Cuộc khủng hoảng đảo Điếu Ngư đã leo thang dẫn đến những căng thẳng mà cả Nhật Bản và Trung Quốc đều không thể lường trước sự việc. Nhật Bản và Trung Quốc là 2 quốc gia quan trọng hình thành nên xương sống cho sự ổn định khu vực, do đó cần thiết có một cơ chế, cách tiếp cận nhằm hạn chế những xung đột tương tự trong tương lai.
Chuỗi sự kiện: từ tháng 9 đến tháng 11 năm 2010
Cuộc khủng hoảng bắt đầu vào ngày 7 tháng 9. Chuỗi sự kiện diễn ra sau đó được định hình bởi các hành động đáng ngạc nhiên và các hậu quả không định trước. Các sự kiện (cho đến nay) có thể được chia ra thành bảy giai đoạn:
Giai đoạn 1: Cú sốc đầu tiên và việc bắt giữ thuyền trưởng Chiêm
Các sự kiện đã diễn ra vào ngày 7 tháng 9 và các quyết định do Tuần tra Biên phòng Nhật Bản vẫn còn mập mờ. Tuy nhiên, chắp nối các nguồn thông tin từ phía Nhật Bản và Trung Quốc, câu chuyện đã diễn ra như sau. Nguồn gốc chính xác của toàn bộ của khủng hoảng chỉ liên quan đến cá. Rõ ràng, các đàn cá quan trọng đã quyết định di trú đến vùng nước của quần đảo Điếu Ngư vào năm 2010. Các đàn cá này đã không đến các vùng nước này trong các năm gần đây, do đó ngư dân Phúc Kiến đã tránh vùng nước này. Tuy nhiên, mùa hè năm nay, một số lượng lớn cá một lần nữa đã được tìm thấy ở đây. Giữa quần đảo Điếu Ngư, có một vùng gọi là “đường đảo Rắn” rộng 1000m. Theo các ngư dân, các đặc tính địa lý của khu vực này biến nó thành một nơi tránh bão và sóng rất tốt. Đây cũng là một khu vực nhiều cá có giá trị như cá chuồn và cá bò. Điều này đã biến khu vực này thành một địa điểm rất hấp dẫn đối với ngư dân từ Trung Quốc đại lục và kể cả từ Đài Loan.[1]
Những ngư dân cho hay, cho đến một vài năm trước đây, Đội tuần tra Bờ Biển Nhật Bản vẫn cho phép tàu của Trung Quốc đánh cá trong khu vực. Lúc đầu chỉ có ngư dân Đài Loan là bị đuổi đi. Nhưng ngư dân Phúc Kiến cũng bóng gió rằng Đội Tuần tra Bờ biển Nhật Bản đã quyết định tại một thời điểm nào đó vào đầu tháng 9 phải thực hiện các hành động mạnh mẽ hơn để ngăn chặn dòng tàu thuyền Trung Quốc đổ vào. Các tàu tuần tra bao vây các tàu nhằm thu giữ cá và dụng cụ của họ. Xét những điều kiện kinh tế ngặt nghèo cho hoạt động của ngư dân ở Phúc Kiến , việc mất đi lượng cá bắt được và tệ hơn, là mất dụng cụ đánh cá, đồng nghĩa với việc phá sản và mất nguồn sống. Đối với các thuyền trưởng như Chiêm Kỳ Hùng, những nguy cơ rủi ro là rất cao.
Vào ngày 7 tháng 9, đoạn phim bây giờ đã xuất hiện ở khắp nơi về vụ đụng độ giữa một tàu đánh cá nhỏ màu xanh và đội Tuần tra Bờ biển Nhật Bản cho thấy thuyền trưởng Chiêm đã đâm vào tàu tuần tra hai lần. Điều không thấy rõ trong đoạn phim, nhưng rất có thể đã xảy ra, là ông ta làm vậy nhằm cố gắng trốn thoát khỏi vòng vây của tàu tuần tra và cố giữ lại dụng cụ và đống cá của mình. Trong đoạn phim cũng không chiếu cảnh ông này sau đó bị bắt giữ.
Mặc dù Thuyền trưởng Chiêm đã phản ứng rất vội vàng và liều lĩnh, rất dễ để có thể giải thích các hành động của ông ta. Ông ta tìm đánh bắt cá ở những nơi có cá, như chính ông cũng như hàng thế hệ các ngư dân khác trong làng của ông đã từng đánh bắt như thế trong quá khứ ở gần đảo Điếu Ngư. Ông ta sau đó đã bất chấp tất cả để trốn thoát khỏi vòng vây của Lực lượng Tuần tra Bờ biển và để cứu lấy nguồn sống của mình. Điều khó hiểu hơn là vì sao Lực lượng tuần tra Bờ biển Nhật Bản là thay đổi quy trình hoạt động chuẩn mực của mình để cắt đứt đường thoát chạy của một tàu đánh cá như thế này.
Bước tiếp theo là bước quan trọng nhất: quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Trong các vụ việc khác trong quá khứ, thường kém nghiêm trọng hơn, thuyền trưởng đều không bị bắt giữ. Tạp chí Aera của Nhật tiết lộ rằng Nhật Bản và Trung Quốc đã kí một thỏa thuận bí mật vào năm 2004 thống nhất thực hiện chính điều này: Nhật Bản cam kết sẽ tránh không thực hiện bất kỳ việc bắt giữ nào, biết rất rõ rằng việc bắt giữ này có thể châm ngòi một làn sóng dư luận, bù lại, Trung Quốc đồng ý sẽ ngăn không cho những nhà hoạt động xã hội đi thuyền ra đảo. Về bản chất, đây là một nỗ lực mang tính thực dụng để tách biệt vấn đề đánh cá khỏi vấn đề chủ quyền.[2] Thông tin này bị rò rỉ đã gây ra những lời chất vấn đầy giận dữ từ phía Đài Loan và Hồng Kông (không được tham gia vào thỏa thuận).[3]
Các nguồn tin Nhật Bản cho hay quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm không phải do Lực lượng Tuần tra Bờ biển được ra mà thực chẩt là do Bộ trưởng Lực lượng tuần duyên Seiiji Maehara, với sự ủng hộ của Ngoại trưởng Okada và sự đồng thuận ngầm của Văn phòng Thủ tướng. Theo thông tin của Asahi Shinbun:
Ngay sau khi tàu đánh cá đâm phải tàu của Đội tuần tra Bờ biển Nhật Bản vào ngày 7 tháng 9, Maehara đã gọi Chỉ huy Đội Tuần tra Suzuki Hisayasu và nói với ông này, “Thuyền thưởng Chiêm của tàu đánh cá Trung Quốc phải bị bắt giữ.” […] Maehara từ chối không chịu xuống nước. Ông nói với các thân cận của mình: “Văn phòng thủ tướng rất lưỡng lự cho nên tôi phải đưa ra quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Việc giải quyết vấn đề này không mắc phải sai sót gì cả.”[4]
Và vì thế, bánh xe của cỗ máy khủng hoảng đã bắt đầu được khởi động. Con tàu lúc đầu cũng bị tịch thu cùng thủy thủ đoàn. Nhưng, trừ thuyền trưởng Chiêm, thủy thủ đoàn đã được thả ra sau một vài ngày. Thuyền trưởng Chiêm được chuyển đến Phòng công tố địa phương ở Naha (Okinawa) và xét xử bởi tòa án trong nước của Nhật Bản. Các cáo buộc chống lại thuyền trưởng là ngăn cản người thi hành công vụ và đánh cá bất hợp pháp.
Trung Quốc nhanh chóng phản đối. Đại sứ Nhật Bản bị triệu tập nhiều lần chỉ trong một vài ngày, kể cả giữa đêm bởi Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc thúc giục việc thả thủy thủ đoàn và tàu. Vào ngày 10 tháng 9, tờ báo tiếng Anh chính thức của Trung Quốc China Daily đã đăng tài một bài viết với lời lẽ rất mạnh mẽ có tên “Hành động của Nhật Bản tại Điếu Ngư làm dấy lên lo ngại.” Bài báo viết:
Quần đảo Điếu Ngư đã là một phần của lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa, và Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo này. Đây không chỉ là quan điểm của chính phủ Trung Quốc mà cũng là kết luận của nhà sử học Nhật Bản Kiyoshi Inoue. […] Nhật Bản đã xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc khi tàu tuần tra của Nhật Bản chặn và kiểm tra tàu đánh cá của Trung Quốc và bắt giữ thuyền trưởng của tàu này. Nhật Bản nên biết rằng nước này sẽ đặt ra một tiền lệ không tốt nếu buộc tội thuyền trưởng của tàu Trung Quốc dựa trên luật của Nhật Bản. Trung Quốc cũng sẽ tăng cường tuần tra tại đảo Điếu Ngư để bảo vệ ngư dân Trung Quốc và Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của mình.[5]
Tuy nhiên những phản đối ban đầu chỉ được tiến hành qua con đường ngoại giao. Hiệu ứng quả cầu tuyết đã không xảy ra. Nhật Bản tin rằng vấn đề này có thể vẫn được giữ trong tầm kiểm soát.
Giai đoạn 2: Leo thang và căng thẳng
Cuộc khủng hoảng đã đạt đến đỉnh điểm khi Nhật Bản đưa ra hai quyết định quan trọng vào ngày 17 tháng 9 và ngày 19 tháng 9. Sau chiến thắng của chủ tịch đương nhiệm Naoto Kan đối với đối thủ Ichiro Ozawa trong cuộc đua giành chức lãnh đạo Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) vào ngày 14 tháng 10, Maehara được thăng chức lên nắm vị trí Ngoại trưởng vào ngày 17 tháng 10. Việc bổ nhiệm này hoàn toàn là vấn đề nội bộ, vì Maehara đã ủng hộ Kan trong cuộc tái tranh cử và Kan cần sự ủng hộ của một bộ phận đảng nằm dưới sự kiểm soát của Maehara. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, điều này lại được xem như một phần thưởng cho các hành động chống lại Trung Quốc và cho việc bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Thông tin về việc bổ nhiệm này được Trung Quốc đón nhận một cách rất tiêu cực.
Sau đó vào ngày 19 tháng 10, công tố viên Naha đã quyết định kéo dài thời gian tạm giữ thuyền trưởng Chiêm thêm mười ngày nữa để tiếp tục điều tra. Đây là một thủ tục mang tính tập quán ở Nhật Bản, tuy nhiên do phía Trung Quốc đã trông đợi rằng sau thời hạn mười ngày ông thuyền trưởng sẽ được thả, quyết định này càng làm cho các mối quan hệ xấu hơn.
Tại thời điểm này, Trung Quốc đã tiến hành một chiến dịch toàn diện chống lại Nhật Bản. Trung Quốc hủy bỏ mọi cuộc họp thượng đỉnh cấp cao. Nước này cũng hủy lời mời 10.000 thiếu niên Nhật Bản đến thăm Triển lãm Thượng Hải. Trung Quốc cũng bắt đầu tiến hành cấm vận trên thực tế đối với việc xuất khẩu các kim loại hiếm vào ngày 23 tháng 9. Hành động quyết liệt nhất được thực hiện vào ngày 20 tháng 9, khi bốn nhân viên Nhật Bản làm việc trong một nhà máy hóa chất của Nhật bị bắt giữ ở Trung Quốc trong một động thái trả đũa rất hiển nhiên của nước này. Vào ngày 21 tháng 9, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã đưa ra một bài phát biểu rất cứng rắn ở New York trong đó ông đã đe dọa rằng Nhật Bản có thể sẽ phải chịu những hậu quả rất nghiêm trọng. Nhật Bản cố gắng một cách tuyệt vọng để nói chuyện với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, nhưng tất cả các đường liên lạc trực tiếp đều bị cắt đứt. Thái độ phản ứng của Trung Quốc đã ảnh hưởng đến mối quan hệ Trung – Nhật trên mọi lĩnh vực.
Giai đoạn 3 – Thuyền trưởng Chiêm được thả
Vào ngày 24 tháng 9, dưới áp lực của Trung Quốc, Nhật Bản đã bắt đầu phải nhân nhượng. Về phía chính thức, Công tố viên Naha đã đưa ra một quyết định hết sức bất thường là quyết định thả thuyền trưởng Chiêm trước khi thời hạn giam giữ của ông này kết thúc. Ông tuyên bố công khai rằng việc thả này liên quan đến các khía cạnh về quốc tế. Về mặt không chính thức, các báo cáo sau đó tiết lộ rằng văn phòng Thủ tướng đã tham gia vào việc thuyết phục công tố viên phải thực hiện điều này và đã có nhiều cuộc điện thoại đầy giận dữ. Các nhân viên Bộ Ngoại giao cũng đã đến thăm riêng công tố viên một vài lần.
Các đảng đối lập đã phản đối thủ tướng, ngoại trưởng (Maehara) và Chủ tịch đảng DPJ (Okada) vì đã can thiệp chính trị vào hệ thống tư pháp và vì đã tỏ ra hèn nhát trước Trung Quốc. Cái giá về mặt chính trị của động thái này nhanh chóng trở nên rất rõ ràng.
Điều thú vị là giữa Kan và Tổng thống Mỹ Obama đã có một cuộc gặp gỡ ở New York ngay trước khi thuyền trưởng Chiêm được thả. Không ai biết nội dung của cuộc gặp gỡ là gì, nhưng có thể Mỹ đã thuyết phục Kan về những lợi ích của việc xoa dịu cuộc khủng hoảng với Trung Quốc.
Giai đoạn 4: Khủng hoảng tiếp tục và ý kiến dư luận tiếp tục nóng lên
Trong nỗ lực chấm dứt tranh chấp, Thủ tướng Kan đã thay đổi lịch trình của mình và bay đến châu Âu ngày 3 tháng 10 để tham dự hội nghị ASEM với thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. Cuối cùng, ông chỉ kịp có một cuộc gặp chớp nhoáng trong mười phút ở hành lang. Hai bên đã không có một cuộc đàm thoại chính thức nào.
Điều đáng ngạc nhiên là cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục sau khi thuyền trưởng Chiêm được thả. Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản phải xin lỗi, một bước đi mà kể cả các học giả ủng hộ chính phủ xem là quá xa. Vào ngày 16 tháng 10, các cuộc biểu tình rầm rộ chống Nhật Bản đã diễn ra ở Thành Đô, Tây An và Trịnh Châu. Các cuộc biểu tình này do các nhóm trường đại học tổ chức và rõ ràng là được sự cho phép của các cấp chính quyền, mặc dù quy mô thực sự của cuộc biểu tình là lớn hơn có thể đã dự kiến và dự trù. Thái độ chống Nhật Bản tự phát bắt đầu dâng lên. Trong tuần tiếp theo, các cuộc biểu tình, một số không được sự cho phép, bắt đầu diễn ra ở các thành phố nhỏ hơn ở Tứ Xuyên và ở phía bắc Trung Quốc. Một số băng-rôn bắt đầu lên tiếng chống lại chính phủ, và chính phủ quyết định đàn áp các cuộc biểu tình này. Trong khi đó, các thành phần ưu tú trung lưu bắt đầu cho lưu hành một số lượng lớn thư điện tử hoặc viết các bài blog có kèm các hình ảnh về tội ác của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Trong lúc đó tại Nhật Bản, Maehara đã leo thang các lời lẽ chống Trung Quốc như một biện pháp để làm cho những người chỉ trích ông trong nước phải im lặng. Vào ngày 16 tháng 10, ông dùng từ “điên loạn” khi nói đến các phản ứng của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình của các nhóm cánh hữu chống lại Trung Quốc đã diễn ra ở Tokyo, cũng như các hành động đe dọa khách du lịch Trung Quốc ở các khu vực khác ở Nhật Bản.
Một bước đi quan trọng khác là việc hủy bỏ vào phút chót cuộc gặp hòa giải đã được lên kế hoạch từ trước giữa Kan và Thủ tướng Ôn Gia Bảo vào ngày 30 tháng 10 bên lề hội nghị ASEAN ở Việt Nam. Trung Quốc chỉ trích Maehara vì đã nói dối về nội dung của cuộc họp trước đó giữa ông này và Bộ trường ngoại giao Trung Quốc và vì những nỗ lực của ông này trong việc vận động sự ủng hộ chống Trung Quốc trong khu vực. Ông này còn tiếp tục bị chỉ trích vì cuộc gặp với Hilary Clinton ở Hawaii vào ngày 28 tháng 10, trong đó Clinton đã nói rằng quần đảo Điếu Ngư là một phần trong khu vực an ninh của liên minh Mỹ - Nhật. Vào ngày 1 tháng 11, tờ Thời báo Toàn cầu do chính phủ Trung Quốc kiểm soát đã cho đăng một bài báo rất gay gắt về Maehara như thế này:
MAEHARA: NGOẠI TRƯỞNG HAY BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG?
Một cuộc gặp mặt thượng đỉnh giữa Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo và Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan đã bị hủy bỏ không lâu trước khi diễn ra vào thứ sáu tại Hà Nội. […]
Người phải chịu trách nhiệm là vị ngoại trưởng mới được bổ nhiệm, Seiji Maehara. Có lẽ nên gọi Maehara là bộ trưởng quốc phòng thì đúng hơn là ngoại trưởng. […] Rõ ràng, Kan đã chọn nhầm người để đại diện cho Nhật Bản trong các mối quan hệ quốc tế. Chính trị gia trẻ và đầy triển vọng của một thế hệ mới đã chứng tỏ rằng mình giống như một nhà chính trị cực đoan hơn là một nhà ngoại giao. […]
Các lời bình luận thuộc cánh hữu của Maehara đã làm giảm tính linh hoạt ngoại giao của Nhật Bản xuống còn không.
Hai tuần trước, Maehara đã làm cho Trung Quốc hết sức kinh ngạc khi miêu tả phản ứng của Trung Quốc đối với tranh chấp ở quần đảo Điếu Ngư là “điên loạn”. Từ ngữ của ông là những từ xúc phạm nhất mà một quan chức chính phủ Nhật Bản đã đưa ra trong một, hai thập kỷ trở lại đây. […]
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản không có tỏ ra bất cứ dấu hiệu gì cho thấy Nhật Bản xem Trung Quốc như đối tác thương mại lớn nhất của mình, mà như một cỗ máy chiến tranh, sẵn sàng tấn công Nhật Bản bất kỳ lúc nào. Trước sự trỗi dậy của Trung Quốc, chính phủ Nhật Bản không lãnh đạo người dân của mình cạnh tranh với Trung Quốc một cách công bằng, mà lại đi khuấy động sự e ngại đối với Trung Quốc và tập hợp lực lượng với các nước khác để kiềm chế Trung Quốc.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Maehara biết rõ điều này hơn bất kỳ người dân Nhật Bản nào. Ông ta không nên cố đẩy đất nước mình đến việc đối đầu với xu hướng này, vì điều này là vượt quá sức chịu đựng của Nhật Bản.[6]
Giai đoạn 5 – Bước ngoặt Nga
Bước ngoặt cay đắng nhất của Nhật Bản là cuộc viếng thăm đầy bất ngờ của Tổng thống Medvedev đến bốn đảo Kurile vào ngày 1 tháng 11. Đây là những đảo nằm trong tranh chấp về lãnh thổ giữa Nhật Bản và Nga kể từ năm 1945 và cũng chính là các đảo đã làm cho hai bên không ký hiệp ước hòa bình. Chưa một nhà lãnh đạo Nga hay Xô Viết nào trước đây đã từng đến thăm quần đảo Kurile. Chuyến viếng thăm đã phá vỡ các vòng đàm phán đã được tiến hành trong nhiều năm liền giữa hai bên về việc trao trả các đảo này về cho Nhật Bản.
Điều khó chịu nhất là việc Medvedev lần đầu tiên tuyên bố ý định đến thăm quần đảo Kurile vào ngày 27 tháng 9, chỉ hai ngày trước cuộc gặp thượng đỉnh của ông tại Bắc Kinh với Trung Quốc. Nhiều ý kiến phỏng đoán cho rằng ý tưởng mở một mặt trận thứ hai đã được đưa ra bàn bạc ở Bắc Kinh trong một cuộc thảo luận thực dụng về lợi ích đôi bên.
Dư luận Trung Quốc tất nhiên phản ứng rất tích cực đối với sự kiện này. Thời báo Toàn cầu vào ngày 2 tháng 11 có một bài báo mạnh mẽ với câu sau:
Ông Liu Junhong, một nhà nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Nhật Bản tại CICIR nói, “Nhật Bản không thể tránh khỏi các vụ căng thẳng với Trung Quốc và Nga trong cùng một thời điểm. Đã đến lúc các chính trị gia Nhật Bản cần phải xem xét lại chính sách ngoại giao của mình và tìm kiếm một giải pháp.”
Giai đoạn 6 – Trường thiên tiểu thuyết về đoạn băng bị rò rỉ về vụ đụng độ
Đúng khi mọi người nghĩ rằng cuộc khủng hoảng này không thể tồi tệ hơn được thì họ lại sai một lần nữa. Vụ va chạm tàu, cho đến nay vẫn luôn được giữ bí mật từ phía chính phủ Nhật Bản – đột nhiên bị rò rỉ trên Youtube vào ngày 4 tháng 11. Thủ phạm là một nhân viên của Lực lượng Tuần tra Bờ biển bất bình muốn cho cả thế giới biết “điều gì đã thực sự xay ra.” Việc rò rỉ đoạn phim này đã gây ra tác động rất lớn đến Nhật Bản. Nó thể hiện sự thiếu đoàn kết trong các cấp chính phủ Nhật Bản, và đồng thời, đã khắc họa được một cách sống động vụ va chạm giữa thuyền trưởng Chiêm và Lực lượng Tuần tra Bờ biển.
Nhưng đoạn phim này không cho thấy điều gì đã xảy ra dẫn đến cuộc va chạm. Nó cũng không thực sự thay đổi dư luận ở Trung Quốc. Ngược lại, đoạn băng này đã châm ngòi cho các cuộc tấn công khác chống lại chính phủ Kan và càng làm cho dư luận Nhật Bản mất niềm tin một cách sâu sắc hơn.
Giai đoạn 7 – Cuối cùng, khủng hoảng bớt căng thẳng ở APEC
Sau một cơ hội nữa bị lỡ ở hội nghị G20 vào ngày 11 và 12 tháng 11, cuộc khủng hoảng cuối cùng đã chấm dứt tại hội nghị thượng đỉnh APEC tại Yokohama. Một cuộc gặp chớp nhoáng kéo dài trong mười phút đã được tổ chức giữa Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Kan vào ngày 13 tháng 11. Vào ngày 19 tháng 11, việc vận chuyển kim loại hiếm từ Trung Quốc đến Nhật Bản được thông báo là đã được nối lại. Có vẻ như cuộc khủng hoảng đã bắt đầu bước vào giai đoạn hòa dịu. Tuy nhiên các mối quan hệ thì vẫn chưa được khôi phục hoàn toàn.
KHẢO SÁT VỀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ VÀ HẬU QUẢ
Những hậu quả của cuộc khủng hoảng này là gì? Rõ ràng, sự ủng hộ dành cho Thủ tướng Kan và chính phủ của ông đã bị đổ vỡ là một trong những hậu quả này. Đến ngày 7 tháng 11, sự ủng hộ dành cho nội các của ông Kan đã giảm mạnh từ tỉ lệ 71% giữa tháng 9 xuống chỉ còn 33%. Chưa một vị thủ tướng nào trước đây lại phải chứng kiến một sự sụt giảm về tỉ lệ ủng hộ mạnh đến như vậy. 74% người dân bày tỏ sự không đồng tình của họ do chính sách đối ngoại không đúng hướng và 49% cho rằng Trung Quốc và Nhật Bản sẽ có một mối quan hệ xa cách hơn trong tương lai.[7] Tình hình có thể sẽ chỉ ngày càng xấu đi, cuộc khủng hoảng đã làm cho Kan không thể tìm được đồng minh ở Thượng viện, nơi mà đảng của ông đang chiếm thiểu số. Điều này đã làm suy giảm đáng kể khả năng điều hành của ông. Khi mà sự sống sót của Kan đang rất cheo leo thì hai đối thủ cạnh tranh sát sườn nhất của ông, Okada và Maehara, cũng có thể phải trả giá, mặc dù chỉ có tương lai mới có thể trả lời cho chúng ta biết được điều này.
Một hậu quả thứ hai là sự tê liệt của nền ngoại giao Nhật Bản trong những tháng khủng hoảng. Tại hội nghị G20 tại Seoul, Nhật Bản dường như bị phân tán đến nỗi không thể giành lấy vai trò lãnh đạo trong bất kỳ vấn đề nào. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng dường như đã đẩy Nhật Bản gần hơn với Mỹ và kết quả là Nhật Bản bây giờ khó có khả năng hơn để giữ trung lập giữa Trung Quốc và Mỹ.
Thứ ba, các thay đổi về thể chế đã được thực hiện nhằm phản ứng với cuộc khủng hoảng có nghĩa rằng các mối quan hệ căng thẳng có thể sẽ duy trì như vậy trong thời gian trung hạn. Một sự thay đổi như thế là quyết định của Trung Quốc cho các tàu đánh cá thường trực trang bị vũ khí ra khu vực đảo Điếu Ngư về lâu dài để bảo vệ ngư dân của mình. Vào ngày 16 tháng 11 năm 2010, tàu ngư chính được trang bị vũ khí nhanh nhất và mới nhất của Trung Quốc, tàu China Yuzheng 310, đã thực hiện hành trình đầu tiên của mình từ Quảng Châu đến khu vực đảo Điếu Ngư.[8] Về phần mình, Nhật Bản tuyên bố vào ngày 21 rằng nước này sẽ tăng gấp đôi số lượng quân đội có mặt ở khu vực Okinawa từ 2000 quân lên 4000 quân, bao gồm việc đóng 100 quân ở hòn đảo xa nhất Ishigaki vào năm 2014.
Thứ tư, cuộc khủng hoảng đã hé lộ sức mạnh ngoại giao và kinh tế mới xuất hiện của Trung Quốc, và quan trọng hơn, là việc nước này đã sẵn sàng sử dụng sức mạnh này. Một hậu quả của điều này là vai trò quân sự của Mỹ trong các tranh chấp khu vực cũng gia tăng. Sự thay đổi chính sách này cũng đã ảnh hưởng đến Hàn Quốc (sau sự kiện Cheonan) và Việt Nam (liên quan đến sự đối đầu ở biển Đông). Một điều thú vị cần phải chỉ ra là lệnh cấm vận của Trung Quốc đối với việc xuất khẩu kim loại hiếm cho Nhật Bản đã phát triển thành một sự đối đầu rất nghiêm trọng tại Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
NHỮNG HẬU QUẢ KHÔNG LƯỜNG TRƯỚC ĐƯỢC VỀ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ
Bài viết này lập luận rằng cuộc khủng hoảng Điếu Ngư năm 2010 là hệ quả điển hình của một chuỗi đáng thất vọng của những tín hiệu bị bỏ lỡ, những bước tính toán nhầm và của những hậu quả không dự tính trước. Cuộc khủng hoảng là kết quả của sự tương tác rất năng động giữa hai đấu trường chính trị nội bộ đầy mạnh mẽ.
Điều quan trọng phải lưu ý ngay từ đầu là những gì không phải là bản chất cuộc khủng hoảng này. Rõ ràng, cuộc khủng hoảng không phải là do sắp đặt trước. Hải quân Nhật Bản bảo vệ hoặc hướng sức mạnh về phía đông. Thuyền trưởng Chiêm là một ngư dân độc lập đang đi bắt cá. Cuộc khủng hoảng này phù hợp với lý thuyết về sự hỗn loạn hơn là lý thuyết về các sự tương tác vĩ mô mang tính chiến thuật. Có vẻ cũng sẽ hơi quá nếu như liên hệ cuộc khủng hoảng này với cuộc tranh luận đã diễn ra trong thời gian dài về chủ nghĩa quân phiệt đang trỗi dậy ở Nhật Bản[9] hoặc với cuộc tranh luận về sự trỗi dậy của nền quân sự Trung Quốc.[10]
Như chuỗi sự kiện đã cho thấy, Nhật Bản là nước đưa ra bước đi đầu tiên. Trước vụ va chạm, chính phủ đã chỉ thị cho Lực lượng Tuần tra Bờ biển phải tăng cường các hoạt động của mình ở khu vực Điếu Ngư. Nhật Bản sau đó quyết định bắt giữ thuyền trưởng Chiêm. Sau khi Chiêm được thả, Nhật Bản tiếp tục thực hiện các hành động khác chống lại Trung Quốc. Các động thái này không được phối hợp nhịp nhàng. Chúng rõ ràng liên quan đến ý chí chính trị của một người duy nhất, Seiji Maehara, người đã cố để gây dựng hình ảnh chủ nghĩa dân tộc trên con đường trở thành thủ tướng sau Kan. Maehara được xem là một người theo Mỹ, chống Trung Quốc. Cũng có thể những người thân cận của ông này đã thiếu kiến thức cụ thể về nền chính trị Trung Quốc, cũng giống như Maehara đã thiếu thông tin về những thỏa thuận bí mật trước đó do đảng LDP kí kết trước đảng DPJ. Một khi thuyền trưởng Chiêm bị bắt, việc thả ông ta một cách nhanh chóng phải trả một cái giá khá đắt, vừa làm suy yếu yêu sách về chủ quyền vừa như một sự mất mặt nghiêm trọng. Những hành động vào ngày 7 tháng 9 chỉ bao gồm một nhóm người nhỏ, nhưng khi cuộc chơi đã bắt đầu, nó đã làm khơi mào cho dư luận ở Nhật Bản.
Về phía Trung Quốc, rất dễ để hiểu nhầm động cơ của Trung Quốc như một nỗ lực để áp đặt sức mạnh đang lên của mình, tuy nhiên, việc quần đảo này được Nhật Bản sáp nhập năm 1895 sau hàng thế kỷ nằm trong vùng biển của Trung Quốc đã gắn chúng với cuộc chiến tranh Trung – Nhật, việc mất Đài Loan và chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản. Chính phủ Trung Quốc khá chậm chạp trong việc phản ứng với cuộc khủng hoảng này và có vẻ như đã bị tác động bởi dư luận không chỉ ở Trung Quốc mà còn cả ở Hồng Kông, Đài Loan và những người dân Trung Quốc khác ở nước ngoài. Vào giai đoạn mà sự tham gia của người dân vào sự điều hành của chính phủ ngày càng cao, chính phủ không thể phớt lờ được dân thường.
KIẾM TÌM CÁC NGUYÊN NHÂN SÂU XA
Có hai nhóm nguyên nhân sâu xa hơn đã làm cho cuộc khủng hoảng này leo thang. Thứ nhất, sự dịch chuyển về cân bằng về quyền lực giữa Trung Quốc và Nhật Bản trở nên dễ dàng nhận thấy hơn nhiều. Sự lớn mạnh của Trung Quốc ở châu Á và trên toàn thế giới đã được đẩy mạnh vào những năm 2000, đặc biệt là trong những năm từ 2005 đến 2010. Nền kinh tế Trung Quốc đã vượt qua nền kinh tế Nhật Bản về quy mô GDP tuyệt đối vào mùa hè năm 2010, sớm năm năm so với dự báo vào năm 2003 của Goldman Sachs. Mặc dù vậy, quy mô của sự lớn mạnh về tài chính, thương mại và kinh tế chỉ có thể dễ nhận ra tại các thời điểm gay go. Trong cuộc khủng hoảng 2010, các công ty của Nhật Bản đã nhanh chóng nói rõ cho chính phủ Nhật Bản biết mức độ gắn bó của các công ty này với Trung Quốc và rằng họ không sẵn sàng phá vỡ mối quan hệ này chỉ vì mấy hòn đảo nhỏ xíu. Bởi vì Nhật Bản nhập khẩu 92% kim loại hiếm từ Trung Quốc, sự phụ thuộc lên đến 100% về chủng loại, [11] vấn đề trở nên hết sức dễ thấy.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng đã cho thấy các hạn chế trong chủ nghĩa khu vực đông Á. Đây vẫn là một quá trình diễn ra từ từ và không chính thức, thể hiện mạnh mẽ nhất giữa các quốc gia ASEAN và yếu nhất trong trường hợp Nhật Bản và Trung Quốc. Không giống như châu Âu, khi khủng hoảng nổ ra, không có một mạng lưới các chính trị gia hay thể chế khu vực để các nước có thể dựa vào. Về khía cạnh này, Nhật Bản sẽ là nước có lợi nhất khi thể chế hóa mối quan hệ với Trung Quốc càng sớm càng tốt.
KẾT LUẬN
Cuộc khủng hoảng Điếu Ngư vào tháng 9 năm 2010 đã đánh vào mối quan hệ Trung – Nhật như một quả tên lửa. Một vấn đề bắt nguồn chỉ là một vụ va chạm giữa ngư dân và lực lượng tuần tra bờ biển đã trở thành sự đổ vỡ ngoại giao nghiêm trọng nhất trong nhiều năm qua. Những nhân vật chủ yếu chỉ quan tâm đến các vấn đề trong nước đã gây ra cuộc khủng hoảng. Các quan chức Nhật Bản bị kẹt giữa các cuộc bầu cử chính trị và bắt buộc phải giải quyết cuộc khủng hoảng trong lúc các vị trí nhân sự chủ chốt đang bị thay đổi. Mặt khác, phía Trung Quốc cố gắng duy trì sự ủng hộ của dư luận trước sự thay đổi về lãnh đạo dự kiến sẽ tiến hành vào năm 2012. Do đó, chính phủ Trung Quốc đã phải hành động trước sự giận dữ của dân chúng về một vấn đề được xem như một sự vi phạm các quy trình hoạt động ngầm của Nhật Bản.
Nhật Bản và Trung Quốc là hai nước hình thành nên xương sống cho sự ổn định khu vực Đông Á, nhưng mối quan hệ của hai nước này rõ ràng là quá yếu về mặt thể chế. Còn rất nhiều điều phải làm để nâng cao đối thoại song phương. Mối quan hệ về chính trị cần phải bắt kịp với sự hội nhập kinh tế đang ngày càng tăng.
Đối với quần đảo Điếu Ngư, bước đi trong tương lai có lẽ sẽ nằm trong các nỗ lực ôn hòa nhằm chia sẻ chủ quyền. Như Giáo sư ở Waseda Satoshi Amako (Amako 2010) đã đề xuất gần đây, cả hai bên cần tìm kiếm lợi ích chung hơn là một kết quả được ăn cả ngã về không. Nhật Bản sẽ có lợi nhất khi tiến hành cách tiếp cận theo hướng chia sẻ trên thực tế hơn là chỉ dựa vào pháp lí một cách thuần túy. Nếu không, Nhật Bản có thể sẽ lại gặp bế tắc và sẽ làm xấu thêm mối quan hệ với nước láng giềng hùng mạnh của mình.
PGS. Yves Tiberghien, Đại học British Columbia
Bản gốc tiếng Anh "The Diaoyu Crisis of 2010: Domestic Games and Diplomatic Conflict". Bài viết được in trong Seri đặc biệt của tạp chí Harvard Asia Quarterly với chủ đề “The Disputed Sea – Maritime Security in East Asia” tháng 12/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét