Alexander Khramchikhin A, Phó Giám đốc Viện Phân tích Chính trị và quân sự Nga, là tác giả của hàng trăm bài báo về chính sách đối ngoại và về các vấn đề quốc phòng. Bài báo dưới đây của Alexander Khramchikhin nói về lực lượng vũ trang Trung Quốc từ các nguồn tin của phương Tây.
Phần I: Tổng quan
Việc nghiên cứu và tìm hiểu về Quân đội giải phóng nhân dân Trung quốc (QĐGPNDTQ - tên gọi chính thức của lực lượng vũ trang Trung Quốc) rất khó khăn vì mọi thông tin về tổ chức này bị “đóng kín” hơn nhiều so với các lĩnh vực kinh tế và xã hội của một đất nước khá khép kín. Chỉ có các thông tin công khai về các cơ quan lãnh đạo cao nhất và cấu trúc chung của QĐGPNDTQ (các quân, binh chủng và các quân khu theo lãnh thổ). Vì thế, nguồn các thông tin chi tiết về QĐGPNDTQ chủ yếu có được từ các nguồn tin tình báo của phương Tây.
Ủy ban Quân sự Trung ương UBQSTƯ (có quyền hạn xây dựng các bộ luật trong lĩnh vực quân sự) thực hiện việc lãnh đạo QĐGPNDTQ. Về hình thức UBQSTƯ độc lập với Đảng và trực thuộc Hội nghị đại biểu nhân dân Trung quốc (Quốc hội). Tuy nhiên, UBQSTƯ và Quân ủy trung ương của Đảng cộng sản Trung quốc (ĐCSTQ) theo thông lệ thường do cùng một người lãnh đạo. Thành phần của các cơ quan này theo Hiến pháp năm 1982 cũng hoàn toàn giống nhau. Chức vụ Chủ tịch UBQSTƯ trên thực tế được coi là chức vụ quan trọng nhất ở Trung Quốc. Chỉ sau khi nắm giữ được chức vụ này mới có thể được coi là nhà lãnh đạo thật sự của đất nước. Trong thành phần Ban chấp hành trung ương ĐCSTQ lực lượng cán bộ trung cao cấp quân đội chiếm trên 20%. QĐGPNDTQ, đặt dưới lãnh đạo của ĐCSTQ, không chỉ để bảo vệ đất nước khỏi kẻ thù bên ngoài, mà còn để giải quyết các vấn đề nội bộ của Trung quốc.
UBQSTƯ lãnh đạo bốn quân chủng (lực lượng hạt nhân chiến lược, lục quân, không quân, hải quân) và bảy quân khu (Bộ chỉ huy các quân khu đặt ở Bắc Kinh, Thẩm Dương, Tế Nam, Nam Kinh , Lan Châu, Quảng Châu và Thành Đô), thông qua Bộ Tổng tham mưu và ba Tổng cục (chính trị, hậu cần, trang bị). Riêng lực lượng hạt nhân chiến lược do UBQSTƯ trực tiếp lãnh đạo. Việc di chuyển lực lượng giữa các quân khu và di chuyển lực lượng trên một tiểu đoàn phải được UBQSTƯ cho phép.
Bộ quốc phòng nằm trong thành phần của Hội đồng Nhà nước (chính phủ), thực hiện việc lãnh đạo hàng ngày lực lượng vũ trang. Tổng cục chính trị lãnh đạo công tác đảng và tuyên truyền giáo dục trong quân đội. Tổ chức đảng có ở tất cả các đơn vị QĐGPNDTQ. Không có chữ ký của chính trị viên thì không một mệnh lệnh nào, kể cả mệnh lệnh chiến đấu, là có hiệu lực.
Quân đội Trung Quốc được tổ chức theo luật nghĩa vụ quân sự. Tuổi nhập ngũ là 18 tuổi. Thời hạn nghĩa vụ quân sự là 2 năm. Do quá dư thừa nguồn gọi nhập ngũ nên việc tuyển quân mang tính chọn lọc. Quân đội có điều kiện tuyển chọn những thanh niên tốt nhất vào quân đội. Trong quân đội Trung quốc cũng có một bộ phận quân nhân làm việc theo hợp đồng, thời gian từ 3 đến 30 năm.
Về số lượng, lực lượng vũ trang Trung quốc đã giảm dần từ 4.238.000 người vào năm 1985 xuống còn 2.300.000 người vào năm 2006.
Đàn ông từ 18 đến 35 tuổi, không được gọi nhập ngũ, sẽ tham gia lực lượng dự bị trong hệ thống dân quân tự vệ. Lực lượng dự bị hiện nay có số lượng là 36,5 triệu người.
Cảnh sát vũ trang nhân dân Trung quốc, được thành lập tháng 6 năm 1982, là lực lượng thực hiện các nhiệm vụ nội bộ của Trung quốc (bảo vệ biên giới, bảo vệ các cơ quan nhà nước, các cơ sở kinh tế, nhà tù, đảm bảo ổn định nội bộ..v..v..). Cảnh sát vũ trang nhân dân có 1,5 triệu người. Một số đơn vị quân đội được chuyển sang lực lượng này, bao gồm cả một số sư đoàn bộ binh. Sự phân chia chức năng nhiệm vụ giữa quân đội, cảnh sát vũ trang nhân dân và lực lượng dân quân tự vệ hình thành trên cơ sở quan điểm xây dựng “hệ thống tam đồng lực lượng vũ trang” từ năm 1983, một phần của học thuyết quân sự Trung Quốc.
Trung Quốc đang nhanh chóng tăng chi phí quân sự nhằm nâng cao khả năng chiến đấu của quân đội Trung Quốc trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao. Tốc độ tăng chi phí quân sự là 1,5-2 lần cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP 14-18% hàng năm của Trung quốc. Nếu năm 2001 chi phí quân sự là 17,4 tỷ đô la, thì năm 2009 chi phí quân sự của Trung quốc đã đạt tới con số 70,2 tỷ đô la. Không những thế, tất cả các nhà nghiên cứu nước ngoài đều cho rằng con số chính thức về chi phí quân sự của Trung quốc đã bị hạ thấp so với thực tế từ 1,5 đến 3 lần, bởi vì trong số liệu chính thức không hề tính đến các chi phí nhập khẩu vũ khí, doanh thu xuất khẩu vũ khí, chi phí cho vũ khí hạt nhân và lực lượng hạt nhân chiến lược, chi phí cho Cảnh sát vũ trang nhân dân, đầu tư cho nghiên cứu và công nghiệp quốc phòng.
Trong giai đoạn đầu của cuộc cải cách lực lượng vũ trang, Quân đội Trung quốc đã được quyền hoạt động kinh doanh thương mại, một việc chưa từng có trong thế giới hiện đại. Kinh doanh thương mại của Quân đội Trung quốc bao gồm 72 ngành nghề, trong số đó có cả các câu lạc bộ ban đêm, kinh doanh bất động sản, các xí nghiệp khai thác mỏ. Theo đánh giá của phương Tây, Quân đội Trung Quốc sở hữu 15.000 doanh nghiệp với thu nhập hàng năm là 18 tỷ USD. Hoạt động kinh doanh thương mại của Quân đội trên thực tế đã không được các cơ quan của nhà nước kiểm soát, vì vậy ở đây có thể dễ dàng thực hiện kinh doanh bất hợp pháp, như buôn lậu chẳng hạn. Tham nhũng ngày càng lan rộng, vì vậy năm 1998 các hoạt động kinh doanh thương mại trong quân đội Trung Quốc đã bị cấm.
Các mặt mạnh của Quân đội Trung quốc: có nguồn bổ sung không giới hạn về con người, có lực lượng hạt nhân chiến lược và vũ khí hủy diệt hàng loạt, có tên lửa đạn đạo, có lãnh thổ rộng lớn tạo nên lợi thế chiều sâu chiến lược, sẵn sàng chịu tổn thất cao. Quân đội Trung quốc đứng đầu thế giới về quân số (2,3 triệu người, nguồn lực có thể huy động - 208,1 triệu người), thứ ba thế giới (sau Nga và Mỹ) về số lượng xe tăng (7,6 nghìn), thứ hai thế giới (sau Mỹ) về số lượng máy bay chiến đấu (khoảng 4000), và đứng đầu thế giới về tổng số tàu ngầm hạt nhân đa chức năng và tàu ngầm diesel.
Mặt yếu của Quân đội Trung Quốc là sự lạc hậu về trang bị: phần lớn vũ khí (trên 70% xe tăng, trên 80% máy bay chiến đấu) là vũ khí của Liên Xô cũ, không đáp ứng các yêu cầu hiện nay. Có thể thấy thêm các mặt yếu khác của Quân đội Trung Quốc là đảm bảo hậu cần kém; các hệ thống thông tin, chỉ huy, trinh sát, tác chiến điện tử chưa phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây Trung Quốc đang nhanh chóng nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang của mình bằng cách mua các loại vũ khí hiện đại nhất của Nga. Trung quốc cũng tiến hành tự sản xuất các loại vũ khí, kết hợp công nghệ của Nga và phương Tây (như xe tăng Type-96, máy bay chiến đấu J-10). Ngoài ra, Trung Quốc còn mua các công nghệ quân sự mới nhất (của Nga và phương Tây) thông qua mọi con đường công khai lẫn không công khai. Một số nhà bình luận cho rằng ngay từ năm 2002 Trung Quốc đã có bước đột phá về công nghệ, trong nhiều lĩnh vực đã vượt cả Nga.
Các quân, binh chủng của Quân đội Trung Quốc, quan điểm của lãnh đạo Trung quốc và quân đội Trung quốc về tình hình thế giới, các kế hoạch chiến lược và chính sách bành trướng… sẽ được trình bày cụ thể trong các bài tiếp theo.
Phần II: Hải quân Trung quốc
Về sức mạnh chiến đấu Hải quân Trung Quốc đang dần chiếm lĩnh vị trí thứ hai trên thế giới chỉ sau Hải quân Mỹ. Và trong một tương lai rất gần Hải quân Trung quốc có đầy đủ khả năng tiến hành các chiến dịch quân sự trên tất cả các đại dương.
Hải quân - là Quân chủng có trang bị kỹ thuật hiện đại - trong một thời gian dài trước đây là khâu yếu nhất của Quân đội Trung quốc. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ qua, Hải quân Trung quốc đã phát triển với tốc độ đột phá. Lãnh đạo Trung quốc giao cho lực lượng Hải quân Trung quốc các nhiệm vụ rất quan trọng. Thứ nhất, lực lượng Hải quân phải đủ khả năng chiếm lĩnh Đài Loan khi cần thiết. Thứ hai, đảm bảo việc vận chuyển nguyên liệu (chủ yếu là dầu) từ châu Phi và vịnh Péc-xích về Trung quốc không bị gián đoạn, và đảm bảo cho việc khai thác dầu ở các vùng biển của Trung quốc. Thứ ba là thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Trung quốc.
Một điều dễ thấy là ngay cả Hải quân Mỹ, chứ không cần nói đến bất cứ lực lượng Hải quân nào khác, cũng không giám đưa quân đổ bộ lên bờ biển Trung Quốc, bởi vì lực lượng đổ bộ chắc chắn sẽ bị lực lượng đông đảo của Lục quân Trung quốc tiêu diệt hoàn toàn. Vấn đề đáng lo ngại đối với lãnh đạo Trung quốc là khả năng của Hải quân và Không quân Mỹ sử dụng các loại vũ khí chính xác cao tấn công từ xa các mục tiêu quân sự và kinh tế của Trung quốc. Trên 80% các cơ sở doanh nghiệp - biểu tượng cho sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc - nằm ở vùng ven biển, rất dễ bị tấn công từ hướng biển. Vì vậy, Hải quân của Trung Quốc cần phải xây dựng tuyến phòng vệ trên biển càng xa bờ càng tốt.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên đây một cách hiệu quả, kế hoạch xây dựng và phát triển Hải quân của lãnh đạo Trung quốc bao gồm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu Hải quân Trung Quốc cần phải đảm bảo khả năng hoạt động tác chiến trong phạm vi các đảo của tuyến thứ nhất (từ các đảo Ryukyu của Nhật đến Philippin); giai đoạn thứ hai - trong phạm vi các đảo của tuyến thứ hai (từ quần đảo Kuril qua các đảo Mariana đến New Guinea); giai đoạn thứ ba - tự do hoạt động tại bất cứ vùng biển nào trên thế giới.
Hải quân Trung Quốc có ba hạm đội: Bắc, Đông và Nam. Mỗi hạm đội có 2 đội tàu ngầm (riêng Bắc Hạm đội có 3 đội tàu ngầm), 2 đội tàu khu trục (riêng Đông Hạm đội có 3 đội tàu khu trục), 2 đội tàu cao tốc (riêng Bắc Hạm đội có 1 đội tàu cao tốc), 1 đội tàu phá mìn, 1 đội tàu đổ bộ (riêng Nam Hạm đội có 2 đội tàu đổ bộ). Đội tàu ngầm hạt nhân duy nhất của Hải quân Trung Quốc nằm trong thành phần của Bắc Hạm đội .
Lực lượng Hải quân Trung quốc có: 02 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo, 06 tàu ngầm hạt nhân, 57 tàu ngầm diesel, 77 tàu khu trục, 78 tàu tên lửa cao tốc, 170 tàu tuần tra cao tốc, 22 tàu phá mìn và 72 tàu đổ bộ.
Lực lượng không quân đánh biển của Trung quốc cũng khá lớn, bao gồm các loại ném bom (30 máy bay H-6, 100 máy bay H-5), tiêm kích và cường kích (48 máy bay Su-30, 18 máy bay JH-7, 320 máy bay J-8, 26 máy bay J-7, 200 máy bay J-6, 30 máy bay Q-5), trinh sát (7 máy bay HZ-5, 4 máy bay SH-5, 4 máy bay Y-8X), tiếp nhiên liệu (3 máy bay HY-6), vận tải (2 máy bay Yak-42, 4 máy bay Y-8, 50 máy bay Y-5, 4 máy bay Y-7, 6 máy bay Y-7H), trực thăng (10 trực thăng Ka-28, 8 trực thăng Mi-8, 25 trực thăng Z-9C, 15 trực thăng Z-8).
Đông hạm đội là hạm đội mạnh nhất, dùng để tấn công Đài Loan khi cần thiết. Đông hạm đội được trang bị các loại tàu mới nhất mua từ Nga (tàu ngầm 877 và 636, tàu khu trục 956) và tàu ngầm “Sun” 039 mới nhất của Trung Quốc; toàn bộ số máy bay đánh biển hiện đại (48 máy bay Su-30 và 18 máy bay JH-7) được trang bị cho sư đoàn không quân số 6 của Đông hạm đội. Yếu hơn một chút là Nam hạm đội, có nhiệm vụ phối hợp hỗ trợ Đông hạm đội tấn công Đài Loan, và đảm bảo việc chiếm giữ các nguồn tài nguyên ở thềm lục địa vùng biển phía Nam. Nam hạm đội được trang bị một nửa số lượng tàu ngầm và toàn bộ số lượng tàu khu trục 052.
Tất cả các loại tàu mới của Hải quân Trung Quốc được mua của Nga hoặc tự chế tạo có số lượng nhỏ với mục đích chủ yếu là để nắm bắt công nghệ mới. Khi cần thiết, việc sản xuất tàu với số lượng lớn có thể được triển khai nhanh chóng. Nhưng chỉ với số lượng tàu hiện nay, Hải quân Trung quốc đã có sức mạnh chiến đấu đáng kể. Tàu khu trục 956 là loại tàu chiến đấu với các mục tiêu trên mặt biển; còn tàu khu trục 052C (do Trung quốc tự chế tạo) là loại tàu thực hiện nhiệm vụ phòng không của lực lượng hải quân. Tàu 052C được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “RIF” của Nga (“RIF” là tên gọi phương án lắp trên tàu của Hệ thống tên lửa phòng không C-300 nổi tiếng, gồm 6 bệ phóng và 8 tên lửa cho mỗi bệ phóng) và hệ thống chỉ huy đa chức năng tương tự như hệ thống “Aegis” của Mỹ. Tàu khu trục 052C có thể được coi là một ví dụ điển hình chính sách tổng hợp các công nghệ nước ngoài của Trung quốc. Tàu này được lắp động cơ tuabin-khí “Zaria” của Ukraina; về vũ khí, ngoài hệ thống tên lửa phòng không "RIF" của Nga, tàu còn được trang bị tên lửa đối hạm C-803 của Trung Quốc (bản thân C-803 cũng được tổng hợp từ tên lửa đối hạm “Exocet” của Pháp và tên lửa đối hạm "Gabriel" của Israel), pháo 100-mm (được làm theo loại pháo AC M68 của Pháp), pháo phòng không 30-mm 7-nòng (được làm theo loại pháo “Golkiper” của Hà Lan), ngư lôi Yu-7 chống tàu ngầm (được làm theo loại ngư lôi Mk46 của Mỹ), máy bay trực thăng Z-9 (được làm theo loại máy bay trực thăng SA-365 của Pháp). Ngoại trừ máy bay trực thăng và hệ thống phòng không "RIF", tất cả các loại vũ khí còn lại đã được sao chép sản xuất tại Trung Quốc mà không có giấy phép.
Trang bị vũ khí các tàu cũ của Hải quân Trung quốc gồm có: tên lửa đối hạm loại HY, được chế tạo trên cơ sở loại tên lửa P-15 của Liên Xô trước đây; hiện đại hơn thì có tên lửa đối hạm loại YJ, được chế tạo trên cơ sở tổng hợp từ tên lửa đối hạm “Exocet” của Pháp và tên lửa đối hạm "Gabriel" của Israel. Khá hơn cả là tên lửa đối hạm YJ-83 (cũng chính là C-803) có tốc độ siêu âm.
Hải quân Trung Quốc hiện vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết nhằm tăng cường các hệ thống phòng không cho lực lượng hải quân. Ngoài các tàu khu trục loại 052C được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “RIF”, mới chỉ có thêm các tàu khu trục loại 956 và 052B được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “Stil” (cũng của Nga). Một phần các tàu khu trục khác chỉ có hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn HQ-7 (là bản sao hệ thống tên lửa phòng không “Krotalya” của Pháp). Số tàu còn lại chỉ được trang bị các loại pháo phòng không đã cũ. Các tàu của Hải quân Trung Quốc cũng chưa có khả năng chống tàu ngầm đủ mạnh, ngoại trừ các tàu khu trục loại 52. Vào tháng Giêng năm nay hai tàu khu trục loại này, trong khi đi chống cướp biển Somali, không chỉ đã phát hiện được, mà còn buộc tàu ngầm loại 877 của Ấn Độ đang theo dõi hai tàu này phải nổi lên trên mặt nước. Tàu ngầm loại 877, là loại tàu của Nga sản xuất, có mức độ tiếng ồn rất thấp.
Trung quốc đang tích cực triển khai thiết kế chế tạo tàu sân bay (trên cơ sở các loại tàu sân bay cũ được mua lại từ các nước: tàu sân bay "Variag" của Ukrraina, các tàu sân bay “Kiev” và “Minsk” của Hải quân Nga và tàu sân bay “Melbourne” của Hải quân Australia). Hải quân Trung Quốc đã đưa vào hoạt động chiếc tàu đổ bộ 071 đầu tiên. Cho đến nay đó là chiếc tàu lớn nhất của Hải quân Trung Quốc có tải trọng 20 nghìn tấn, có khả năng vận chuyển 800 lính thủy đánh bộ và 50 xe bọc thép. Xe bọc thép và lính thủy đánh bộ được đổ bộ từ tàu vào bờ bằng 4 tàu đổ bộ cao tốc và 4 máy bay trực thăng.
Lực lượng lính thủy đánh bộ của Hải quân Trung quốc hiện nay có khoảng 10 nghìn người, gồm hai lữ đoàn trực thuộc Nam hạm đội. Trong quân chủng Lục quân của quân đội Trung quốc cũng có lực lượng lính thủy đánh bộ, còn mạnh hơn rất nhiều so với lực lượng lính thủy đánh bộ của Hải quân.
Các tàu sân bay và các tàu đổ bộ lớn sẽ tạo cho Hải quân Trung Quốc những khả năng mới trước hết là trong cuộc chiến nhằm lấy lại Đài Loan, và tiếp sau đó là cho các hoạt động trên các đại dương. Nếu lấy lại được Đài loan Trung Quốc sẽ có khả năng kiểm soát các tuyến giao thông ở vùng biển phía tây Thái Bình Dương và vùng Đông Nam Á. Trong trường hợp này, Trung Quốc sẽ gỡ bỏ được “rào cản đảo” chạy dọc theo bờ biển, và Hải quân Trung quốc sẽ tự do bước vào đại dương rộng lớn. Trung Quốc đang chuẩn bị cho bước đột phá này, bằng cách phát triển nhanh số lượng tàu hoạt động trên đại dương và giảm số lượng tàu hoạt động vùng ven bờ. Trên thực tế, chỉ cần có một tàu sân bay Hải quân Trung Quốc đã có thể đảm bảo hoạt động trong phạm vi các đảo của tuyến thứ hai, bao gồm cả Sakhalin, Kuril và Kamchatka.
Hải quân - là Quân chủng có trang bị kỹ thuật hiện đại - trong một thời gian dài trước đây là khâu yếu nhất của Quân đội Trung quốc. Tuy nhiên, trong hai thập kỷ qua, Hải quân Trung quốc đã phát triển với tốc độ đột phá. Lãnh đạo Trung quốc giao cho lực lượng Hải quân Trung quốc các nhiệm vụ rất quan trọng. Thứ nhất, lực lượng Hải quân phải đủ khả năng chiếm lĩnh Đài Loan khi cần thiết. Thứ hai, đảm bảo việc vận chuyển nguyên liệu (chủ yếu là dầu) từ châu Phi và vịnh Péc-xích về Trung quốc không bị gián đoạn, và đảm bảo cho việc khai thác dầu ở các vùng biển của Trung quốc. Thứ ba là thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vùng biển của Trung quốc.
Một điều dễ thấy là ngay cả Hải quân Mỹ, chứ không cần nói đến bất cứ lực lượng Hải quân nào khác, cũng không giám đưa quân đổ bộ lên bờ biển Trung Quốc, bởi vì lực lượng đổ bộ chắc chắn sẽ bị lực lượng đông đảo của Lục quân Trung quốc tiêu diệt hoàn toàn. Vấn đề đáng lo ngại đối với lãnh đạo Trung quốc là khả năng của Hải quân và Không quân Mỹ sử dụng các loại vũ khí chính xác cao tấn công từ xa các mục tiêu quân sự và kinh tế của Trung quốc. Trên 80% các cơ sở doanh nghiệp - biểu tượng cho sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Trung Quốc - nằm ở vùng ven biển, rất dễ bị tấn công từ hướng biển. Vì vậy, Hải quân của Trung Quốc cần phải xây dựng tuyến phòng vệ trên biển càng xa bờ càng tốt.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên đây một cách hiệu quả, kế hoạch xây dựng và phát triển Hải quân của lãnh đạo Trung quốc bao gồm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu Hải quân Trung Quốc cần phải đảm bảo khả năng hoạt động tác chiến trong phạm vi các đảo của tuyến thứ nhất (từ các đảo Ryukyu của Nhật đến Philippin); giai đoạn thứ hai - trong phạm vi các đảo của tuyến thứ hai (từ quần đảo Kuril qua các đảo Mariana đến New Guinea); giai đoạn thứ ba - tự do hoạt động tại bất cứ vùng biển nào trên thế giới.
Hải quân Trung Quốc có ba hạm đội: Bắc, Đông và Nam. Mỗi hạm đội có 2 đội tàu ngầm (riêng Bắc Hạm đội có 3 đội tàu ngầm), 2 đội tàu khu trục (riêng Đông Hạm đội có 3 đội tàu khu trục), 2 đội tàu cao tốc (riêng Bắc Hạm đội có 1 đội tàu cao tốc), 1 đội tàu phá mìn, 1 đội tàu đổ bộ (riêng Nam Hạm đội có 2 đội tàu đổ bộ). Đội tàu ngầm hạt nhân duy nhất của Hải quân Trung Quốc nằm trong thành phần của Bắc Hạm đội .
Lực lượng Hải quân Trung quốc có: 02 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo, 06 tàu ngầm hạt nhân, 57 tàu ngầm diesel, 77 tàu khu trục, 78 tàu tên lửa cao tốc, 170 tàu tuần tra cao tốc, 22 tàu phá mìn và 72 tàu đổ bộ.
Lực lượng không quân đánh biển của Trung quốc cũng khá lớn, bao gồm các loại ném bom (30 máy bay H-6, 100 máy bay H-5), tiêm kích và cường kích (48 máy bay Su-30, 18 máy bay JH-7, 320 máy bay J-8, 26 máy bay J-7, 200 máy bay J-6, 30 máy bay Q-5), trinh sát (7 máy bay HZ-5, 4 máy bay SH-5, 4 máy bay Y-8X), tiếp nhiên liệu (3 máy bay HY-6), vận tải (2 máy bay Yak-42, 4 máy bay Y-8, 50 máy bay Y-5, 4 máy bay Y-7, 6 máy bay Y-7H), trực thăng (10 trực thăng Ka-28, 8 trực thăng Mi-8, 25 trực thăng Z-9C, 15 trực thăng Z-8).
Đông hạm đội là hạm đội mạnh nhất, dùng để tấn công Đài Loan khi cần thiết. Đông hạm đội được trang bị các loại tàu mới nhất mua từ Nga (tàu ngầm 877 và 636, tàu khu trục 956) và tàu ngầm “Sun” 039 mới nhất của Trung Quốc; toàn bộ số máy bay đánh biển hiện đại (48 máy bay Su-30 và 18 máy bay JH-7) được trang bị cho sư đoàn không quân số 6 của Đông hạm đội. Yếu hơn một chút là Nam hạm đội, có nhiệm vụ phối hợp hỗ trợ Đông hạm đội tấn công Đài Loan, và đảm bảo việc chiếm giữ các nguồn tài nguyên ở thềm lục địa vùng biển phía Nam. Nam hạm đội được trang bị một nửa số lượng tàu ngầm và toàn bộ số lượng tàu khu trục 052.
Tất cả các loại tàu mới của Hải quân Trung Quốc được mua của Nga hoặc tự chế tạo có số lượng nhỏ với mục đích chủ yếu là để nắm bắt công nghệ mới. Khi cần thiết, việc sản xuất tàu với số lượng lớn có thể được triển khai nhanh chóng. Nhưng chỉ với số lượng tàu hiện nay, Hải quân Trung quốc đã có sức mạnh chiến đấu đáng kể. Tàu khu trục 956 là loại tàu chiến đấu với các mục tiêu trên mặt biển; còn tàu khu trục 052C (do Trung quốc tự chế tạo) là loại tàu thực hiện nhiệm vụ phòng không của lực lượng hải quân. Tàu 052C được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “RIF” của Nga (“RIF” là tên gọi phương án lắp trên tàu của Hệ thống tên lửa phòng không C-300 nổi tiếng, gồm 6 bệ phóng và 8 tên lửa cho mỗi bệ phóng) và hệ thống chỉ huy đa chức năng tương tự như hệ thống “Aegis” của Mỹ. Tàu khu trục 052C có thể được coi là một ví dụ điển hình chính sách tổng hợp các công nghệ nước ngoài của Trung quốc. Tàu này được lắp động cơ tuabin-khí “Zaria” của Ukraina; về vũ khí, ngoài hệ thống tên lửa phòng không "RIF" của Nga, tàu còn được trang bị tên lửa đối hạm C-803 của Trung Quốc (bản thân C-803 cũng được tổng hợp từ tên lửa đối hạm “Exocet” của Pháp và tên lửa đối hạm "Gabriel" của Israel), pháo 100-mm (được làm theo loại pháo AC M68 của Pháp), pháo phòng không 30-mm 7-nòng (được làm theo loại pháo “Golkiper” của Hà Lan), ngư lôi Yu-7 chống tàu ngầm (được làm theo loại ngư lôi Mk46 của Mỹ), máy bay trực thăng Z-9 (được làm theo loại máy bay trực thăng SA-365 của Pháp). Ngoại trừ máy bay trực thăng và hệ thống phòng không "RIF", tất cả các loại vũ khí còn lại đã được sao chép sản xuất tại Trung Quốc mà không có giấy phép.
Trang bị vũ khí các tàu cũ của Hải quân Trung quốc gồm có: tên lửa đối hạm loại HY, được chế tạo trên cơ sở loại tên lửa P-15 của Liên Xô trước đây; hiện đại hơn thì có tên lửa đối hạm loại YJ, được chế tạo trên cơ sở tổng hợp từ tên lửa đối hạm “Exocet” của Pháp và tên lửa đối hạm "Gabriel" của Israel. Khá hơn cả là tên lửa đối hạm YJ-83 (cũng chính là C-803) có tốc độ siêu âm.
Hải quân Trung Quốc hiện vẫn còn nhiều vấn đề phải giải quyết nhằm tăng cường các hệ thống phòng không cho lực lượng hải quân. Ngoài các tàu khu trục loại 052C được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “RIF”, mới chỉ có thêm các tàu khu trục loại 956 và 052B được trang bị hệ thống tên lửa phòng không “Stil” (cũng của Nga). Một phần các tàu khu trục khác chỉ có hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn HQ-7 (là bản sao hệ thống tên lửa phòng không “Krotalya” của Pháp). Số tàu còn lại chỉ được trang bị các loại pháo phòng không đã cũ. Các tàu của Hải quân Trung Quốc cũng chưa có khả năng chống tàu ngầm đủ mạnh, ngoại trừ các tàu khu trục loại 52. Vào tháng Giêng năm nay hai tàu khu trục loại này, trong khi đi chống cướp biển Somali, không chỉ đã phát hiện được, mà còn buộc tàu ngầm loại 877 của Ấn Độ đang theo dõi hai tàu này phải nổi lên trên mặt nước. Tàu ngầm loại 877, là loại tàu của Nga sản xuất, có mức độ tiếng ồn rất thấp.
Trung quốc đang tích cực triển khai thiết kế chế tạo tàu sân bay (trên cơ sở các loại tàu sân bay cũ được mua lại từ các nước: tàu sân bay "Variag" của Ukrraina, các tàu sân bay “Kiev” và “Minsk” của Hải quân Nga và tàu sân bay “Melbourne” của Hải quân Australia). Hải quân Trung Quốc đã đưa vào hoạt động chiếc tàu đổ bộ 071 đầu tiên. Cho đến nay đó là chiếc tàu lớn nhất của Hải quân Trung Quốc có tải trọng 20 nghìn tấn, có khả năng vận chuyển 800 lính thủy đánh bộ và 50 xe bọc thép. Xe bọc thép và lính thủy đánh bộ được đổ bộ từ tàu vào bờ bằng 4 tàu đổ bộ cao tốc và 4 máy bay trực thăng.
Lực lượng lính thủy đánh bộ của Hải quân Trung quốc hiện nay có khoảng 10 nghìn người, gồm hai lữ đoàn trực thuộc Nam hạm đội. Trong quân chủng Lục quân của quân đội Trung quốc cũng có lực lượng lính thủy đánh bộ, còn mạnh hơn rất nhiều so với lực lượng lính thủy đánh bộ của Hải quân.
Các tàu sân bay và các tàu đổ bộ lớn sẽ tạo cho Hải quân Trung Quốc những khả năng mới trước hết là trong cuộc chiến nhằm lấy lại Đài Loan, và tiếp sau đó là cho các hoạt động trên các đại dương. Nếu lấy lại được Đài loan Trung Quốc sẽ có khả năng kiểm soát các tuyến giao thông ở vùng biển phía tây Thái Bình Dương và vùng Đông Nam Á. Trong trường hợp này, Trung Quốc sẽ gỡ bỏ được “rào cản đảo” chạy dọc theo bờ biển, và Hải quân Trung quốc sẽ tự do bước vào đại dương rộng lớn. Trung Quốc đang chuẩn bị cho bước đột phá này, bằng cách phát triển nhanh số lượng tàu hoạt động trên đại dương và giảm số lượng tàu hoạt động vùng ven bờ. Trên thực tế, chỉ cần có một tàu sân bay Hải quân Trung Quốc đã có thể đảm bảo hoạt động trong phạm vi các đảo của tuyến thứ hai, bao gồm cả Sakhalin, Kuril và Kamchatka.
Phần III: Không quân Trung quốc
Phần IV: Lực lượng hạt nhân chiến lược
Phần V: Lục quân Trung quốc
Về số lượng máy bay chiến đấu Không quân Trung Quốc đứng thứ hai trên thế giới sau Không quân Mỹ. Mặc dù còn tụt hậu về chất lượng máy bay và trình độ đào tạo phi công so với Mỹ và một số nước khác, Trung Quốc đang trên đà nhanh chóng đuổi bắt kịp các nước trong hai lĩnh vực này.
Lực lượng Không quân Trung quốc gồm có 30 sư đoàn (3 sư đoàn máy bay ném bom, 3 sư đoàn máy bay cường kích, 22 sư đoàn máy bay tiêm kích, 2 sư đoàn máy bay vận tải), tập trung chủ yếu ở vùng đông-bắc và ở phía đông.
Không có con số thật chính xác về số lượng máy bay của Không quân Trung quốc. Theo đánh giá của các nhà phân tích quân sự nước ngoài, tổng số máy bay chiến đấu của Không quân Trung quốc nằm trong khoảng từ 2 đến 4 nghìn chiếc. Trung quốc có 400 sân bay với sức chứa tới 9.000 máy bay, lớn hơn khoảng ba lần so với tổng số máy bay hiện có của Không quân Trung quốc, đảm bảo khả năng cơ động lực lượng không quân ở tất cả các hướng chiến lược.
Lực lượng máy bay ném bom có khoảng 140 máy bay H-6 (là bản sao loại máy bay Tu-16 của Liên xô trước đây), có cự ly hoạt động 2,5 nghìn km, trực thuộc lực lượng hạt nhân chiến lược. Đây là loại máy bay cũ đã bị loại bỏ khỏi lực lượng vũ trang Nga. Từ năm 2006 Trung quốc sản xuất hàng loạt máy bay ném bom H-6M có cự ly hoạt động lớn hơn. Máy bay H-6M được trang bị tên lửa hành trình DH-10. Sử dụng công nghệ của Mỹ Trung quốc đã chế tạo và sản xuất tên lửa DH-10 theo mẫu tên lửa X-55 của Nga (Trung Quốc đã mua sáu tên lửa loại này của Ukraina). Trên cơ sở loại máy bay H-6, Trung quốc còn sản xuất loại máy bay tiếp nhiên liệu HY-6 (hiện có 8 chiếc). Ngoài ra, theo các nguồn thông tin khác nhau, lực lượng máy bay ném bom còn có khoảng từ 40 đến 350 máy bay ném bom chiến thuật loại H-5 (là bản sao loại máy bay cũ IL-28 của Liên xô trước đây). Số máy bay này sẽ được thay thế bằng loại máy bay mới JH-7, về cấu tạo giống như loại máy bay SU-24 của Nga và “Jaguar” của Anh-Pháp. Hiện nay không quân Trung quốc mới có (15-20) chiếc loại này. Thời gian bay trung bình của phi công lái máy bay ném bom là 80 giờ/năm.
Lực lượng máy bay cường kích có khoảng từ 300 đến 550 máy bay Q-5 (được sản xuất theo mẫu máy bay MiG-19). Đây là loại máy bay cũ, nhưng khá hiệu quả trong hoạt động hỗ trợ cho lục quân trên chiến trường nếu đối phương không có lực lượng phòng không mạnh hoặc lực lượng phòng không của đối phương đã bị tiêu diệt. Thời gian bay trung bình của phi công lái máy bay cường kích là 150 giờ/năm.
Lực lượng mạnh nhất của Không quân Trung quốc là lực lượng máy bay tiêm kích, ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước đã được trang bị lại bằng các loại máy bay mới nhất: SU-27 (Trung Quốc gọi là J-11) và SU-30 (Trung Quốc gọi là J-12). Không quân Trung Quốc hiện có 176 máy bay SU-27 và 73 máy bay SU-30. Dự kiến 200 máy bay SU-27 sẽ được sản xuất tại Trung Quốc theo giấy phép của Nga (không được quyền bán lại cho các nước thứ ba), nhưng sau khi sản xuất được 105 chiếc phía Trung Quốc hủy bỏ hợp đồng này. Ngoài ra, Trung Quốc đã bắt đầu sản xuất loại máy bay tiêm kích J-11B (phiên bản rút gọn của máy bay J-11) để xuất khẩu.
Trung quốc còn sản xuất một loại máy bay tiêm kích hiện đại nữa là J-10 theo mẫu máy bay tiêm kích “Lavi” của Israel kết hợp với các trang thiết bị của Nga (radar “Juk”, động cơ AL-31F, vũ khí). Trung quốc hiện có 70 máy bay J-10 , và dự kiến sẽ sản xuất đến 300 chiếc.
Thời gian bay trung bình của phi công lái máy bay tiêm kích là 200 giờ/năm, tương đương với phi công Mỹ, và lớn hơn (4-5) lần so với phi công Nga.
Không quân Trung quốc còn có một số lượng đáng kể máy bay tiêm kích cũ. Loại phổ biến nhất là máy bay J-6 (bản sao của máy bay MiG-19). Trước đây Không quân Trung quốc có đến 3 nghìn máy bay J-6, hiện còn khoảng từ 300 đến 800 chiếc. Không quân Trung quốc còn có khoảng 700 máy bay J-7 (bản sao của máy bay MiG-21) và khoảng (180-250) máy bay J-8 do Trung quốc tự chế tạo. Tất cả các loại máy bay kể trên không đáp ứng yêu cầu của chiến tranh hiện đại, tuy nhiên chúng có khả năng tạo ra hiệu ứng số đông, đảm bảo phối hợp hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động của các loại máy bay hiện đại.
Không quân Trung quốc (giống như Không quân Mỹ) cũng có một phi đội mang tên "Aggressor" gồm các phi công giỏi nhất và được trang bị máy bay hiện đại SU-27. Phi đội này tạo giả hoạt động của Không quân đối phương giả định (như Đài Loan…). Phi công các đơn vị khác của Không quân Trung Quốc diễn tập với phi đội "Aggressor" để nâng cao trình độ và nghiên cứu chiến thuật của đối phương giả định.
Máy bay tiêm kích của Không quân Trung quốc được trang bị một số lượng lớn tên lửa "không đối không” hiện đại gồm khoảng 3 nghìn tên lửa P-27 và 3200 tên lửa P-73 của Nga. Trung Quốc tự, sản xuất tên lửa PL-9 (theo mẫu tên lửa "Pyton-3" của Israel) và tên lửa PL-11 (theo mẫu tên lửa "Aspid-1A" của Ý). Tên lửa PL-9 còn được sử dụng trong lực lượng phòng không của lục quân.
Số lượng máy bay trinh sát của Không quân Trung quốc gồm có 100 máy bay JZ-6, 40 máy bay HZ-5, 15 máy bay YZ-7 và YZ-8, 5 máy bay "Learjet-35 ", 8 máy bay AN-30, 3 máy bay TU-154P. Gần đây lực lượng không quân Trung quốc đã được trang bị thêm 6 hoặc 7 máy bay trinh sát điện tử từ xa KJ-200 và KJ-2000.
Số lượng máy bay vận tải của Không quân Trung quốc gồm có 300 máy bay Y-5 (bản sao của máy bay AN-2), 100 máy bay Y-7 (AN-24), 70 máy bay Y-8 (AN-12), 15 máy bay Y-11 và 8 máy bay Y-12 (là 02 loại máy bay vận tải hạng nhẹ do Trung quốc tự chế tạo), 19 máy bay TU-154, 20 máy bay IL-76, 6 máy bay Boeing 737. Khả năng đổ bộ lính dù và vận chuyển quân của Không quân Trung quốc hiện còn bị hạn chế.
Phần lớn số lượng máy bay trực thăng của quân đội Trung quốc trực thuộc quân chủng lục quân. Không quân Trung quốc chỉ có 100 máy bay trực thăng Z-5 (bản sao của máy bay Mi-4), 100 máy bay trực thăng Z-9 (bản sao của máy bay Pháp AS-365), 40 máy bay trực thăng Mi-8, 6 máy bay trực thăng AS-332 của Pháp.
Trong những năm gần đây khả năng phòng không của quân đội Trung Quốc đã được nâng lên đáng kể bằng cách mua các hệ thống tên lửa phòng không C-300 của Nga. Hiện nay Trung Quốc có 1 trung đoàn (2 tiểu đoàn) tên lửa phòng không C-300PMU, 2 trung đoàn (4 tiểu đoàn) tên lửa phòng không C-300PMU-1, và 16 tiểu đoàn tên lửa phòng không C-300PMU-2. Trung Quốc đã sao chép hệ thống tên lửa phòng không C-300 và bắt đầu sản xuất hệ thống này (với tên gọi là hệ thống tên lửa phòng không HQ-9). Ngoài ra, lực lượng phòng không của Trung quốc còn có khoảng 600 bệ phóng tên lửa HQ-2 (bản sao hệ thống tên lửa phòng không C-75 của Liên Xô trước đây) và khoảng 16.000 pháo phòng không.
Ở Trung Quốc, binh chủng lính dù trực thuộc quân chủng Không quân. Lực lượng này gồm 3 sư đoàn và đóng tại quân khu Bắc Kinh. Mỗi sư đoàn có 4 trung đoàn (3 trung đoàn lính dù và 1 trung đoàn pháo binh). Tổng số quân của binh chủng khoảng (24-30) nghìn người. Tất cả mọi quân nhân của binh chủng lính dù, kể cả tư lệnh binh chủng, đều phải biết nhảy dù từ một số loại máy bay xuống các địa hình khác nhau. Mặt yếu của lực lượng lính dù là số lượng máy bay vận tải và trực thăng đổ bộ còn thiếu, nên khả năng cơ động còn bị hạn chế.
Lực lượng Không quân Trung quốc gồm có 30 sư đoàn (3 sư đoàn máy bay ném bom, 3 sư đoàn máy bay cường kích, 22 sư đoàn máy bay tiêm kích, 2 sư đoàn máy bay vận tải), tập trung chủ yếu ở vùng đông-bắc và ở phía đông.
Không có con số thật chính xác về số lượng máy bay của Không quân Trung quốc. Theo đánh giá của các nhà phân tích quân sự nước ngoài, tổng số máy bay chiến đấu của Không quân Trung quốc nằm trong khoảng từ 2 đến 4 nghìn chiếc. Trung quốc có 400 sân bay với sức chứa tới 9.000 máy bay, lớn hơn khoảng ba lần so với tổng số máy bay hiện có của Không quân Trung quốc, đảm bảo khả năng cơ động lực lượng không quân ở tất cả các hướng chiến lược.
Lực lượng máy bay ném bom có khoảng 140 máy bay H-6 (là bản sao loại máy bay Tu-16 của Liên xô trước đây), có cự ly hoạt động 2,5 nghìn km, trực thuộc lực lượng hạt nhân chiến lược. Đây là loại máy bay cũ đã bị loại bỏ khỏi lực lượng vũ trang Nga. Từ năm 2006 Trung quốc sản xuất hàng loạt máy bay ném bom H-6M có cự ly hoạt động lớn hơn. Máy bay H-6M được trang bị tên lửa hành trình DH-10. Sử dụng công nghệ của Mỹ Trung quốc đã chế tạo và sản xuất tên lửa DH-10 theo mẫu tên lửa X-55 của Nga (Trung Quốc đã mua sáu tên lửa loại này của Ukraina). Trên cơ sở loại máy bay H-6, Trung quốc còn sản xuất loại máy bay tiếp nhiên liệu HY-6 (hiện có 8 chiếc). Ngoài ra, theo các nguồn thông tin khác nhau, lực lượng máy bay ném bom còn có khoảng từ 40 đến 350 máy bay ném bom chiến thuật loại H-5 (là bản sao loại máy bay cũ IL-28 của Liên xô trước đây). Số máy bay này sẽ được thay thế bằng loại máy bay mới JH-7, về cấu tạo giống như loại máy bay SU-24 của Nga và “Jaguar” của Anh-Pháp. Hiện nay không quân Trung quốc mới có (15-20) chiếc loại này. Thời gian bay trung bình của phi công lái máy bay ném bom là 80 giờ/năm.
Lực lượng máy bay cường kích có khoảng từ 300 đến 550 máy bay Q-5 (được sản xuất theo mẫu máy bay MiG-19). Đây là loại máy bay cũ, nhưng khá hiệu quả trong hoạt động hỗ trợ cho lục quân trên chiến trường nếu đối phương không có lực lượng phòng không mạnh hoặc lực lượng phòng không của đối phương đã bị tiêu diệt. Thời gian bay trung bình của phi công lái máy bay cường kích là 150 giờ/năm.
Lực lượng mạnh nhất của Không quân Trung quốc là lực lượng máy bay tiêm kích, ngay từ những năm 90 của thế kỷ trước đã được trang bị lại bằng các loại máy bay mới nhất: SU-27 (Trung Quốc gọi là J-11) và SU-30 (Trung Quốc gọi là J-12). Không quân Trung Quốc hiện có 176 máy bay SU-27 và 73 máy bay SU-30. Dự kiến 200 máy bay SU-27 sẽ được sản xuất tại Trung Quốc theo giấy phép của Nga (không được quyền bán lại cho các nước thứ ba), nhưng sau khi sản xuất được 105 chiếc phía Trung Quốc hủy bỏ hợp đồng này. Ngoài ra, Trung Quốc đã bắt đầu sản xuất loại máy bay tiêm kích J-11B (phiên bản rút gọn của máy bay J-11) để xuất khẩu.
Trung quốc còn sản xuất một loại máy bay tiêm kích hiện đại nữa là J-10 theo mẫu máy bay tiêm kích “Lavi” của Israel kết hợp với các trang thiết bị của Nga (radar “Juk”, động cơ AL-31F, vũ khí). Trung quốc hiện có 70 máy bay J-10 , và dự kiến sẽ sản xuất đến 300 chiếc.
Thời gian bay trung bình của phi công lái máy bay tiêm kích là 200 giờ/năm, tương đương với phi công Mỹ, và lớn hơn (4-5) lần so với phi công Nga.
Không quân Trung quốc còn có một số lượng đáng kể máy bay tiêm kích cũ. Loại phổ biến nhất là máy bay J-6 (bản sao của máy bay MiG-19). Trước đây Không quân Trung quốc có đến 3 nghìn máy bay J-6, hiện còn khoảng từ 300 đến 800 chiếc. Không quân Trung quốc còn có khoảng 700 máy bay J-7 (bản sao của máy bay MiG-21) và khoảng (180-250) máy bay J-8 do Trung quốc tự chế tạo. Tất cả các loại máy bay kể trên không đáp ứng yêu cầu của chiến tranh hiện đại, tuy nhiên chúng có khả năng tạo ra hiệu ứng số đông, đảm bảo phối hợp hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động của các loại máy bay hiện đại.
Không quân Trung quốc (giống như Không quân Mỹ) cũng có một phi đội mang tên "Aggressor" gồm các phi công giỏi nhất và được trang bị máy bay hiện đại SU-27. Phi đội này tạo giả hoạt động của Không quân đối phương giả định (như Đài Loan…). Phi công các đơn vị khác của Không quân Trung Quốc diễn tập với phi đội "Aggressor" để nâng cao trình độ và nghiên cứu chiến thuật của đối phương giả định.
Máy bay tiêm kích của Không quân Trung quốc được trang bị một số lượng lớn tên lửa "không đối không” hiện đại gồm khoảng 3 nghìn tên lửa P-27 và 3200 tên lửa P-73 của Nga. Trung Quốc tự, sản xuất tên lửa PL-9 (theo mẫu tên lửa "Pyton-3" của Israel) và tên lửa PL-11 (theo mẫu tên lửa "Aspid-1A" của Ý). Tên lửa PL-9 còn được sử dụng trong lực lượng phòng không của lục quân.
Số lượng máy bay trinh sát của Không quân Trung quốc gồm có 100 máy bay JZ-6, 40 máy bay HZ-5, 15 máy bay YZ-7 và YZ-8, 5 máy bay "Learjet-35 ", 8 máy bay AN-30, 3 máy bay TU-154P. Gần đây lực lượng không quân Trung quốc đã được trang bị thêm 6 hoặc 7 máy bay trinh sát điện tử từ xa KJ-200 và KJ-2000.
Số lượng máy bay vận tải của Không quân Trung quốc gồm có 300 máy bay Y-5 (bản sao của máy bay AN-2), 100 máy bay Y-7 (AN-24), 70 máy bay Y-8 (AN-12), 15 máy bay Y-11 và 8 máy bay Y-12 (là 02 loại máy bay vận tải hạng nhẹ do Trung quốc tự chế tạo), 19 máy bay TU-154, 20 máy bay IL-76, 6 máy bay Boeing 737. Khả năng đổ bộ lính dù và vận chuyển quân của Không quân Trung quốc hiện còn bị hạn chế.
Phần lớn số lượng máy bay trực thăng của quân đội Trung quốc trực thuộc quân chủng lục quân. Không quân Trung quốc chỉ có 100 máy bay trực thăng Z-5 (bản sao của máy bay Mi-4), 100 máy bay trực thăng Z-9 (bản sao của máy bay Pháp AS-365), 40 máy bay trực thăng Mi-8, 6 máy bay trực thăng AS-332 của Pháp.
Trong những năm gần đây khả năng phòng không của quân đội Trung Quốc đã được nâng lên đáng kể bằng cách mua các hệ thống tên lửa phòng không C-300 của Nga. Hiện nay Trung Quốc có 1 trung đoàn (2 tiểu đoàn) tên lửa phòng không C-300PMU, 2 trung đoàn (4 tiểu đoàn) tên lửa phòng không C-300PMU-1, và 16 tiểu đoàn tên lửa phòng không C-300PMU-2. Trung Quốc đã sao chép hệ thống tên lửa phòng không C-300 và bắt đầu sản xuất hệ thống này (với tên gọi là hệ thống tên lửa phòng không HQ-9). Ngoài ra, lực lượng phòng không của Trung quốc còn có khoảng 600 bệ phóng tên lửa HQ-2 (bản sao hệ thống tên lửa phòng không C-75 của Liên Xô trước đây) và khoảng 16.000 pháo phòng không.
Ở Trung Quốc, binh chủng lính dù trực thuộc quân chủng Không quân. Lực lượng này gồm 3 sư đoàn và đóng tại quân khu Bắc Kinh. Mỗi sư đoàn có 4 trung đoàn (3 trung đoàn lính dù và 1 trung đoàn pháo binh). Tổng số quân của binh chủng khoảng (24-30) nghìn người. Tất cả mọi quân nhân của binh chủng lính dù, kể cả tư lệnh binh chủng, đều phải biết nhảy dù từ một số loại máy bay xuống các địa hình khác nhau. Mặt yếu của lực lượng lính dù là số lượng máy bay vận tải và trực thăng đổ bộ còn thiếu, nên khả năng cơ động còn bị hạn chế.
Phần IV: Lực lượng hạt nhân chiến lược
Ban lãnh đạo Trung quốc coi LLHNCL (ở Trung quốc còn được gọi là Dàn pháo thứ hai) là lực lượng kiềm chế. LLHNCL của Trung quốc được xây dựng trên quan điểm “phòng vệ bằng phản đòn hạt nhân hạn chế”. Mặc dù Trung quốc chính thức tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên, nhưng theo một số nguồn tin, khả năng này có thể xảy ra trong trường hợp quân đội Trung quốc bị tổn thất nặng nề. Không những thế, sự hạn chế về về lực lượng nhiều khi đòi hỏi phải có cú đánh trước để gây tổn thất tối đa cho đối phương ngay trong những giây phút đầu tiên của cuộc chiến.
Trung Quốc chế tạo cả tên lửa đạn đạo liên lục địa (TLĐĐLLĐ) loại cố định (phóng từ dưới hầm lên) và TLĐĐLLĐ loại cơ động (phóng từ các bệ phóng cơ động). TLĐĐLLĐ cơ động “Dongfeng-31” được chế tạo tại Trung Quốc trong những năm gần đây. Trong thời gian tới loại TLĐĐLLĐ này của Trung Quốc sẽ có khả năng mang nhiều đầu đạn (hiện nay chỉ có một đầu đạn). Trung quốc đang nghiên cứu chế tạo TLĐĐLLĐ “Dongfeng-41” và sẽ lắp 3 đầu đạn công suất (50-100) kilôton cho loại tên lửa này và tên lửa “Dongfeng-31” (theo một số nguồn thông tin khác thì hai loại tên lửa này có thể được lắp tới 6 đầu đạn). Trung quốc còn có khoảng 50 TLĐĐLLĐ “Dongfeng-5” (bản sao TLĐĐLLĐ P-7 của Liên Xô trước đây). TLĐĐLLĐ “Dongfeng-5” mang đầu đạn công suất (2-5) Megaton có thể bay tới bất kỳ điểm nào của nước Mỹ, chỉ trừ các vùng phía nam Florida.
Các dữ liệu về kho vũ khí hạt nhân và TLĐĐLLĐ của Trung quốc được biết đến chỉ mang tính ước lượng. Phần lớn các tên lửa này được dấu kín trong hầm và hang động, giữ cho chúng không bị tiêu diệt khi đối phương tấn công bằng vũ khí hạt nhân cũng như vũ khí thông thường.
Ngoài TLĐĐLLĐ Trung quốc còn có khoảng (20-30) tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-4”, (50-90) tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-3”, 50 tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-21” (là loại tên lửa đạn đạo mới nhất của Trung quốc).
Do giữa Nga và Trung Quốc có đường biên giới dài trên đất liền nên hầu hết các tên lửa đạn đạo của Trung Quốc đối với Nga đều mang tính chiến lược. Ngay loại tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-4” mang đầu đạn công suất (2-5) Megaton đã có thể bay tới tận Moscow từ các vùng phía đông của Trung Quốc. Vì thế tên lửa này còn có tên gọi không chính thức là “tên lửa Moscow”. Theo một số nguồn dữ liệu thì tên lửa “Dongfeng-4” không phải là tên lửa đạn đạo tầm trung mà là TLĐĐLLĐ có cự ly hoạt động như tên lửa “Dongfeng-5”.
Tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-3”, mang đầu đạn công suất từ 700 кт đến 3 Megaton, từ vùng Urumtri của Trung quốc có thể bay tới Nizhny Novgorod của Nga. Cự ly hoạt động của loại tên lửa này khoảng 3 nghìn km. Loại tên lửa mới nhất “Dongfeng-21” mang đầu đạn công suất (200-300) кт cũng có khả năng tương tự.
Các vùng Primorsky, Khabarovsk, Zabaikal và nước cộng hòa Altai của Nga nằm trong phạm vi hỏa lực của các loại tên lửa chiến thuật và chiến dịch của quân đội Trung quốc (“Dongfeng-11”, “Dongfeng-15”, M-7). Trung quốc có khoảng vài nghìn tên lửa chiến thuật và chiến dịch các loại này, trong số đó khoảng (400-700) tên lửa được bố trí hướng về phía Đài Loan.
Quân đội Trung quốc có sáu quân đoàn tên lửa (từ 51 đến 56), bao gồm 17 lữ đoàn. Quân đoàn 52, gồm bốn lữ đoàn, đóng quân ở tỉnh An Huy, được trang bị các loại tên lửa đạn đạo tầm trung và tên lửa chiến dịch để đối phó với Đài loan. Năm quân đoàn còn lại, đóng quân ở các vùng khác nhau, được trang bị các loại TLĐĐLLĐ và tên lửa đạn đạo tầm trung.
TLĐĐLLĐ JL-2 (là tên gọi TLĐĐLLĐ “Dongfeng-31” của lực lượng Hải quân Trung quốc) sẽ được lắp trên loại tàu ngầm hạt nhân 094. Năm 2006 chiếc tàu ngầm hạt nhân đầu tiên loại này đã được đưa vào sử dụng. Trung quốc dự kiến sẽ đóng (2-4) tàu 094, mỗi tàu được trang bị 16 tên lửa đạn đạo JL-2. Đến năm 2010 Trung quốc có khoảng 200 TLĐĐLLĐ (cả trên đất liền và trên biển).
Tình báo Trung Quốc đã lấy được các bản vẽ thiết kế loại đầu đạn mới nhất W-88, là loại được lắp trên tên lửa đạn đạo “Trident-2” của Mỹ; và bản thiết kế chế tạo bom neutron; nhờ đó đã giúp cho Trung Quốc có được sự tiến bộ đáng kể trong việc chế tạo các hệ thống vũ khí của Trung quốc, tiết kiệm được hàng trăm tỷ đô la và rút ngắn được khoảng 10 năm về thời gian. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, mỗi năm Trung Quốc đã sản xuất ít nhất là 140 đầu đạn hạt nhân.
Hiện nay lực lượng hạt nhân chiến lược (LLHNCL) của Trung quốc vẫn còn nhỏ và các loại tên lửa đạn đạo của Trung quốc có độ chính xác chưa cao, vì vậy LLHNCL của Trung quốc chưa có đủ khả năng tấn công phủ đầu các nước có LLHNCL tương đương, và càng không thể tấn công phủ đầu các nước có LLHNCL mạnh hơn Trung quốc. Tuy nhiên, khả năng chiến đấu của LLHNCL Trung quốc đang tăng lên nhanh chóng. Mặc dù còn khó để đuổi kịp Mỹ, nhưng trong một tương lai gần việc đuổi kịp Nga về LLHNCL là điều hoàn toàn có khả năng thực tế.
Trung Quốc chế tạo cả tên lửa đạn đạo liên lục địa (TLĐĐLLĐ) loại cố định (phóng từ dưới hầm lên) và TLĐĐLLĐ loại cơ động (phóng từ các bệ phóng cơ động). TLĐĐLLĐ cơ động “Dongfeng-31” được chế tạo tại Trung Quốc trong những năm gần đây. Trong thời gian tới loại TLĐĐLLĐ này của Trung Quốc sẽ có khả năng mang nhiều đầu đạn (hiện nay chỉ có một đầu đạn). Trung quốc đang nghiên cứu chế tạo TLĐĐLLĐ “Dongfeng-41” và sẽ lắp 3 đầu đạn công suất (50-100) kilôton cho loại tên lửa này và tên lửa “Dongfeng-31” (theo một số nguồn thông tin khác thì hai loại tên lửa này có thể được lắp tới 6 đầu đạn). Trung quốc còn có khoảng 50 TLĐĐLLĐ “Dongfeng-5” (bản sao TLĐĐLLĐ P-7 của Liên Xô trước đây). TLĐĐLLĐ “Dongfeng-5” mang đầu đạn công suất (2-5) Megaton có thể bay tới bất kỳ điểm nào của nước Mỹ, chỉ trừ các vùng phía nam Florida.
Các dữ liệu về kho vũ khí hạt nhân và TLĐĐLLĐ của Trung quốc được biết đến chỉ mang tính ước lượng. Phần lớn các tên lửa này được dấu kín trong hầm và hang động, giữ cho chúng không bị tiêu diệt khi đối phương tấn công bằng vũ khí hạt nhân cũng như vũ khí thông thường.
Ngoài TLĐĐLLĐ Trung quốc còn có khoảng (20-30) tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-4”, (50-90) tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-3”, 50 tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-21” (là loại tên lửa đạn đạo mới nhất của Trung quốc).
Do giữa Nga và Trung Quốc có đường biên giới dài trên đất liền nên hầu hết các tên lửa đạn đạo của Trung Quốc đối với Nga đều mang tính chiến lược. Ngay loại tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-4” mang đầu đạn công suất (2-5) Megaton đã có thể bay tới tận Moscow từ các vùng phía đông của Trung Quốc. Vì thế tên lửa này còn có tên gọi không chính thức là “tên lửa Moscow”. Theo một số nguồn dữ liệu thì tên lửa “Dongfeng-4” không phải là tên lửa đạn đạo tầm trung mà là TLĐĐLLĐ có cự ly hoạt động như tên lửa “Dongfeng-5”.
Tên lửa đạn đạo tầm trung “Dongfeng-3”, mang đầu đạn công suất từ 700 кт đến 3 Megaton, từ vùng Urumtri của Trung quốc có thể bay tới Nizhny Novgorod của Nga. Cự ly hoạt động của loại tên lửa này khoảng 3 nghìn km. Loại tên lửa mới nhất “Dongfeng-21” mang đầu đạn công suất (200-300) кт cũng có khả năng tương tự.
Các vùng Primorsky, Khabarovsk, Zabaikal và nước cộng hòa Altai của Nga nằm trong phạm vi hỏa lực của các loại tên lửa chiến thuật và chiến dịch của quân đội Trung quốc (“Dongfeng-11”, “Dongfeng-15”, M-7). Trung quốc có khoảng vài nghìn tên lửa chiến thuật và chiến dịch các loại này, trong số đó khoảng (400-700) tên lửa được bố trí hướng về phía Đài Loan.
Quân đội Trung quốc có sáu quân đoàn tên lửa (từ 51 đến 56), bao gồm 17 lữ đoàn. Quân đoàn 52, gồm bốn lữ đoàn, đóng quân ở tỉnh An Huy, được trang bị các loại tên lửa đạn đạo tầm trung và tên lửa chiến dịch để đối phó với Đài loan. Năm quân đoàn còn lại, đóng quân ở các vùng khác nhau, được trang bị các loại TLĐĐLLĐ và tên lửa đạn đạo tầm trung.
TLĐĐLLĐ JL-2 (là tên gọi TLĐĐLLĐ “Dongfeng-31” của lực lượng Hải quân Trung quốc) sẽ được lắp trên loại tàu ngầm hạt nhân 094. Năm 2006 chiếc tàu ngầm hạt nhân đầu tiên loại này đã được đưa vào sử dụng. Trung quốc dự kiến sẽ đóng (2-4) tàu 094, mỗi tàu được trang bị 16 tên lửa đạn đạo JL-2. Đến năm 2010 Trung quốc có khoảng 200 TLĐĐLLĐ (cả trên đất liền và trên biển).
Tình báo Trung Quốc đã lấy được các bản vẽ thiết kế loại đầu đạn mới nhất W-88, là loại được lắp trên tên lửa đạn đạo “Trident-2” của Mỹ; và bản thiết kế chế tạo bom neutron; nhờ đó đã giúp cho Trung Quốc có được sự tiến bộ đáng kể trong việc chế tạo các hệ thống vũ khí của Trung quốc, tiết kiệm được hàng trăm tỷ đô la và rút ngắn được khoảng 10 năm về thời gian. Từ những năm 90 của thế kỷ trước, mỗi năm Trung Quốc đã sản xuất ít nhất là 140 đầu đạn hạt nhân.
Hiện nay lực lượng hạt nhân chiến lược (LLHNCL) của Trung quốc vẫn còn nhỏ và các loại tên lửa đạn đạo của Trung quốc có độ chính xác chưa cao, vì vậy LLHNCL của Trung quốc chưa có đủ khả năng tấn công phủ đầu các nước có LLHNCL tương đương, và càng không thể tấn công phủ đầu các nước có LLHNCL mạnh hơn Trung quốc. Tuy nhiên, khả năng chiến đấu của LLHNCL Trung quốc đang tăng lên nhanh chóng. Mặc dù còn khó để đuổi kịp Mỹ, nhưng trong một tương lai gần việc đuổi kịp Nga về LLHNCL là điều hoàn toàn có khả năng thực tế.
Phần V: Lục quân Trung quốc
Quân đội Trung Quốc có số lượng quân lớn nhất trên thế giới hiện nay. Theo số liệu được nêu trong các ấn phẩm thống kê hàng năm của Nga và các nước trên thế giới, với dân số khoảng 1 tỷ 300 triệu người, quân đội Trung quốc có khoảng 2,3 triệu quân chính quy và khoảng 3 triệu quân dự bị đã được huấn luyện. Ngoài ra, Trung quốc còn có lực lượng cảnh sát vũ trang nhân dân với số lượng 1,5 triệu người. Quân đội Trung Quốc được tổ chức theo “Luật nghĩa vụ quân sự”, được thông qua tại kỳ họp thứ hai Hội nghị đại biểu nhân dân toàn quốc khóa sáu tháng 5 năm 1984. Thời hạn nghĩa vụ quân sự là 2 năm. Ngân sách quân sự là 480 tỷ 686 triệu nhân dân tệ (khoảng 68,5 tỷ đô la Mỹ, số liệu của năm 2009).
Lục quân là Quân chủng đông nhất của quân đội Trung Quốc. Quân chủng lục quân gồm có các binh chủng: bộ binh (bộ binh, bộ binh cơ giới, bộ binh rừng núi), tăng thiết giáp, pháo binh, phòng không lục quân, lính dù, công binh, hóa chất, trinh sát, thông tin liên lạc, vận tải, bộ đội biên phòng.
Quân chủng lục quân gồm có bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Bộ đội chủ lực trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Trung quốc (đồng thời cũng là Bộ Tổng tham mưu của Quân chủng lục quân) và Bộ tư lệnh bảy quân khu:
1. Quân khu Thẩm Dương;
2. Quân khu Bắc Kinh;
3. Quân khu Lan Châu;
4. Quân khu Tế Nam;
5. Quân khu Nam Kinh;
6. Quân khu Quảng Châu;
7. Quân khu Thành Đô.
Quân chủng lục quân có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động tác chiến không chỉ ở bên trong lãnh thổ Trung Quốc, mà cả ở bên ngoài biên giới trong trường hợp cần thiết. Bộ đội địa phương trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự các địa phương có nhiệm vụ chính là phòng thủ trong giới hạn địa phương của mình.
Quân chủng lục quân của quân đội Trung quốc có: 24 quân đoàn bộ binh, 84 sư đoàn bộ binh cơ giới, 10 sư đoàn tăng thiết giáp, 11 sư đoàn pháo mặt đất, 4 lữ đoàn lính dù, 14 lữ đoàn xe tăng, 21 lữ đoàn pháo binh, 28 lữ đoàn pháo phòng không. Ngoài ra, trong thành phần của Quân chủng lục quân còn có: bộ đội địa phương (được tổ chức thành các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn); các đơn vị đảm bảo (công binh, hóa chất, trinh sát, thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, vận tải…).
Trang bị vũ khí của lục quân Trung quốc gồm có: xe tăng hạng các loại “54”, “55”, “59”, “69” (khoảng 8000 chiếc); xe bọc thép trinh sát loại “62” (800 chiếc); xe bọc thép lội nước loại “63” (1200 chiếc); xe bọc thép các loại (3000 chiếc); pháo mặt đất các loại 76mm, 122mm, 130mm và 152mm (14500 khẩu); pháo tự hành 122mm và 155mm; pháo chống tăng 57mm, 76mm, 85mm và 100-mm; súng phóng lựu 60mm, 82mm, 100mm và 120 mm; pháo dàn hỏa lực (cachiusa) 107mm, 122mm, 130mm, 140mm và 273 mm ( tổng cộng có 3800 ống phóng); các loại tên lửa chống tăng; súng phóng lựu chống tăng, pháo phòng không 12,7 mm và 14,5 mm; súng máy; tiểu liên 7,62-mm; súng trường; tên lửa phòng không lục quân; máy bay trực thăng...
Thành phần một quân đoàn gồm có: ba sư đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới) và một sư đoàn (lữ đoàn) xe tăng, lữ đoàn pháo phòng không, lữ đoàn pháo mặt đất, trung đoàn pháo chống tăng, các đơn vị đảm bảo (trinh sát, thông tin liên lạc, công binh, hóa chất, tác chiến điện tử, vận tải, y tế…).
Thành phần một sư đoàn bộ binh (khoảng 14 ngàn người) gồm có: ba trung đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới) và một trung đoàn pháo mặt đất, tiểu đoàn pháo chống tăng, tiểu đoàn pháo phòng không, các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần. Sư đoàn bộ binh cơ giới (khoảng 17 nghìn người), ngoài các thành phần trên, còn có thêm một trung đoàn xe tăng.
Thành phần một sư đoàn xe tăng (khoảng 12 ngàn người) gồm có: ba trung đoàn xe tăng, một trung đoàn cơ giới, một trung đoàn pháo binh, một tiểu đoàn pháo phòng không và các đơn vị đảm bảo. Một sư đoàn xe tăng có 323 xe tăng.
Thành phần của các lữ đoàn (bộ binh rừng núi, xe tăng, lính dù, pháo binh, pháo phòng không) gồm có các tiểu đoàn và các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần. Về khả năng chiến đấu lữ đoàn là cấp đơn vị trung gian ở giữa cấp sư đoàn và cấp trung đoàn.
Trung đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới) nằm trong thành phần của sư đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới). Thành phần của trung đoàn gồm có: ba tiểu đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới), một tiểu đoàn pháo binh mặt đất, các đại đội pháo phòng không và tên lửa chống tăng, các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần.
Thành phần của trung đoàn xe tăng gồm có: ba tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn cơ giới, một tiểu đoàn pháo binh và các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần. Trung đoàn xe tăng có thể nằm trong thành phần của sư đoàn xe tăng hoặc sư đoàn bộ binh cơ giới, và cũng có thể là một đơn vị độc lập.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu quá trình trang bị mới cho các quân đoàn và sư đoàn cơ giới các loại xe bọc thép, các hệ thống pháo phòng không và pháo mặt đất tự hành, tăng cường tính cơ động và khả năng hỏa lực, nâng cao khả năng phòng vệ tốt hơn đối với các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Về mặt tổ chức các sư đoàn, lữ đoàn và trung đoàn bộ binh của bộ đội địa phương cũng giống như bộ đội chủ lực. Nhiệm vụ chính của bộ đội địa phương là bảo vệ các tuyến đường giao thông từ khu vực biên giới và vùng ven biển vào bên trong lãnh thổ Trung quốc.
Đơn vị cấp chiến dịch cao nhất của quân chủng Lục Quân là Tập đoàn quân (tiến hành chiến dịch trên cả một mặt trận lớn). Tùy thuộc vào nhiệm vụ tác chiến, Tập đoàn quân có thể có từ 3 đến 7 quân đoàn bộ binh và các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn độc lập của các quân binh chủng khác.
Quân chủng lục quân Trung Quốc có khả năng tiến hành hoạt động tác chiến độc lập, cũng như hoạt động tác chiến phối hợp với các quân binh chủng khác trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí thông thường, vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học và sinh học.
Các chuyên gia quân sự Trung Quốc coi các nguyên tắc dưới đây là các nguyên tắc cơ bản để tổ chức quân đội và tiến hành chiến tranh:
- Hiểu biết đầy đủ về quân đội của mình và quân đội của đối phương;
- Gây thiệt hại nặng nề cho đối phương nhưng phải bảo toàn tối đa được lực lượng và phương tiện vũ khí của mình;
- Tiến hành tác chiến trên tất cả các mặt trận, dựa vào nhân dân và các nguồn lực tại chỗ;
- Cơ động, phản ứng linh hoạt với những diễn biến thay đổi trên chiến trường;
- Lập kế hoạch chu đáo và chuẩn bị kỹ càng cho chiến dịch (trận đánh);
- Tập trung quân bí mật đúng thời gian quy định, tạo ưu thế bố trí lực lượng;
- Tổ chức tốt công tác chỉ huy, phối hợp tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch, công tác đảng và công tác chính trị;
- Tạo yếu tố bất ngờ khi tiếp cận đối phương;
- Sử dụng hiệu quả khoảng thời gian giữa các trận đánh để đánh giá phân tích tình hình, bổ sung lực lượng và cho đơn vị nghỉ ngơi;
- Không để cho đối phương chiếm ưu thế chiến lược, tạo ưu thế chiến dịch và chiến thuật vượt trội hơn hẳn đối phương.
Hai hình thức tác chiến cơ bản của lục quân là tấn công và phòng thủ.
Mục đích tấn công là tiêu diệt đối phương và chiếm lĩnh các vị trí (đối tượng) có tầm quan trọng về mặt chiến lược hoặc chiến dịch. Để tấn công cần phải chuẩn bị lực lượng và phương tiện chiếm ưu thế hơn hẳn đối phương từ ba đến năm lần.
Mục đích phòng thủ là nhằm đánh lui sự tấn công của đối phương, gây thiệt hại nặng nề cho đối phương về lực lượng và phương tiện, không để cho đối phương chiếm được các vị trí (đối tượng) quan trọng, tạo điều kiện cho lực lượng chủ lực cơ động tác chiến hoàn thành nhiệm vụ của cả chiến dịch. Lực lượng phòng thủ cần phải có khả năng đánh lui sự tấn công của đối phương có ưu thế hơn từ hai đến ba lần về lực lượng và phương tiện.
Trong vùng chiến sự các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần cho lục quân thực hiện các nhiệm vụ sau: trinh sát, thông tin liên lạc, ngụy trang, công binh, vận tải, phòng vệ chống vũ khí hủy diệt hàng loạt (hạt nhân, hóa học và sinh học). Ở hậu phương phía sau phải đảm bảo tổ chức tốt công việc cung cấp vật chất, trang bị và bổ sung lực lượng cho mặt trận, tiếp nhận và cứu chữa thương binh, giam giữ tù binh…
Quân chủng lục quân (cũng như quân đội Trung Quốc) có bốn cấp sẵn sàng chiến đấu - cấp 4, cấp 3, cấp 2 và cấp 1.
Ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu cấp 4 các đơn vị đóng quân tại doanh trại và luyện tập quân sự theo kế hoạch thường kỳ. Một số đơn vị được duy trì với lực lượng thu gọn.
Khi tình hình chính trị trong nước hoặc quốc tế có diễn biến phức tạp thì mức độ sẵn sàng chiến đấu được nâng lên cấp 3. Công tác trực ban tại các sở chỉ huy được tăng cường. Các cơ quan chỉ huy thời chiến giữa “Bộ tổng tham mưu và các quân khu” được triển khai. Quân đội chuyển sang tình trạng sẵn sàng rời khỏi doanh trại. Một bộ phận lực lượng sẽ chuyển đến làm việc tại các sở chỉ huy dã chiến.
Ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu cấp 2 các đơn vị thu gọn được bổ sung đầy đủ lực lượng và trang bị vũ khí từ lực lượng quân dự bị. Quân đội rời khỏi doanh trại chuyển đến đóng quân tại các địa điểm theo nhiệm vụ tác chiến được giao và tại các vùng biên giới.
Ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu cấp 1 các đơn vị hoàn thành công việc triển khai lực lượng tại các địa điểm theo nhiệm vụ tác chiến được giao và tại các vùng biên giới; tăng cường các hoạt động trinh sát, kể cả việc phải xâm phạm vùng biên giới trong lãnh thổ của đối phương. Các đơn vị phải hoàn thành toàn bộ công việc chuẩn bị trước khi chiến sự nổ ra.
Lực lượng cán bộ chỉ huy của Quân chủng lục quân chủ yếu được lấy từ học viên tốt nghiệp các học viện quân sự. Thành phần cán bộ chỉ huy gồm có: quân sự, chính trị, hậu cần và kỹ thuật. Giới hạn tuổi của cán bộ chỉ huy là: cấp trung đội - 30 tuổi, cấp đại đội - 35 tuổi, cấp tiểu đoàn - 40 tuổi, cấp trung đoàn - 45 tuổi, cấp sư đoàn - 50 tuổi, cấp quân đoàn – 55 tuổi, cấp quân khu – 65 tuổi. Giới hạn tuổi một số loại cán bộ chỉ huy có thể kéo dài, nhưng không được quá năm năm.
Sau khi giải ngũ các sĩ quan, hạ sĩ quan và chiến sĩ được chuyển sang lực lượng dự bị. Giới hạn tuổi của lực lượng dự bị: chiến sĩ – 35 tuổi, hạ sĩ quan - 45 tuổi, sĩ quan - 55 tuổi.
Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài lục quân Trung quốc có các mặt mạnh sau đây:
- Có một số lượng lớn các sư đoàn, lữ đoàn có khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, được trang bị vũ khí và các phương tiện hiện đại;
- Nguồn lực huy động to lớn, cho phép trong một thời gian ngắn có thể nhanh chóng tăng cường lực lượng cho lục quân;
- Cán bộ chiến sĩ được đào tạo có trình độ cao; các đơn vị được huấn luyện tốt về chiến thuật. Có khả năng tác chiến trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí thông thường cũng như vũ khí hạt nhân;
- Binh lính Trung Quốc có tính kỷ luật cao và có khả năng chịu đựng tốt trong những điều kiện khắc nghiệt;
- Có lực lượng dự bị đã qua huấn luyện đông đảo, đảm bảo không chỉ nhu cầu bổ sung thêm lực lượng, mà còn đủ khả năng kịp thời bù đắp mọi tổn thất về người của quân đội;
- Dựa vào nhân dân địa phương và các nguồn lực tại chỗ giúp cho quân đội không phải làm nhiều công việc (như sửa chữa đường xá, vận chuyển lương thực, đạn dược…) để tập trung thực hiện nhiệm vụ chiến đấu;
- Có quan điểm hiện đại về các vấn đề chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch và chiến lược; có hệ thống phát triển các học viện quân sự và các viện nghiên cứu khoa học quân sự.
Và các mặt yếu sau đây:
- Lục quân Trung quốc không có vũ khí hạt nhân; lực lượng tăng thiết giáp và pháo tự hành còn chưa đủ mạnh. Hầu như chưa có lực lượng máy bay trực thăng yểm trợ và tên lửa phòng không tầm trung và tầm xa. Trang bị thông tin liên lạc, trinh sát điện tử, tác chiến điện tử và hậu cần chủ yếu vẫn là các loại thiết bị đã cũ;
- Các sĩ quan trung cao cấp còn thiếu kinh nghiệm tổ chức và tiến hành chiến dịch ở cấp Tập đoàn quân trên một mặt trận lớn.
- Trang bị các phương tiện cơ giới hóa còn yếu kém làm giảm khả năng cơ động của các đơn vị bộ binh, làm cho các đơn vị này dễ trở thành mục tiêu sát thương không chỉ của vũ khí hủy diệt hàng loạt, mà của cả các loại vũ khí thông thường;
- Sự phụ thuộc của tất cả các cấp vào quyết định của lãnh đạo Đảng các cấp tương ứng làm giảm khả năng phát huy sáng tạo của các cấp chỉ huy;
Các phương hướng cơ bản để hiện đại hóa lục quân Trung Quốc (theo quan điểm của các chuyên gia quân sự Trung quốc và của cả các chuyên gia quân sự nước ngoài) bao gồm:
1. Tối ưu hóa thành phần số lượng, trang bị vũ khí, cơ cấu tổ chức của lục quân;
2. Trang bị đầy đủ cho các đơn vị các loại vũ khí mới và thiết bị kỹ thuật quân sự hiện đại;
3. Nâng cao và hoàn chỉnh chương trình đào tạo cán bộ chỉ huy về chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật;
4. Nâng cao chất lượng đào tạo học viên của các trường và học viện quân sự;
5. Tiếp tục phát triển lực lượng động viên dự bị .
Phần VI: Định hướng của quân đội Trung quốc
Là lực lượng vũ trang đông đảo nhất, quân đội Trung Quốc còn đặt mục tiêu trở thành lực lượng vũ trang hiện đại và tiên tiến nhất thế giới. Sau khi đạt được khả năng đối đầu quân sự với Mỹ, quân đội Trung Quốc sẽ đảm bảo được chiến thắng trong cuộc chiến tranh với bất kỳ kẻ thù nào khác; và điều này cho phép Bắc Kinh cùng với Washington phân chia thế giới.
Hiện tại Lãnh đạo Trung Quốc đang phải thừa nhận rằng quân đội Trung Quốc chưa đáp ứng được các yêu cầu hiện đại hóa về cơ cấu tổ chức và khả năng cơ động, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao (vũ khí chính xác cao, các hệ thống thông tin liên lạc và chỉ huy quân đội, tác chiến điện tử, thiết bị vũ trụ, máy bay không người lái..v..v..). Khả năng tác chiến của quân đội ở ngoài xa lãnh thổ Trung Quốc vẫn còn rất thấp. Điều này thể hiện rõ khi so sánh khả năng của quân đội Trung Quốc với quân đội Mỹ và một số nước khác trong các cuộc chiến tranh cục bộ gần đây. Chiến lược phát triển và hiện đại hóa Quân đội và Tổ hợp công nghiệp quốc phòng Trung Quốc (được ông Giang Trạch Dân trình bày năm 2001), nhằm mục tiêu xây dựng Quân đội Trung Quốc đến năm 2020 trở thành quân đội mạnh nhất châu Á, và đến năm 2050 nằm trong hàng ngũ các quân đội mạnh nhất thế giới.
Trong những năm sắp tới Lãnh đạo Trung Quốc sẽ tập trung nỗ lực trang bị vũ khí hiện đại cho một phần (khoảng 15%) lực lượng quân đội, đủ khả năng đối phó hiệu quả với các quân đội hàng đầu thế giới như Mỹ, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Đồng thời Trung Quốc cũng xây dựng học thuyết phản ứng nhanh cho lực lượng được trang bị vũ khí hiện đại này (phần lớn học thuyết được sao chép từ học thuyết phản ứng nhanh của quân đội Mỹ).
Nhằm nâng cao khả năng cơ động, lữ đoàn là cấp đơn vị lục quân chính của lực lượng được trang bị vũ khí hiện đại.Trung quốc vận dụng tối đa các quan điểm xây dựng quân đội mới nhất của Mỹ để xây dựng lực lượng được trang bị vũ khí hiện đại này, trong đó có quan điểm “chiến tranh mạng”. Nguyên tắc đảm bảo thông tin theo thời gian thực cho quân đội về tình hình chiến sự, đảm bảo kịp thời sử dụng hỏa lực đánh phá các mục tiêu được phát hiện là cơ sở của “chiến tranh mạng”. Khi đó tất cả các đơn vị quân đội (cho tới tận từng xe chiến đấu) là một mạng thông tin thống nhất. Trong tương lai gần Trung Quốc khó có thể thực hiện ngay được việc này, vì vậy Trung quốc chủ yếu đang tập trung thực hiện quan điểm “chiến tranh không đối xứng (asymmetric warfare)”, nghĩa là chủ yếu tập trung tác động lên “các trung tâm đầu não” của đối phương. Trung quốc coi Mỹ là đối phương chủ yếu của Trung quốc, vì khi có khả năng đối đầu quân sự với Mỹ, quân đội Trung Quốc sẽ đảm bảo được chiến thắng trong cuộc chiến tranh với bất kỳ kẻ thù nào khác. Thực hiện quan điểm “chiến tranh không đối xứng (asymmetric warfare)” là sử dụng hỏa lực và các phương thức điện tử để tiêu diệt hoặc làm tê liệt các sở chỉ huy, các vệ tinh, các trung tâm thông tin liên lạc của đối phương; là các phương thức tạo thông tin giả đánh lừa đối phương… Để thực hiện mục tiêu này Trung Quốc đã thành lập các đơn vị “Hacker”. Từ năm 2000, các đơn vị mạng đã trở thành một binh chủng độc lập của quân đội Trung quốc, có khả năng phá hoại không chỉ các mạng quân sự mà cả các mạng dân sự của Mỹ. Đầu năm 2007, Trung Quốc đã thử nghiệm thành công vũ khí chống vệ tinh.
Lãnh đạo lực lượng vũ trang Trung Quốc cũng đặc biệt coi trọng việc tiến hành chiến tranh thông tin, coi đó là “sự chuyển tiếp từ phương thức chiến tranh cơ giới của xã hội công nghiệp sang phương thức chiến tranh của những quyết định, của kiến thức và trí tuệ”.
Phương thức hiệu quả nhất của chiến tranh thông tin là làm cho đối phương này mất khả năng đưa ra các quyết định chỉ huy. Còn trong thời bình thì cần đặc biệt quan tâm tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý.
Cần lưu ý rằng ở Trung Quốc nhận thức về tầm quan trọng của chiến tranh tâm lý đã có từ sớm hơn rất nhiều so với ở châu Âu. Những văn bản thư tịch cổ về quân sự của Trung Quốc đã cho thấy 25% số lượng quan võ của các triều đại phong kiến Trung Quốc chịu trách nhiệm tiến hành các hoạt động liên quan đến chiến tranh tâm lý. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi “nguyên tắc hoàn thiện công nghệ thông tin và vũ khí thông tin” là nền tảng của quá trình hiện đại hóa toàn bộ tổ chức quân sự của Trung quốc. Ngay từ năm 1985 ở Trung Quốc đã xuất bản cuốn sách “Chiến tranh thông tin” (khi đó ở phương Tây thuật ngữ này còn chưa được sử dụng).
Ngoài ra, Trung Quốc, cũng như Mỹ, tích cực phát triển các đơn vị đặc biệt. Các đơn vị đặc biệt giải quyết bốn loại nhiệm vụ. Các đơn vị này có thể làm nhiệm vụ “mở cửa”, đánh vào những mục tiêu quan trọng, tạo ra những lỗ hổng trong hệ thống phòng thủ của đối phương. Các đơn vị này có thể làm nhiệm vụ xung kích đánh vào các mục tiêu làm tê liệt khả năng chiến đấu của đối phương. Các đơn vị này có thể làm nhiệm vụ “quả đấm thép” chiếm lĩnh các vị trí quan trọng của đối phương. Các đơn vị này cũng có thể làm nhiệm vụ đẩy nhanh tốc độ chiến dịch và mở rộng vùng chiến sự ra các khu vực mới.
Lãnh đạo quân đội Trung Quốc hết sức quan tâm đến phương thức tiến hành thuần túy chiến tranh trên không của phương Tây. Quan điểm “ba phương thức tác chiến và ba phương thức phòng vệ” đã được đưa vào trong huấn luyện quân sự của Trung quốc ( tác chiến với tên lửa hành trình, tác chiến với máy bay “tàng hình”, tác chiến với máy bay trực thăng; phòng vệ chống vũ khí chính xác cao, phòng vệ chống nhiễu điện tử, phòng vệ chống các phương tiện trinh sát).
Hiện nay, vấn đề Đài Loan có thể nói là vấn đề duy nhất có thể gây ra sự đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ. Khi đó, sự lo ngại của Bắc Kinh là Hải quân Mỹ có khả năng ngăn chặn các tuyến đường cung cấp nguyên liệu trên biển tới Trung Quốc và đánh phá từ biển vào các khu vực kinh tế mới của Trung quốc. Tuy vậy, một điều rõ ràng là Mỹ không có khả năng xâm lược Trung Quốc (cũng như ngược lại). Sự phụ thuộc lẫn nhau của hai nước trong lĩnh vực kinh tế là rất lớn, vì vậy ở Washington và Bắc Kinh ngày càng có nhiều người ủng hộ quan điểm “Hai nước lớn”.
Lục quân là Quân chủng đông nhất của quân đội Trung Quốc. Quân chủng lục quân gồm có các binh chủng: bộ binh (bộ binh, bộ binh cơ giới, bộ binh rừng núi), tăng thiết giáp, pháo binh, phòng không lục quân, lính dù, công binh, hóa chất, trinh sát, thông tin liên lạc, vận tải, bộ đội biên phòng.
Quân chủng lục quân gồm có bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương. Bộ đội chủ lực trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội Trung quốc (đồng thời cũng là Bộ Tổng tham mưu của Quân chủng lục quân) và Bộ tư lệnh bảy quân khu:
1. Quân khu Thẩm Dương;
2. Quân khu Bắc Kinh;
3. Quân khu Lan Châu;
4. Quân khu Tế Nam;
5. Quân khu Nam Kinh;
6. Quân khu Quảng Châu;
7. Quân khu Thành Đô.
Quân chủng lục quân có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động tác chiến không chỉ ở bên trong lãnh thổ Trung Quốc, mà cả ở bên ngoài biên giới trong trường hợp cần thiết. Bộ đội địa phương trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự các địa phương có nhiệm vụ chính là phòng thủ trong giới hạn địa phương của mình.
Quân chủng lục quân của quân đội Trung quốc có: 24 quân đoàn bộ binh, 84 sư đoàn bộ binh cơ giới, 10 sư đoàn tăng thiết giáp, 11 sư đoàn pháo mặt đất, 4 lữ đoàn lính dù, 14 lữ đoàn xe tăng, 21 lữ đoàn pháo binh, 28 lữ đoàn pháo phòng không. Ngoài ra, trong thành phần của Quân chủng lục quân còn có: bộ đội địa phương (được tổ chức thành các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn); các đơn vị đảm bảo (công binh, hóa chất, trinh sát, thông tin liên lạc, tác chiến điện tử, vận tải…).
Trang bị vũ khí của lục quân Trung quốc gồm có: xe tăng hạng các loại “54”, “55”, “59”, “69” (khoảng 8000 chiếc); xe bọc thép trinh sát loại “62” (800 chiếc); xe bọc thép lội nước loại “63” (1200 chiếc); xe bọc thép các loại (3000 chiếc); pháo mặt đất các loại 76mm, 122mm, 130mm và 152mm (14500 khẩu); pháo tự hành 122mm và 155mm; pháo chống tăng 57mm, 76mm, 85mm và 100-mm; súng phóng lựu 60mm, 82mm, 100mm và 120 mm; pháo dàn hỏa lực (cachiusa) 107mm, 122mm, 130mm, 140mm và 273 mm ( tổng cộng có 3800 ống phóng); các loại tên lửa chống tăng; súng phóng lựu chống tăng, pháo phòng không 12,7 mm và 14,5 mm; súng máy; tiểu liên 7,62-mm; súng trường; tên lửa phòng không lục quân; máy bay trực thăng...
Thành phần một quân đoàn gồm có: ba sư đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới) và một sư đoàn (lữ đoàn) xe tăng, lữ đoàn pháo phòng không, lữ đoàn pháo mặt đất, trung đoàn pháo chống tăng, các đơn vị đảm bảo (trinh sát, thông tin liên lạc, công binh, hóa chất, tác chiến điện tử, vận tải, y tế…).
Thành phần một sư đoàn bộ binh (khoảng 14 ngàn người) gồm có: ba trung đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới) và một trung đoàn pháo mặt đất, tiểu đoàn pháo chống tăng, tiểu đoàn pháo phòng không, các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần. Sư đoàn bộ binh cơ giới (khoảng 17 nghìn người), ngoài các thành phần trên, còn có thêm một trung đoàn xe tăng.
Thành phần một sư đoàn xe tăng (khoảng 12 ngàn người) gồm có: ba trung đoàn xe tăng, một trung đoàn cơ giới, một trung đoàn pháo binh, một tiểu đoàn pháo phòng không và các đơn vị đảm bảo. Một sư đoàn xe tăng có 323 xe tăng.
Thành phần của các lữ đoàn (bộ binh rừng núi, xe tăng, lính dù, pháo binh, pháo phòng không) gồm có các tiểu đoàn và các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần. Về khả năng chiến đấu lữ đoàn là cấp đơn vị trung gian ở giữa cấp sư đoàn và cấp trung đoàn.
Trung đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới) nằm trong thành phần của sư đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới). Thành phần của trung đoàn gồm có: ba tiểu đoàn bộ binh (bộ binh cơ giới), một tiểu đoàn pháo binh mặt đất, các đại đội pháo phòng không và tên lửa chống tăng, các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần.
Thành phần của trung đoàn xe tăng gồm có: ba tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn cơ giới, một tiểu đoàn pháo binh và các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần. Trung đoàn xe tăng có thể nằm trong thành phần của sư đoàn xe tăng hoặc sư đoàn bộ binh cơ giới, và cũng có thể là một đơn vị độc lập.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã bắt đầu quá trình trang bị mới cho các quân đoàn và sư đoàn cơ giới các loại xe bọc thép, các hệ thống pháo phòng không và pháo mặt đất tự hành, tăng cường tính cơ động và khả năng hỏa lực, nâng cao khả năng phòng vệ tốt hơn đối với các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Về mặt tổ chức các sư đoàn, lữ đoàn và trung đoàn bộ binh của bộ đội địa phương cũng giống như bộ đội chủ lực. Nhiệm vụ chính của bộ đội địa phương là bảo vệ các tuyến đường giao thông từ khu vực biên giới và vùng ven biển vào bên trong lãnh thổ Trung quốc.
Đơn vị cấp chiến dịch cao nhất của quân chủng Lục Quân là Tập đoàn quân (tiến hành chiến dịch trên cả một mặt trận lớn). Tùy thuộc vào nhiệm vụ tác chiến, Tập đoàn quân có thể có từ 3 đến 7 quân đoàn bộ binh và các sư đoàn, lữ đoàn, trung đoàn độc lập của các quân binh chủng khác.
Quân chủng lục quân Trung Quốc có khả năng tiến hành hoạt động tác chiến độc lập, cũng như hoạt động tác chiến phối hợp với các quân binh chủng khác trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí thông thường, vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học và sinh học.
Các chuyên gia quân sự Trung Quốc coi các nguyên tắc dưới đây là các nguyên tắc cơ bản để tổ chức quân đội và tiến hành chiến tranh:
- Hiểu biết đầy đủ về quân đội của mình và quân đội của đối phương;
- Gây thiệt hại nặng nề cho đối phương nhưng phải bảo toàn tối đa được lực lượng và phương tiện vũ khí của mình;
- Tiến hành tác chiến trên tất cả các mặt trận, dựa vào nhân dân và các nguồn lực tại chỗ;
- Cơ động, phản ứng linh hoạt với những diễn biến thay đổi trên chiến trường;
- Lập kế hoạch chu đáo và chuẩn bị kỹ càng cho chiến dịch (trận đánh);
- Tập trung quân bí mật đúng thời gian quy định, tạo ưu thế bố trí lực lượng;
- Tổ chức tốt công tác chỉ huy, phối hợp tất cả các lực lượng tham gia chiến dịch, công tác đảng và công tác chính trị;
- Tạo yếu tố bất ngờ khi tiếp cận đối phương;
- Sử dụng hiệu quả khoảng thời gian giữa các trận đánh để đánh giá phân tích tình hình, bổ sung lực lượng và cho đơn vị nghỉ ngơi;
- Không để cho đối phương chiếm ưu thế chiến lược, tạo ưu thế chiến dịch và chiến thuật vượt trội hơn hẳn đối phương.
Hai hình thức tác chiến cơ bản của lục quân là tấn công và phòng thủ.
Mục đích tấn công là tiêu diệt đối phương và chiếm lĩnh các vị trí (đối tượng) có tầm quan trọng về mặt chiến lược hoặc chiến dịch. Để tấn công cần phải chuẩn bị lực lượng và phương tiện chiếm ưu thế hơn hẳn đối phương từ ba đến năm lần.
Mục đích phòng thủ là nhằm đánh lui sự tấn công của đối phương, gây thiệt hại nặng nề cho đối phương về lực lượng và phương tiện, không để cho đối phương chiếm được các vị trí (đối tượng) quan trọng, tạo điều kiện cho lực lượng chủ lực cơ động tác chiến hoàn thành nhiệm vụ của cả chiến dịch. Lực lượng phòng thủ cần phải có khả năng đánh lui sự tấn công của đối phương có ưu thế hơn từ hai đến ba lần về lực lượng và phương tiện.
Trong vùng chiến sự các đơn vị đảm bảo tác chiến và hậu cần cho lục quân thực hiện các nhiệm vụ sau: trinh sát, thông tin liên lạc, ngụy trang, công binh, vận tải, phòng vệ chống vũ khí hủy diệt hàng loạt (hạt nhân, hóa học và sinh học). Ở hậu phương phía sau phải đảm bảo tổ chức tốt công việc cung cấp vật chất, trang bị và bổ sung lực lượng cho mặt trận, tiếp nhận và cứu chữa thương binh, giam giữ tù binh…
Quân chủng lục quân (cũng như quân đội Trung Quốc) có bốn cấp sẵn sàng chiến đấu - cấp 4, cấp 3, cấp 2 và cấp 1.
Ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu cấp 4 các đơn vị đóng quân tại doanh trại và luyện tập quân sự theo kế hoạch thường kỳ. Một số đơn vị được duy trì với lực lượng thu gọn.
Khi tình hình chính trị trong nước hoặc quốc tế có diễn biến phức tạp thì mức độ sẵn sàng chiến đấu được nâng lên cấp 3. Công tác trực ban tại các sở chỉ huy được tăng cường. Các cơ quan chỉ huy thời chiến giữa “Bộ tổng tham mưu và các quân khu” được triển khai. Quân đội chuyển sang tình trạng sẵn sàng rời khỏi doanh trại. Một bộ phận lực lượng sẽ chuyển đến làm việc tại các sở chỉ huy dã chiến.
Ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu cấp 2 các đơn vị thu gọn được bổ sung đầy đủ lực lượng và trang bị vũ khí từ lực lượng quân dự bị. Quân đội rời khỏi doanh trại chuyển đến đóng quân tại các địa điểm theo nhiệm vụ tác chiến được giao và tại các vùng biên giới.
Ở tình trạng sẵn sàng chiến đấu cấp 1 các đơn vị hoàn thành công việc triển khai lực lượng tại các địa điểm theo nhiệm vụ tác chiến được giao và tại các vùng biên giới; tăng cường các hoạt động trinh sát, kể cả việc phải xâm phạm vùng biên giới trong lãnh thổ của đối phương. Các đơn vị phải hoàn thành toàn bộ công việc chuẩn bị trước khi chiến sự nổ ra.
Lực lượng cán bộ chỉ huy của Quân chủng lục quân chủ yếu được lấy từ học viên tốt nghiệp các học viện quân sự. Thành phần cán bộ chỉ huy gồm có: quân sự, chính trị, hậu cần và kỹ thuật. Giới hạn tuổi của cán bộ chỉ huy là: cấp trung đội - 30 tuổi, cấp đại đội - 35 tuổi, cấp tiểu đoàn - 40 tuổi, cấp trung đoàn - 45 tuổi, cấp sư đoàn - 50 tuổi, cấp quân đoàn – 55 tuổi, cấp quân khu – 65 tuổi. Giới hạn tuổi một số loại cán bộ chỉ huy có thể kéo dài, nhưng không được quá năm năm.
Sau khi giải ngũ các sĩ quan, hạ sĩ quan và chiến sĩ được chuyển sang lực lượng dự bị. Giới hạn tuổi của lực lượng dự bị: chiến sĩ – 35 tuổi, hạ sĩ quan - 45 tuổi, sĩ quan - 55 tuổi.
Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài lục quân Trung quốc có các mặt mạnh sau đây:
- Có một số lượng lớn các sư đoàn, lữ đoàn có khả năng sẵn sàng chiến đấu cao, được trang bị vũ khí và các phương tiện hiện đại;
- Nguồn lực huy động to lớn, cho phép trong một thời gian ngắn có thể nhanh chóng tăng cường lực lượng cho lục quân;
- Cán bộ chiến sĩ được đào tạo có trình độ cao; các đơn vị được huấn luyện tốt về chiến thuật. Có khả năng tác chiến trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí thông thường cũng như vũ khí hạt nhân;
- Binh lính Trung Quốc có tính kỷ luật cao và có khả năng chịu đựng tốt trong những điều kiện khắc nghiệt;
- Có lực lượng dự bị đã qua huấn luyện đông đảo, đảm bảo không chỉ nhu cầu bổ sung thêm lực lượng, mà còn đủ khả năng kịp thời bù đắp mọi tổn thất về người của quân đội;
- Dựa vào nhân dân địa phương và các nguồn lực tại chỗ giúp cho quân đội không phải làm nhiều công việc (như sửa chữa đường xá, vận chuyển lương thực, đạn dược…) để tập trung thực hiện nhiệm vụ chiến đấu;
- Có quan điểm hiện đại về các vấn đề chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch và chiến lược; có hệ thống phát triển các học viện quân sự và các viện nghiên cứu khoa học quân sự.
Và các mặt yếu sau đây:
- Lục quân Trung quốc không có vũ khí hạt nhân; lực lượng tăng thiết giáp và pháo tự hành còn chưa đủ mạnh. Hầu như chưa có lực lượng máy bay trực thăng yểm trợ và tên lửa phòng không tầm trung và tầm xa. Trang bị thông tin liên lạc, trinh sát điện tử, tác chiến điện tử và hậu cần chủ yếu vẫn là các loại thiết bị đã cũ;
- Các sĩ quan trung cao cấp còn thiếu kinh nghiệm tổ chức và tiến hành chiến dịch ở cấp Tập đoàn quân trên một mặt trận lớn.
- Trang bị các phương tiện cơ giới hóa còn yếu kém làm giảm khả năng cơ động của các đơn vị bộ binh, làm cho các đơn vị này dễ trở thành mục tiêu sát thương không chỉ của vũ khí hủy diệt hàng loạt, mà của cả các loại vũ khí thông thường;
- Sự phụ thuộc của tất cả các cấp vào quyết định của lãnh đạo Đảng các cấp tương ứng làm giảm khả năng phát huy sáng tạo của các cấp chỉ huy;
Các phương hướng cơ bản để hiện đại hóa lục quân Trung Quốc (theo quan điểm của các chuyên gia quân sự Trung quốc và của cả các chuyên gia quân sự nước ngoài) bao gồm:
1. Tối ưu hóa thành phần số lượng, trang bị vũ khí, cơ cấu tổ chức của lục quân;
2. Trang bị đầy đủ cho các đơn vị các loại vũ khí mới và thiết bị kỹ thuật quân sự hiện đại;
3. Nâng cao và hoàn chỉnh chương trình đào tạo cán bộ chỉ huy về chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật;
4. Nâng cao chất lượng đào tạo học viên của các trường và học viện quân sự;
5. Tiếp tục phát triển lực lượng động viên dự bị .
Phần VI: Định hướng của quân đội Trung quốc
Là lực lượng vũ trang đông đảo nhất, quân đội Trung Quốc còn đặt mục tiêu trở thành lực lượng vũ trang hiện đại và tiên tiến nhất thế giới. Sau khi đạt được khả năng đối đầu quân sự với Mỹ, quân đội Trung Quốc sẽ đảm bảo được chiến thắng trong cuộc chiến tranh với bất kỳ kẻ thù nào khác; và điều này cho phép Bắc Kinh cùng với Washington phân chia thế giới.
Hiện tại Lãnh đạo Trung Quốc đang phải thừa nhận rằng quân đội Trung Quốc chưa đáp ứng được các yêu cầu hiện đại hóa về cơ cấu tổ chức và khả năng cơ động, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao (vũ khí chính xác cao, các hệ thống thông tin liên lạc và chỉ huy quân đội, tác chiến điện tử, thiết bị vũ trụ, máy bay không người lái..v..v..). Khả năng tác chiến của quân đội ở ngoài xa lãnh thổ Trung Quốc vẫn còn rất thấp. Điều này thể hiện rõ khi so sánh khả năng của quân đội Trung Quốc với quân đội Mỹ và một số nước khác trong các cuộc chiến tranh cục bộ gần đây. Chiến lược phát triển và hiện đại hóa Quân đội và Tổ hợp công nghiệp quốc phòng Trung Quốc (được ông Giang Trạch Dân trình bày năm 2001), nhằm mục tiêu xây dựng Quân đội Trung Quốc đến năm 2020 trở thành quân đội mạnh nhất châu Á, và đến năm 2050 nằm trong hàng ngũ các quân đội mạnh nhất thế giới.
Trong những năm sắp tới Lãnh đạo Trung Quốc sẽ tập trung nỗ lực trang bị vũ khí hiện đại cho một phần (khoảng 15%) lực lượng quân đội, đủ khả năng đối phó hiệu quả với các quân đội hàng đầu thế giới như Mỹ, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Đồng thời Trung Quốc cũng xây dựng học thuyết phản ứng nhanh cho lực lượng được trang bị vũ khí hiện đại này (phần lớn học thuyết được sao chép từ học thuyết phản ứng nhanh của quân đội Mỹ).
Nhằm nâng cao khả năng cơ động, lữ đoàn là cấp đơn vị lục quân chính của lực lượng được trang bị vũ khí hiện đại.Trung quốc vận dụng tối đa các quan điểm xây dựng quân đội mới nhất của Mỹ để xây dựng lực lượng được trang bị vũ khí hiện đại này, trong đó có quan điểm “chiến tranh mạng”. Nguyên tắc đảm bảo thông tin theo thời gian thực cho quân đội về tình hình chiến sự, đảm bảo kịp thời sử dụng hỏa lực đánh phá các mục tiêu được phát hiện là cơ sở của “chiến tranh mạng”. Khi đó tất cả các đơn vị quân đội (cho tới tận từng xe chiến đấu) là một mạng thông tin thống nhất. Trong tương lai gần Trung Quốc khó có thể thực hiện ngay được việc này, vì vậy Trung quốc chủ yếu đang tập trung thực hiện quan điểm “chiến tranh không đối xứng (asymmetric warfare)”, nghĩa là chủ yếu tập trung tác động lên “các trung tâm đầu não” của đối phương. Trung quốc coi Mỹ là đối phương chủ yếu của Trung quốc, vì khi có khả năng đối đầu quân sự với Mỹ, quân đội Trung Quốc sẽ đảm bảo được chiến thắng trong cuộc chiến tranh với bất kỳ kẻ thù nào khác. Thực hiện quan điểm “chiến tranh không đối xứng (asymmetric warfare)” là sử dụng hỏa lực và các phương thức điện tử để tiêu diệt hoặc làm tê liệt các sở chỉ huy, các vệ tinh, các trung tâm thông tin liên lạc của đối phương; là các phương thức tạo thông tin giả đánh lừa đối phương… Để thực hiện mục tiêu này Trung Quốc đã thành lập các đơn vị “Hacker”. Từ năm 2000, các đơn vị mạng đã trở thành một binh chủng độc lập của quân đội Trung quốc, có khả năng phá hoại không chỉ các mạng quân sự mà cả các mạng dân sự của Mỹ. Đầu năm 2007, Trung Quốc đã thử nghiệm thành công vũ khí chống vệ tinh.
Lãnh đạo lực lượng vũ trang Trung Quốc cũng đặc biệt coi trọng việc tiến hành chiến tranh thông tin, coi đó là “sự chuyển tiếp từ phương thức chiến tranh cơ giới của xã hội công nghiệp sang phương thức chiến tranh của những quyết định, của kiến thức và trí tuệ”.
Phương thức hiệu quả nhất của chiến tranh thông tin là làm cho đối phương này mất khả năng đưa ra các quyết định chỉ huy. Còn trong thời bình thì cần đặc biệt quan tâm tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý.
Cần lưu ý rằng ở Trung Quốc nhận thức về tầm quan trọng của chiến tranh tâm lý đã có từ sớm hơn rất nhiều so với ở châu Âu. Những văn bản thư tịch cổ về quân sự của Trung Quốc đã cho thấy 25% số lượng quan võ của các triều đại phong kiến Trung Quốc chịu trách nhiệm tiến hành các hoạt động liên quan đến chiến tranh tâm lý. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc coi “nguyên tắc hoàn thiện công nghệ thông tin và vũ khí thông tin” là nền tảng của quá trình hiện đại hóa toàn bộ tổ chức quân sự của Trung quốc. Ngay từ năm 1985 ở Trung Quốc đã xuất bản cuốn sách “Chiến tranh thông tin” (khi đó ở phương Tây thuật ngữ này còn chưa được sử dụng).
Ngoài ra, Trung Quốc, cũng như Mỹ, tích cực phát triển các đơn vị đặc biệt. Các đơn vị đặc biệt giải quyết bốn loại nhiệm vụ. Các đơn vị này có thể làm nhiệm vụ “mở cửa”, đánh vào những mục tiêu quan trọng, tạo ra những lỗ hổng trong hệ thống phòng thủ của đối phương. Các đơn vị này có thể làm nhiệm vụ xung kích đánh vào các mục tiêu làm tê liệt khả năng chiến đấu của đối phương. Các đơn vị này có thể làm nhiệm vụ “quả đấm thép” chiếm lĩnh các vị trí quan trọng của đối phương. Các đơn vị này cũng có thể làm nhiệm vụ đẩy nhanh tốc độ chiến dịch và mở rộng vùng chiến sự ra các khu vực mới.
Lãnh đạo quân đội Trung Quốc hết sức quan tâm đến phương thức tiến hành thuần túy chiến tranh trên không của phương Tây. Quan điểm “ba phương thức tác chiến và ba phương thức phòng vệ” đã được đưa vào trong huấn luyện quân sự của Trung quốc ( tác chiến với tên lửa hành trình, tác chiến với máy bay “tàng hình”, tác chiến với máy bay trực thăng; phòng vệ chống vũ khí chính xác cao, phòng vệ chống nhiễu điện tử, phòng vệ chống các phương tiện trinh sát).
Hiện nay, vấn đề Đài Loan có thể nói là vấn đề duy nhất có thể gây ra sự đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ. Khi đó, sự lo ngại của Bắc Kinh là Hải quân Mỹ có khả năng ngăn chặn các tuyến đường cung cấp nguyên liệu trên biển tới Trung Quốc và đánh phá từ biển vào các khu vực kinh tế mới của Trung quốc. Tuy vậy, một điều rõ ràng là Mỹ không có khả năng xâm lược Trung Quốc (cũng như ngược lại). Sự phụ thuộc lẫn nhau của hai nước trong lĩnh vực kinh tế là rất lớn, vì vậy ở Washington và Bắc Kinh ngày càng có nhiều người ủng hộ quan điểm “Hai nước lớn”.
Tri Tam (theo www.chaskor.ru)
Nguồn: http://vitinfo.vn/MMuctin/Quansu/LA86140/default.html 14.03.2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét