạm trưởng khu trục hạm HMS Coventry - bằng việc cơ động tàu không thống nhất tại thời điểm máy bay Argentina tấn công đã che khuất hướng bắn bắn của hệ thống tên lửa phòng không Sea Wolf từ tàu HMS Brilliant (F90), tạo điều kiện cho máy bay Argentina đột phá và tấn công tiêu diệt tàu HMS Coventry.
Woodward đã cho họ có quyền mệt mỏi vì chiến đấu liên miên và những hậu quả của nó. Hơn nữa, các hành động của tàu Coventry, của vị hạm trưởng và thủy thủ đoàn tàu này trước đó là không thể chê trách và dũng cảm.
Điểm nổi bật ở Woodward là việc sẵn sàng chiến đấu bằng những lực lượng sẵn có trong tay ông và cương quyết bảo vệ quan điểm của mình với cấp trên.
Sự kiên định và ý chí sắt đã của người chỉ huy nhằm đạt mục tiêu đã thể hiện đặc biệt rõ trong việc tiến hành trinh sát chống thủy lôi các tuyến đường hành quân tới điểm đổ bộ bằng các tàu chiến. Ông hiểu rằng, các sự kiện chính của cuộc chiến sẽ khai diễn sau khi đổ bộ. Cũng không thể không nhắc đến sự kiềm chế, thận trọng của vị tư lệnh Anh khi ông không hăng máu ham đánh để giữ các tàu sân bay ở ngoài tầm với của các máy bay Super Étendard của Argentina.
Để kết thúc bản phân tích về vai trò và vị trí của người chỉ huy, cần một lần nữa nhắc đến gánh nặng lịch sử của sứ mệnh cực kỳ phức tạp và trọng trách của vị tư lệnh chiến dịch Falklands. Lần đầu tiên trong 37 năm hòa bình sau chiến tranh, chính Đô đốc Woodward đã phải bảo vệ uy tín của hạm đội Anh, người thủy binh Anh và vị đô đốc Anh.
Một kết luận quan trọng nữa là hệ thống đào tạo hạm trưởng của Hải quân Anh với việc thử thách toàn diện ở nhiều vị trí phục vụ đã hoàn toàn chứng minh được giá trị của mình.
Woodward đã cho họ có quyền mệt mỏi vì chiến đấu liên miên và những hậu quả của nó. Hơn nữa, các hành động của tàu Coventry, của vị hạm trưởng và thủy thủ đoàn tàu này trước đó là không thể chê trách và dũng cảm.
Điểm nổi bật ở Woodward là việc sẵn sàng chiến đấu bằng những lực lượng sẵn có trong tay ông và cương quyết bảo vệ quan điểm của mình với cấp trên.
Sự kiên định và ý chí sắt đã của người chỉ huy nhằm đạt mục tiêu đã thể hiện đặc biệt rõ trong việc tiến hành trinh sát chống thủy lôi các tuyến đường hành quân tới điểm đổ bộ bằng các tàu chiến. Ông hiểu rằng, các sự kiện chính của cuộc chiến sẽ khai diễn sau khi đổ bộ. Cũng không thể không nhắc đến sự kiềm chế, thận trọng của vị tư lệnh Anh khi ông không hăng máu ham đánh để giữ các tàu sân bay ở ngoài tầm với của các máy bay Super Étendard của Argentina.
Để kết thúc bản phân tích về vai trò và vị trí của người chỉ huy, cần một lần nữa nhắc đến gánh nặng lịch sử của sứ mệnh cực kỳ phức tạp và trọng trách của vị tư lệnh chiến dịch Falklands. Lần đầu tiên trong 37 năm hòa bình sau chiến tranh, chính Đô đốc Woodward đã phải bảo vệ uy tín của hạm đội Anh, người thủy binh Anh và vị đô đốc Anh.
Một kết luận quan trọng nữa là hệ thống đào tạo hạm trưởng của Hải quân Anh với việc thử thách toàn diện ở nhiều vị trí phục vụ đã hoàn toàn chứng minh được giá trị của mình.
Quân Anh trên quần đảo Falklands
|
Những bài học, kết luận và tiết lộ
Những tư liệu thực tế phong phú mà kinh nghiệm cuộc chiến này mang lại đã được các cường quốc hải quân vận dụng một cách khác nhau để hoàn thiện các chương trình xây dựng hạm đội, vũ khí hải quân, các thủ đoạn và phương thức sử dụng các lực lượng của hạm đội. Điều thật kỳ lạ là vận dụng chúng ở mức độ cao nhất là Hải quân Mỹ, ở mức độ ít hơn nhiều là Hải quân Liên Xô và Hải quân Anh.
Trận chiến Falkland đã xác nhận một giả thiết rằng, một cuộc xung đột cường độ cao, trong đó dù cho một bên tham chiến là cường quốc hạt nhân, thì chắc chắn vẫn diễn ra ở phương án phi hạt nhân. Điều đó đặt ra vấn đề mức độ đủ và trình độ vũ khí trang bị có tính chiến thuật. Việc ngành đóng tàu sau Thế chiến II giải quyết vấn đề trọng lượng lâu nay bằng cách sử dụng các hợp kim nhẹ cho phần thượng tầng và các kết cấu khác của tàu sao cho với lượng giãn nước hạn chế lại có thể dành được nhiều không gian hơn cho vũ khí đã khiến lính thủy Anh phải trả giá đắt.
Trong tất cả các trường hợp tàu Anh bị tiêu diệt trong chiến đấu đều xảy ra hỏa hoạn lớn. Kim loại nhẹ của phần thượng tầng bốc cháy và tan chảy làm cho việc cứu hỏa trở nên cực kỳ khó khăn. Các vật liệu ngăn cách bằng polymer cũng không chịu được lửa.
Tỏ ra mờ nhạt đến mức đáng kinh ngạc khi so với các lực lượng khác là các tàu ngầm nguyên tử Anh, nhất là khả năng tìm kiếm mục tiêu và tấn công của chúng. Các kết luận lập tức được rút ra: nay các tên lửa chống hạm đã được triển khai ngay cả trên các tàu ngầm diesel và phi hạt nhân và được phóng từ ống phóng lôi.
Cuộc xung đột đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, mối nguy hiểm lớn nhất là các phương tiện tiến công đường không có khả năng hoạt động ở độ cao nhỏ và cực nhỏ. Toàn bộ kho tên lửa phòng không của hạm đội Anh (không dưới 4 loại) đã không thể bảo vệ chắc chắn chống các phương tiện tiến công đường không bay thấp. Không có hệ thống radar phát hiện tầm xa, hạm đội ngày nay chẳng thể làm gì trên biển.
Người Mỹ đã rút ra được kết luận nên đã chế tạo hệ thống Aegis và kiên trì cải tiến nó thành một vũ khí phòng thủ tên lửa. Nền tảng của bản thân khái niệm tác chiến của Hải quân Mỹ chính là các máy bay báo động sớm AWACS và Hawkeye liên tục bay trên đất liền và biển cả.
Những bài học của cuộc khủng hoảng đặt ra một cách thẳng thừng vấn đề về tính cấp thiết và ưu thế của các hệ thống vũ khí trước các mẫu vũ khí đơn nhất hoàn thiện nhất như một cách tiếp cận để giải quyết các nhiệm vụ chiến đấu. Khí tài bảo đảm bay đêm, radar hoàn thiện hơn và các tên lửa Mỹ Sidewinder đã bảo đảm ưu thế của máy bay Sea Harrier trên không trước các máy bay hiện đại nhất của Argentina mới mua từ Pháp, Thụy Điển và Israel.
Không lâu sau cuộc xung đột Falklands, các hệ thống trinh sát-tiến công hiệu quả cao đã xuất hiện hàng loạt ở Mỹ.
Người ta chỉ có thể nhận ra cuộc khủng hoảng về ngư lôi đã bắt đầu trong quá trình chiến sự ở Falklands. Do không tự tin vào độ tin cậy của các ngư lôi mới Tigerfish, Hải quân Anh đã phải dùng ngư lôi МК-8 thời Thế chiến II tấn công mục tiêu duy nhất bị đánh chìm bằng vũ khí tàu ngầm. Ở phía bên kia, chiếc tàu ngầm của Argentina trang bị ngư lôi МК-37 của Mỹ cũng liên tục thất bại với vũ khí ngư lôi.
Thực tế cho thấy hiệu quả chống ngầm của lực lượng đặc nhiệm Anh thấp một cách bất ngờ. Một tàu ngầm Argentina đã chạy lang thang khá lâu giữa các hạm tàu Anh và thậm chí còn định tấn công chúng mà không ai phát hiện được!
Kinh nghiệm đó có ý nghĩa gì đối với Hải quân Liên Xô hồi đó và Hải quân Nga hiện nay? Không được quên là Hải quân Liên Xô/Nga và hạm đội Anh có một điểm chung là cả hai đều giải quyết vấn đề cực kỳ trọng yếu là “không quân hóa” theo cùng một cách. Chỉ có Anh và Liên Xô là thành công trong việc chế tạo máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng đứng và đường băng ngắn. Ngay cả Mỹ với tiềm lực hàng không-vũ trụ vô hạn cũng đành chịu thất bại trong lĩnh vực này. Điều đó đã mang lại những lợi ích chưa từng có trong lĩnh vực vũ khí hải quân.
Việc lao vào cuộc chạy đua mệt mỏi, tốn kém và nói chung là vô vọng nhằm đóng và trang bị cho các tàu sân bay khổng lồ trở nên không còn cần thiết nữa. Vấn đề xây dựng một hạm đội cân đối trong một quãng thời gian đáng kể đã có được cơ hội hiện thực hóa gần như ở phương án động viên.
Một máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng vốn được cho là không phải là máy bay chiến đấu đúng nghĩa khi hoạt động trong một hệ thống đã dễ dàng giành ưu thế trước các máy bay chiến đấu “thật sự” của đối phương. Dĩ nhiên, Harrier của Anh đã tỏ ra thành công hơn nhiều Yak-38 của Liên Xô trước hết nhờ động cơ duy nhất mạnh mẽ. Nhưng Liên Xô cũng từng tiến gần đến việc có được không chỉ những máy bay loại này tốt nhất, mà còn là máy bay siêu âm có triển vọng to lớn.
Tính không nhất quán đáng sợ trong xây dựng hạm đội Nga xuất phát từ một cơ cấu sai lệch cuối cùng đã không cho phép Hải quân Nga có được lực lượng không quân trên hạm như một binh chủng thường trực và cuối cùng là đạt được sự cân đối hằng mong muốn. Cuộc sống cho thấy, thế giới đang trở lại với ý tưởng này.
Hạm đội Hoàng gia Anh sẽ cực kỳ hùng mạnh với việc đưa vào biên chế tàu sân bay mới Queen Elizabeth, các khu trục hạm Type 45 (Daring) và các tàu ngầm nguyên tử đa năng mới với trang bị vũ khí mới. Bởi lẽ, Hải quân Anh vẫn được trang bị một tư duy hải quân tiên tiến nhất, điều được khẳng định một cách thuyết phục bởi kết quả của cuộc xung đột Falklands.
Những tư liệu thực tế phong phú mà kinh nghiệm cuộc chiến này mang lại đã được các cường quốc hải quân vận dụng một cách khác nhau để hoàn thiện các chương trình xây dựng hạm đội, vũ khí hải quân, các thủ đoạn và phương thức sử dụng các lực lượng của hạm đội. Điều thật kỳ lạ là vận dụng chúng ở mức độ cao nhất là Hải quân Mỹ, ở mức độ ít hơn nhiều là Hải quân Liên Xô và Hải quân Anh.
Trận chiến Falkland đã xác nhận một giả thiết rằng, một cuộc xung đột cường độ cao, trong đó dù cho một bên tham chiến là cường quốc hạt nhân, thì chắc chắn vẫn diễn ra ở phương án phi hạt nhân. Điều đó đặt ra vấn đề mức độ đủ và trình độ vũ khí trang bị có tính chiến thuật. Việc ngành đóng tàu sau Thế chiến II giải quyết vấn đề trọng lượng lâu nay bằng cách sử dụng các hợp kim nhẹ cho phần thượng tầng và các kết cấu khác của tàu sao cho với lượng giãn nước hạn chế lại có thể dành được nhiều không gian hơn cho vũ khí đã khiến lính thủy Anh phải trả giá đắt.
Trong tất cả các trường hợp tàu Anh bị tiêu diệt trong chiến đấu đều xảy ra hỏa hoạn lớn. Kim loại nhẹ của phần thượng tầng bốc cháy và tan chảy làm cho việc cứu hỏa trở nên cực kỳ khó khăn. Các vật liệu ngăn cách bằng polymer cũng không chịu được lửa.
Tỏ ra mờ nhạt đến mức đáng kinh ngạc khi so với các lực lượng khác là các tàu ngầm nguyên tử Anh, nhất là khả năng tìm kiếm mục tiêu và tấn công của chúng. Các kết luận lập tức được rút ra: nay các tên lửa chống hạm đã được triển khai ngay cả trên các tàu ngầm diesel và phi hạt nhân và được phóng từ ống phóng lôi.
Cuộc xung đột đã chứng minh một cách hùng hồn rằng, mối nguy hiểm lớn nhất là các phương tiện tiến công đường không có khả năng hoạt động ở độ cao nhỏ và cực nhỏ. Toàn bộ kho tên lửa phòng không của hạm đội Anh (không dưới 4 loại) đã không thể bảo vệ chắc chắn chống các phương tiện tiến công đường không bay thấp. Không có hệ thống radar phát hiện tầm xa, hạm đội ngày nay chẳng thể làm gì trên biển.
Người Mỹ đã rút ra được kết luận nên đã chế tạo hệ thống Aegis và kiên trì cải tiến nó thành một vũ khí phòng thủ tên lửa. Nền tảng của bản thân khái niệm tác chiến của Hải quân Mỹ chính là các máy bay báo động sớm AWACS và Hawkeye liên tục bay trên đất liền và biển cả.
Những bài học của cuộc khủng hoảng đặt ra một cách thẳng thừng vấn đề về tính cấp thiết và ưu thế của các hệ thống vũ khí trước các mẫu vũ khí đơn nhất hoàn thiện nhất như một cách tiếp cận để giải quyết các nhiệm vụ chiến đấu. Khí tài bảo đảm bay đêm, radar hoàn thiện hơn và các tên lửa Mỹ Sidewinder đã bảo đảm ưu thế của máy bay Sea Harrier trên không trước các máy bay hiện đại nhất của Argentina mới mua từ Pháp, Thụy Điển và Israel.
Không lâu sau cuộc xung đột Falklands, các hệ thống trinh sát-tiến công hiệu quả cao đã xuất hiện hàng loạt ở Mỹ.
Người ta chỉ có thể nhận ra cuộc khủng hoảng về ngư lôi đã bắt đầu trong quá trình chiến sự ở Falklands. Do không tự tin vào độ tin cậy của các ngư lôi mới Tigerfish, Hải quân Anh đã phải dùng ngư lôi МК-8 thời Thế chiến II tấn công mục tiêu duy nhất bị đánh chìm bằng vũ khí tàu ngầm. Ở phía bên kia, chiếc tàu ngầm của Argentina trang bị ngư lôi МК-37 của Mỹ cũng liên tục thất bại với vũ khí ngư lôi.
Thực tế cho thấy hiệu quả chống ngầm của lực lượng đặc nhiệm Anh thấp một cách bất ngờ. Một tàu ngầm Argentina đã chạy lang thang khá lâu giữa các hạm tàu Anh và thậm chí còn định tấn công chúng mà không ai phát hiện được!
Kinh nghiệm đó có ý nghĩa gì đối với Hải quân Liên Xô hồi đó và Hải quân Nga hiện nay? Không được quên là Hải quân Liên Xô/Nga và hạm đội Anh có một điểm chung là cả hai đều giải quyết vấn đề cực kỳ trọng yếu là “không quân hóa” theo cùng một cách. Chỉ có Anh và Liên Xô là thành công trong việc chế tạo máy bay chiến đấu cất/hạ cánh thẳng đứng và đường băng ngắn. Ngay cả Mỹ với tiềm lực hàng không-vũ trụ vô hạn cũng đành chịu thất bại trong lĩnh vực này. Điều đó đã mang lại những lợi ích chưa từng có trong lĩnh vực vũ khí hải quân.
Việc lao vào cuộc chạy đua mệt mỏi, tốn kém và nói chung là vô vọng nhằm đóng và trang bị cho các tàu sân bay khổng lồ trở nên không còn cần thiết nữa. Vấn đề xây dựng một hạm đội cân đối trong một quãng thời gian đáng kể đã có được cơ hội hiện thực hóa gần như ở phương án động viên.
Một máy bay cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng vốn được cho là không phải là máy bay chiến đấu đúng nghĩa khi hoạt động trong một hệ thống đã dễ dàng giành ưu thế trước các máy bay chiến đấu “thật sự” của đối phương. Dĩ nhiên, Harrier của Anh đã tỏ ra thành công hơn nhiều Yak-38 của Liên Xô trước hết nhờ động cơ duy nhất mạnh mẽ. Nhưng Liên Xô cũng từng tiến gần đến việc có được không chỉ những máy bay loại này tốt nhất, mà còn là máy bay siêu âm có triển vọng to lớn.
Tính không nhất quán đáng sợ trong xây dựng hạm đội Nga xuất phát từ một cơ cấu sai lệch cuối cùng đã không cho phép Hải quân Nga có được lực lượng không quân trên hạm như một binh chủng thường trực và cuối cùng là đạt được sự cân đối hằng mong muốn. Cuộc sống cho thấy, thế giới đang trở lại với ý tưởng này.
Hạm đội Hoàng gia Anh sẽ cực kỳ hùng mạnh với việc đưa vào biên chế tàu sân bay mới Queen Elizabeth, các khu trục hạm Type 45 (Daring) và các tàu ngầm nguyên tử đa năng mới với trang bị vũ khí mới. Bởi lẽ, Hải quân Anh vẫn được trang bị một tư duy hải quân tiên tiến nhất, điều được khẳng định một cách thuyết phục bởi kết quả của cuộc xung đột Falklands.
http://vietnamdefence.com/Home/khqs/chientranhxungdot/Chien-tranh-Falklands-Vai-tro-cua-tu-lenh-chien-dich-va-nhung-bai-hoc-2/201210/52022.vnd
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét