Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Chiến tranh Trung-Mỹ: Nỗi kinh hoàng của châu Á

Lược trích:


"... Châu Á hiện đang xuất hiện mầm mống của sự ngộ nhận lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc. Hai bên đang có nguy cơ lao vào một cuộc đối đầu khi những hành vi gây hấn của Trung Quốc trở nên trắng trợn hơn nhằm vào các nước láng giềng, thách thức những cam kết của Mỹ.

Cả hai đều nghĩ rằng bên kia sẽ nhượng bộ để tránh một cuộc đụng độ, nhưng nhiều tín hiệu cho thấy Mỹ và Trung Quốc đang sai lầm với suy nghĩ này..."

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Làm thế nào mà những điều tưởng chừng như không thể lại có thể xảy ra? Thế giới đang chuẩn bị tưởng niệm 100 năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, những vấn đề về một cuộc chiến tranh bất ngờ như hồi đó đang hiện ra rõ mồn một.

Mỹ và Trung Quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau trong hệ thống thương mại quốc tế ở khu vực Thái Bình Dương. Do đó, một số học giả cho rằng mối quan hệ đó sẽ khiến cho chiến tranh không bao giờ có thể xảy ra, nhưng một số khác lại cho rằng chẳng có gì là không thể, như những gì đã xảy ra ở Thế chiến thứ nhất.

Bài viết này của Phó Giáo sư Robert Farley tại trường Thương mại Quốc tế và Ngoại giao Patterson (Mỹ) sẽ không tập trung vào những chi tiết mang tính chiến thuật và chiến dịch của cuộc chiến Mỹ-Trung Quốc, mà sẽ tập trung nhiều hơn vào những mục tiêu chiến lược của hai đối thủ chính trước, trong và sau xung đột. Một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ thay đổi một số yếu tố địa chính trị tại khu vực châu Á, nhưng một số nhân tố chủ chốt sẽ không bao giờ thay đổi. 

Chiến đấu cơ của Mỹ.

15 năm trước đây, câu trả lời duy nhất cho câu hỏi “Làm thế nào xảy ra cuộc chiến giữa Trung Quốc và Mỹ” liên quan tới tranh chấp về vấn đề Đài Loan hay bán đảo Triều Tiên. Tuyên bố độc lập của Đài Loan, cuộc tấn công của CHDCND Triều Tiên nhằm vào Hàn Quốc, hoặc một số sự kiện tương tự buộc Trung Quốc và Mỹ miễn cưỡng lao vào cuộc chiến.

Hiện nay câu trả lời đã thay đổi, sự mở rộng về khả năng và lợi ích của Trung Quốc có nghĩa là chúng ta có thể hình dung một số kịch bản khác nhau trong đó xung đột quân sự trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc có thể xảy ra. Những kịch bản này vẫn bao gồm kịch bản Đài Loan và Triều Tiên, nhưng hiện nay còn bao gồm cả kịch bản tranh chấp trên biển Đông và biển Hoa Đông, cũng như xung đột tiềm tàng với Ấn Độ dọc biên giới Tây Tạng.

Nhân tố cơ bản là sự trỗi dậy của Trung Quốc, người Trung Quốc không hài lòng với hệ thống an ninh khu vực do Mỹ lãnh đạo và những cam kết của Mỹ với nhiều quốc gia trong khu vực. Khi nào những nhân tố trên còn tồn tại thì nguy cơ của một cuộc chiến tranh vẫn còn.

Điều gì sẽ châm ngòi cho chiến tranh, cuộc chiến sẽ không bắt đầu với một cuộc tấn công chiếm ưu thế của Mỹ chống lại hạm đội và những căn cứ trên không trên bộ của Trung Quốc. Mặc dù quân đội Mỹ sẽ tìm cách phá hủy những thiết bị chống tiếp cận của Trung Quốc trước khi chúng có thể xác định mục tiêu là các máy bay, các căn cứ, các tàu chiến Mỹ, thì Washington cũng thật khó để chấp nhận một kịch bản, theo đó Mỹ sẽ chịu những chi phí tiềm năng liên quan tới sự leo thang căng thẳng.

Thay vào đó, Mỹ cần chuẩn bị để thích nghi với đòn đánh đầu tiên. Điều đó không có nghĩa là Hải quân (USN) và Không quân (USAF) Mỹ phải ngồi đợi những quả tên lửa Trung Quốc nã vào đầu mình, mà Mỹ cần những tín hiệu rõ ràng, công khai về ý định của Trung Quốc trong việc leo thang tới một cuộc chiến quân sự thông thường hay cường độ cao trước khi bắt đầu cuộc chiến thực sự.

Tuy nhiên, quân đội Trung Quốc (PLA) sẽ không cho phép Mỹ huy động lực lượng đầy đủ để phát động đòn tấn công đầu tiên hoặc sẵn sàng chịu đựng một cuộc tấn công. Bên cạnh đó, một cú đánh “bất thình lình” là không chắc chắn. Thay vào đó, việc tích tụ khủng hoảng chắc chắn sẽ leo thang sang một số lĩnh vực khác, cuối cùng những hành động của quân đội Mỹ sẽ cho Bắc Kinh thấy rằng Washington thật sự đang chuẩn bị cho một cuộc chiến. Những hành động này bao gồm sự di chuyển của các tàu sân bay, chuyển sự triển khai lực lượng từ châu Âu và Trung Đông sang châu Á, và di chuyển các đội tàu chiến tới Thái Bình Dương. Ngay lúc đó, Trung Quốc sẽ cần phải quyết định xem nên tiến lên lay rút lui.

Về mặt kinh tế, cả Bắc Kinh và Washington sẽ tiến hành các biện pháp trừng phạt (Mỹ có thể viện đến các hành động đa phương), và sẽ đóng băng các tài sản của nhau, cũng như của các đồng minh thuộc phía bên kia. Điều này sẽ gây ra tổn hại về kinh tế cho người tiêu dùng ở khu vực Thái Bình Dương và phần còn lại của thế giới. Mối đe dọa về một cuộc chiến cường độ cao sẽ cản trở việc lưu thông hàng hóa toàn cầu, dẫn đến sự đình trệ trong ngành công nghiệp sản xuất.
  

Theo Giáo sư Robert Farley, các đồng minh có ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống lại Trung Quốc hay không phụ thuộc vào cách cuộc chiến bắt đầu. Nếu cuộc chiến nổ ra liên quan đến bán đảo Triều Tiên, Mỹ có thể hy vọng vào sự hỗ trợ của Hàn Quốc và Nhật Bản. Nếu chiến tranh liên quan đến biển Hoa Đông, chắc chắn sẽ có sự tham gia của Tokyo. Nếu các sự kiện ở Biển Đông dẫn đến xung đột, Mỹ có thể dựa vào một số đồng minh của mình ở Đông Nam Á, cũng như Nhật Bản. Ausralia có thể cũng hỗ trợ cho Mỹ trong những tình huống cụ thể.
Có lẽ khoảnh khắc lưu ý thứ nhất là khi quân đội Trung Quốc (PLA) tiến hành tấn công tàu sân bay Mỹ. Bắc Kinh thực hiện điều này nhằm chống lại một cuộc tấn công hạt nhân chớp nhoáng của Washington. Nếu Trung Quốc quyết định tấn công tàu sân bay Mỹ có nghĩa là cuộc xung đột sẽ không còn liên quan gì tới việc gửi đi các thông điệp, mà là sự vận dụng tất cả các hình thức và thủ đoạn để đánh bại và phá hủy lực lượng quân sự đối phương.

Tàu sân bay của Mỹ.

Một cuộc tấn công được phát động từ tàu chiến hay tàu ngầm của Mỹ sẽ nhận được sự đáp trả từ Trung Quốc. Tình huống nguy hiểm nhất có lẽ là khi tên lửa đạn đạo Trung Quốc tấn công tàu sân bay Mỹ. Điều này không đơn giản bởi vì các tên lửa đó khó bị đánh chặn, mà còn bởi những tên lửa như thế có thể mang đầu đạn hạt nhân. Một viễn cảnh về một quốc gia hạt nhân sử dụng tên lửa đạn đạo thông thường chống lại một quốc gia hạt nhân khác, đặc biệt một nước có lợi thế về hạt nhân, thì vấn đề sẽ trở nên vô cùng nguy hiểm và phức tạp.

Khoảnh khắc "nín thở" tiếp theo sẽ là khi tên lửa đầu tiên của Mỹ tấn công những mục tiêu Trung Quốc. Trong bất cứ một kịch bản chiến tranh cường độ cao nào, hải quân và không quân Mỹ sẽ coi các tàu chiến Trung Quốc như là mục tiêu đáng để tiêu diệt và sẽ tấn công bằng những phương tiện trên không và trên biển. Trên thực tế, dù có ẩn náu trong cảng thì cũng không ngăn cản được những cuộc tấn công nhằm vào những tàu lớn nhất của PLA, bao gồm tàu sân biên Liêu Ninh và các bến cảng đổ bộ mới.

Theo hầu hết các kịch bản chiến tranh, Trung Quốc cần chiến đấu cho một số mục tiêu tiên quyết, không đơn giản chỉ là tiêu diệt lực lượng quân sự của Mỹ hay Nhật Bản. Nghĩa là PLA phải tiến hành can thiệp, bảo đảm và phòng vệ một số mục tiêu địa lý, như là Đài Loan hoặc một tiền đồn ngoài Biển Đông hay biển Hoa Đông. PLA cần phải tạo ra những điều kiện để có thể tiển hành các nhiệm vụ hỗ trợ trên biển.

Ai sẽ là người chiến thắng?

Vấn đề khó khăn nhất đối với các học giả là “ai là người chiến thắng” trong kịch bản trên. Bởi vì vấn đề đó quyết định một loạt vấn đề khác có liên quan. Không ai biết tên lửa đạn đạo chống tàu của Trung Quốc hoạt động như thế nào, không biết những cuộc tấn công mạng đối với PLA sẽ phát huy hiệu quả ra sao, máy bay F-22 sẽ gây nguy hiểm thế nào với những binh sĩ Trung Quốc hay những nhân tố khác nhau của PLA sẽ phát huy hiệu quả thế nào khi kết hợp trong một cuộc chiến thực sự. Cuối cùng, không ai biết khi nào cuộc chiến bắt đầu, cả quân đội Mỹ và PLA sẽ khác đi rất nhiều vào năm 2020 so với những gì họ có trong năm 2014.

Tuy nhiên, xét về mặt hình thức thì cuộc chiến tranh có thể được biểu hiện trên một số lĩnh vực:

1. Tác chiến điện tử

Làm thế nào mà Mỹ có thể phá hủy nặng nề hệ thống thông tin liên lạc Trung Quốc, các thiết bị điện tử và khả năng do thám? Cuộc tấn công của các lực lượng Mỹ phụ thuộc vào sự liên lạc giữa người đi săn và người quan sát. Nếu Mỹ có thể làm gián đoạn mạng lưới thông tin của Trung Quốc, nó có thể làm suy yếu PLA. Ngược lại cuộc chiến tranh mạng của Trung Quốc nhằm vào Mỹ có thể gia tăng sự đe dọa đối với các nhà hoạch định chính sách Mỹ.

2. Tên lửa và hệ thống phòng thủ

Làm thế nào để hải quân và không quân Mỹ có thể đánh chặn được tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình của Trung Quốc? Khả năng sống sót của Mỹ sau sự tấn công dữ dội phụ thuộc một phần vào hiệu quả phòng vệ chống lại tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình, cũng như khả năng tấn công và tiêu diệt các bệ phóng trong và quanh Trung Quốc.

3. Các hoạt động phối hợp

 Làm thế nào để các thành phần khác nhau của PLA có thể kết hợp cùng nhau trong bối cảnh những hoạt động quân sự bị phân tán và ở cường độ cao? Không giống như quân đội Mỹ, PLA có ít kinh nghiệm chiến đấu trong 3 thập kỷ qua. Như vậy, Chiến lược Tác chiến không-biển của Mỹ phải triển khai như thế nào để hải quân và không quân Trung Quốc khó có thể phối hợp tốt được với nhau.

4. Chất lượng với số lượng

Quân đội Trung Quốc có vẻ như là có được ưu thế về số lượng trong một số lĩnh vực như tàu ngầm và máy bay. Khoảng cách công nghệ và huấn luyện giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ quyết định bên nào có thể sống sót và chiến thắng trong những tình huống đối đầu trực tiếp.

Máy bay chiến đấu của Trung Quốc.

Chiến tranh kết thúc thế nào?

Cuộc chiến này sẽ không kết thúc nếu chỉ có các tàu chiến bị phá hủy. Thay vào đó, nó kết thúc khi một bên bị đánh bại, cay đắng và có vẻ như đang chuẩn bị cho cuộc chiến tiếp theo. Kịch bản tốt nhất cho một chiến thắng của Mỹ có thể là một kết quả tương tự như sự sụp đổ của chính phủ hoàng gia Đức khi kết thúc Chiến tranh thế giới I hoặc sự sụp đổ của chính phủ quân sự Leopoldo Galtier sau cuộc xung đột Falkland giữa Anh và Argentina năm 1982. Tuy nhiên, đây là một điều không chắc chắn và Mỹ không nên hy vọng vào một chiến thắng dễ dàng. 

Vậy điều gì xảy ra nếu Trung Quốc giành chiến thắng? Trung Quốc có thể tuyên bố chiến thắng bằng cách buộc Mỹ phải điều chỉnh những mục tiêu của mình hoặc rời bỏ những cấu trúc liên minh mà Washington đã thúc đẩy và hợp pháp hóa các hành động của Mỹ. Mỹ không thể tiếp tục cuộc chiến nếu Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Philippines không còn lợi ích trong cuộc chiến. Cả hai điều trên đều gây thiệt hại nghiêm trọng tới quân đội và tiềm năng nền kinh tế Mỹ.

Tác động của sự thất bại đối với nền chính trị trong nước Mỹ thì rất khó đoán. Mỹ đã từng thất bại trong một số cuộc chiến tranh trong quá khứ. Làm sao để có thể giải thích cho người dân Mỹ khi quân đội của họ đã để chiến thắng rơi vào tay một đối thủ cạnh tranh ngang tầm, đặc biệt nữa là đối thủ cạnh tranh đó lại tiếp tục phát triển cả về sức mạnh kinh tế và quân sự. Tổng thống và đảng chính trị đưa Mỹ vào cuộc chiến sẽ phải chịu chỉ trích nặng nề từ các cử tri.

Tuy nhiên, thách thức về chính trị và ngoại giao lớn nhất mà cả hai nước phải đối mặt sẽ là việc tìm cách cho phía đối phương từ bỏ trong khi vẫn bảo đảm danh dự cho họ. Không nước nào có lợi nếu cuộc chiến này trở thành một cuộc đấu tranh cho sự tồn tại của chính quyền hay cho uy tín của quốc gia.

Châu Á hiện đang xuất hiện mầm mống của sự ngộ nhận lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc. Hai bên đang có nguy cơ lao vào một cuộc đối đầu khi những hành vi gây hấn của Trung Quốc trở nên trắng trợn hơn nhằm vào các nước láng giềng, thách thức những cam kết của Mỹ.

Cả hai đều nghĩ rằng bên kia sẽ nhượng bộ để tránh một cuộc đụng độ, nhưng nhiều tín hiệu cho thấy Mỹ và Trung Quốc đang sai lầm với suy nghĩ này.

Giáo sư Robert Farley cho rằng viễn cảnh về một cuộc xung đột giữa Mỹ và Trung Quốc trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương phụ thuộc vào sự đánh giá cơ bản về sự cân bằng đang thay đổi trong sức mạnh kinh tế và chính trị. Trong quá khứ, Chiến tranh thế giới lần thứ I không thể thay đổi hiện thực rằng Đức vẫn là quốc gia mạnh nhất và lớn nhất ở trung tâm của châu Âu. Tương tự như vậy, chiến tranh giữa Washington và Bắc Kinh không thể thay đổi đường đi trong dài hạn về sự phát triển và khẳng định của Trung Quốc.

Chìa khóa đối với hòa bình trong khu vực liên quan tới việc tái lập mối quan hệ kinh tế hiệu quả giữa Trung Quốc, Mỹ và phần còn lại của Thái Bình Dương. Nếu chiến tranh nổ ra, chắc chắn nó sẽ cản trở thương mại và đầu tư trên toàn thế giới. Nếu cả hai bên quyết định tấn công các tàu thương mại, thì ảnh hưởng của nó khó có thể tính toán hết được, tác động đến cả những nước không có lợi ích trực tiếp trong cuộc chiến.

Tuy nhiên, chính phủ của cả Mỹ và Trung Quốc sẽ phải đối mặt với những sức ép mạnh mẽ nhằm tạo điều kiện thuận lợi phục hồi các mối quan hệ thương mại, ít nhất là đối với các hàng hóa thiết yếu.


Máy bay chiến đấu F-16 của Mỹ.
Máy bay chiến đấu F-16 của Mỹ.

Trung Quốc sẽ không mấy khó khăn cho việc tái thiết sau chiến tranh. Thậm chí nếu Mỹ có hủy diệt hiệu quả Hải quân (PLAN) và Không quân Trung Quốc (PLAAF), thì nền công nghiệp đóng tàu và hàng hải Trung Quốc, có thể với sự giúp đỡ từ phía Nga, sẽ bổ sung hầu hết những mất mát đó trong vòng một thập kỷ. Trên thực tế, những tổn thất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh có thể giúp khôi phục cả ngành công nghiệp hàng hải và đóng tàu của Nga. Hơn nữa, nếu cần chiến tranh sẽ hiện đại hóa PLAN và PLAAF bằng cách phá hủy những di sản cũ kỹ. Một hạm đội tàu và máy bay mới sẽ thay thế cho lực lượng cũ.

Mỹ có thể phải mất nhiều thời gian và khó khăn hơn trong thời kỳ hậu chiến, không chỉ vì tàu chiến và máy bay Mỹ có giá trị cao hơn của Trung Quốc. Việc sản xuất máy bay F-15 và F-16 gần như đã kết thúc, và Mỹ không còn sản xuất F-22. Hơn nữa, nền công nghiệp đóng tàu của Mỹ đã suy giảm tới mức để thay thể những tàu bị thiệt hại trong chiến tranh sẽ phải cần rất nhiều thời gian. Điều này cũng đặt ra một vấn đề nan giải là, hiện Mỹ đang có kế hoạch đưa F-35 vào phục vụ và trở thành lực lượng nòng cốt của Lầu Năm Góc, nếu chiến tranh nổ ra và F-35 bộ lộ những điểm hạn chế thì coi như kế hoạch của Mỹ bị sụp đổ hoàn toàn.

Dù chiến thắng hay thất bại, Mỹ sẽ phải hứng chịu những thiệt hại đáng kể về kinh tế và quân sự. Thậm chí nếu Mỹ giành chiến thắng, nó cũng không giải quyết được vấn đề Trung Quốc. Xét về tiềm năng, chiến thắng sẽ củng cố hệ thống đồng minh do Mỹ lãnh đạo, khiến cho chi phí trong chính sách ngăn chặn Trung Quốc của Washington sẽ giảm đi. Giả sử rằng chiến tranh bắt đầu với việc Trung Quốc khẳng định yêu sách của mình trên biển Đông và biển Hoa Đông, Mỹ sẽ “tô vẽ” Trung Quốc như một kẻ xâm lược và tự xem mình là tiêu điểm để cân bằng các hành vi trong khu vực. Sự gây hấn của Trung Quốc cũng có thể thúc đẩy các đồng minh trong khu vực (đặc biệt là Nhật Bản) tăng chi tiêu quốc phòng.

Một cuộc chiến có thể tiếp thêm sinh lực cho chính phủ và xã hội Mỹ trong việc kiềm chế Trung Quốc lâu dài. Mỹ có thể đáp trả bằng cách tăng cường nỗ lực nhằm vượt xa quân đội Trung Quốc, mặc dù điều này sẽ kích động một cuộc chạy đua vũ trang mà có thể phương hại tới cả hai bên.

Cuối cùng, Mỹ có thể lựa chọn bằng cách tự tách mình ra khỏi chiến trường châu Á, ít nhất là về mặt quân sự. Sự lựa chọn này có thể là rất khó khăn đối với nhiều người Mỹ, khi mà những những nhà hoạch định chính sách đối ngoại Mỹ ở những thế hệ tiếp theo buộc phải "che giấu" tham vọng bá chủ của mình.

Khả năng về một cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn còn bỏ ngỏ. Để ngăn chặn cuộc chiến đòi hỏi kỹ năng bao quát và sự nhạy cảm về mặt ngoại giao của những nhà hoạch định chính sách tại Washington và Bắc Kinh. Tương tự như vậy, vấn đề ai thắng ai sẽ tiếp tục đè nặng lên nền ngoại giao, quân sự và những nguồn lực công nghệ của hai nước trong tương lai gần. Tuy nhiên, không được quên rằng Trung Quốc và Mỹ là trung tâm của một trong những khu vực kinh tế hiệu quả nhất trên thế giới. Đó là những gì cần phải được duy trì và bảo vệ.

Theo Công Thuận
Baotintuc.vn/N.I
http://thegioi.baotintuc.vn/phan-tichnhan-dinh/chien-tranh-trungmy-noi-kinh-hoang-cua-chau-a-ky-2-20140612144504034.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét