Làm thế nào Tập Cận Bình, từ một cán bộ huyện không có gì nổi bật, trở thành nhà lãnh đạo chuyên chế nhất của Trung Quốc kể từ thời Mao Trạch Đông?
Trước thềm giao thừa 2014, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình đã cho phép một đoàn quay phim tới thăm nơi làm việc và ghi lại thông điệp mừng năm mới của ông gửi tới nhân dân. Thời niên thiếu, Tập từng bị gửi đi lao động ở nông trường, ông yếu ớt đến mức những người lao động khác chỉ chấm cho ông 6 trên thang điểm 10, “còn chẳng bằng phụ nữ,” sau này ông kể lại với đôi chút ngượng ngùng. Giờ ở tuổi 61, với tầm vóc 1m80, ông là lãnh đạo Trung Quốc cao nhất trong gần bốn thập niên qua, cùng giọng baritone trầm ấm và phong thái tự tin. Khi tiếp khách, ông thường đứng yên, đôi tay dài thả lỏng, tóc vuốt thẳng nếp, khắc họa thái độ “tiếp hay không thì tùy,” dẫn dụ vị khách của mình phải băng qua phòng để nhận được một cái bắt tay.
Hồ Cẩm Đào, người tiền nhiệm của Tập, vẫn đọc lời chúc Tết hàng năm từ chiếc bục trong căn đại lễ sảnh được sát trùng. Khi lên nắm quyền vào tháng 11 năm 2012, Tập gắn mình với một thế hệ cộng sản gần gũi hơn, một hệ thống quân sự đề cao tinh thần “làm việc chăm chỉ và sống giản dị.” Ông phát đi lời chúc mừng năm mới từ bàn làm việc. Đằng sau ông, giá sách bày biện những bức ảnh khắc họa ông như một tổng tư lệnh và một người đàn ông của gia đình. Trong một bức ảnh, ông mặc áo lính, đội mũ lông, thăm chiến sĩ trong vùng giá tuyết; trong một bức khác, ông tản bộ cùng vợ con, đẩy cha mình, Tập Trọng Huân, một lão thành cách mạng, trên xe lăn. Giá sách còn có những bộ sách cùng loại. Việc học trên trường lớp của Tập bị gián đoạn trong gần một thập niên do Cách mạng Văn hoá, và ông có thói quen khoe sự am hiểu văn chương của mình như những người tự học khác. Ông thường trích dẫn Hán văn, và trong một lần phỏng vấn với báo chí Nga hồi năm ngoái, ông tự giới thiệu mình đã đọc Krylov, Pushkin, Gogol, Lermontov, Turgenev, Dostoyevsky, Nekrasov, Chernyshevsky, Tolstoy, Chekhov, và Sholokhov. Khi tới Pháp, ông nhắc đến việc mình đã đọc Montesquieu, Voltaire, Rousseau, Diderot, Saint-Simon, Fourier, Sartre, và hàng chục triết gia khác. Trong bài phát biểu đầu năm của mình, Tập pha trộn tuyên ngôn xã hội chủ nghĩa (“Vung cao thanh gươm chống tham nhũng”) với cách nói lấy từ mạng xã hội Trung Quốc (“Tôi muốn bấm like cho nhân dân vĩ đại của chúng ta”). Ông cam kết đấu tranh với nghèo đói, cải thiện pháp quyền, và kiên định với lịch sử. Khi điểm lại những thành tựu của năm cũ, ông đề cao việc thành lập một dịp lễ kỷ niệm Thế chiến II: “Ngày chiến thắng kháng chiến chống Nhật xâm lược của nhân dân Trung Quốc.”
Tập là người thứ sáu cai trị Trung Quốc, và người đầu tiên sinh ra sau cách mạng 1949. Ông đứng trên đỉnh kim tự tháp quyền lực gồm 87 triệu Đảng viên Cộng sản, một tổ chức lớn hơn cả dân số nước Đức. Đảng giờ đây không còn vươn tới mọi ngóc ngách của đời sống người dân Trung Quốc như trong những năm 1970, nhưng Tập vẫn nắm giữ một nền kinh tế mà, theo một phép đo, đã vượt qua nền kinh tế Hoa Kỳ về quy mô; ông có thẩm quyền tối thượng với mọi vị tướng, thẩm phán, tổng biên tập, hay CEO của các công ty nhà nước. Như Lenin từng đúc kết năm 1902, “Đối với trung ương… để có thể thực sự chỉ huy dàn nhạc, phải biết ai chơi violin và ở vị trí nào, ai chơi sai nốt và tại sao.”
Thông điệp năm mới của Tập được phát sóng trên các kênh truyền hình và phát thanh quốc gia lúc 18h30, trước thời sự tối. Chỉ vài giờ sau, tin tức đột ngột tuột khỏi tầm kiểm soát của ông. Ở Thượng Hải, người dân đang tụ tập rất đông ăn mừng ngày lễ bên Bến Thượng Hải dọc bờ Hoàng Phố với đường chân trời hiện ra lộng lẫy. Đám đông ngày càng lớn so với sức chứa của bến. Khoảng 23h30, cảnh sát tăng cường hàng trăm sĩ quan để giữ trật tự, nhưng đã quá muộn; một cầu thang bị kẹt, mọi người xô đẩy và la hét. Cuộc tháo chạy diễn ra. Tổng cộng 36 người đã chết ngạt hoặc bị giẫm đến chết.
Thảm hoạ diễn ra ở một trong những nơi hiện đại và sầm uất nhất Trung Quốc đã khiến dư luận bàng hoàng. Trong những ngày sau đó, chính quyền Thượng Hải cho tổ chức một lễ tưởng niệm các nạn nhân và động viên người dân; bộ phận kiểm duyệt Internet bưng bít những bài thảo luận xem ai sẽ chịu trách nhiệm; cảnh sát thẩm vấn những người đăng bài chỉ trích nhà nước trên mạng. Khi người thân các nạn nhân tới thăm nơi xảy ra vụ giẫm đạp, an ninh theo dõi họ sát sao rồi dựng rào sắt để cách ly khu vực. Tài Tân, một tổ chức truyền thông điều tra, tiết lộ rằng trong khi vụ giẫm đạp diễn ra, các cán bộ chịu trách nhiệm khu vực đang say sưa bên bàn nhậu với sushi và rượu sake, bằng ngân sách nhà nước, trong một phòng riêng ở Empty Cicada, một nhà hàng sang trọng gần đó. Quả là tin tức trớ trêu bởi một trong những mệnh lệnh đầu tiên của Chủ tịch nước là nội quy “8 điều” dành cho công viên chức, nhằm chống lãng phí và tham nhũng. Bên cạnh những điều khác, chiến dịch kêu gọi quan chức chấn chỉnh theo tiêu chí “bốn món ăn một món canh.” (Cuối cùng, 11 cán bộ đã bị trừng phạt vì lạm dụng ngân quỹ và không ngăn chặn được rủi ro cho công chúng.)
Vài tuần sau sự cố ở Thượng Hải, tôi tới thăm một biên tập viên lâu năm ở Bắc Kinh, đặc thù công việc cho anh một cái nhìn về công việc của Đảng. Khi tôi tới căn hộ của anh, bọn trẻ đang hò hét ở phòng khách nên chúng tôi lui về phòng ngủ để nói chuyện. Khi tôi hỏi về tình hình Chủ tịch Tập, anh nhắc tới bữa tiệc ở Empty Cicada. Anh nghĩ nó cho thấy một vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều so với lối sống xa xỉ của quan chức. “Trung ương đã ban hành lệnh cấm tuyệt đối không được ăn uống nhà hàng bằng công quỹ. Vậy mà họ vẫn làm!” anh nói. “Điều đó cho thấy quan chức địa phương đang tìm cách đáp trả sự thay đổi. Có câu: ‘Khi luật lệ trở nên hà khắc, luôn có cách làm nó dễ thở hơn.’” Cuộc đối đầu giữa hoàng đế và bộ máy quan lại của ông ta luôn đi theo một mô hình kinh điển của chính trị Trung Quốc, và hiếm khi dẫn đến cái kết có hậu cho hoàng đế. Nhưng vị biên tập viên vẫn đặt cược vào Tập. “Ông ấy không sợ trời cũng chẳng sợ đất. Vả lại, như chúng tôi vẫn nói, ông ấy ngoài tròn trong vuông; trông có vẻ mềm dẻo, nhưng bên trong lại rất cứng rắn.”
* * *
Trước khi lên nắm quyền, trong và ngoài nước ông Tập được mô tả như một cán bộ hành chính cấp tỉnh không có gì nổi bật, hâm mộ văn hoá đại chúng Mỹ (thích phim Bố Già, Giải cứu binh nhì Ryan), quan tâm kinh doanh hơn chính trị, và được chọn chủ yếu do ít làm các đồng nghiệp xa lánh hơn các đối thủ. Đây là một bức chân dung không hoàn chỉnh. Ông đã trải qua hơn ba thập niên làm quan chức, nhưng nền chính trị Trung Quốc chỉ bộc lộ ông qua một góc nhìn giới hạn. Tại một buổi họp báo, một phóng viên địa phương đã đề nghị ông Tập đánh giá hiệu quả làm việc của mình: “Ông sẽ cho mình 100 điểm – hay là 90?” (Cả hai đều không, Tập trả lời; điểm cao thì có vẻ “huênh hoang,” điểm thấp lại thành “tự ti”).
Nhưng, mới qua một phần tư nhiệm kỳ 10 năm của mình, Tập đã nổi lên như nhà lãnh đạo chuyên chế nhất kể từ thời Mao Chủ tịch. Dưới danh nghĩa bảo vệ và làm trong sạch, ông đã điều tra hàng chục ngàn đồng bào, với những cáo buộc từ tham nhũng đến làm lộ bí mật quốc gia và kích động lật đổ nhà nước. Ông đã thâu tóm hoặc tự phong cho mình cả chục tước hiệu, không chỉ là nguyên thủ nhà nước và thống lĩnh quân đội mà còn lãnh đạo những ủy ban quan trọng nhất của Đảng – về đối ngoại, Đài Loan, và kinh tế. Ông đặt mình vào vị trí lãnh đạo các cơ quan mới có nhiệm vụ giám sát Internet, tái cơ cấu chính phủ, an ninh quốc gia, và cải cách quân đội, và trên thực tế ông cũng kiểm soát toà án, cảnh sát, và công an mật. “Ông ta ở trung tâm của mọi thứ,” Gary Locke, cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, nói với tôi.
Trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, người ta tiến hành chiến dịch sau khi đắc cử, chứ không phải trước đó, và trong quá trình xây dựng sự ủng hộ của công chúng và mài giũa một thông điệp, Tập đã bộc lộ một khát vọng chuyển biến mạnh mẽ. Ông kêu gọi Trung Quốc theo đuổi Giấc mơ Trung Hoa: cuộc “đại cải hoàn của dân tộc,” pha trộn giữa thịnh vượng, đoàn kết, và sức mạnh. Ông đề xuất ít nhất 60 cải cách xã hội và kinh tế, từ nới lỏng chính sách một con đến loại bỏ các trại “cải tạo lao động” và hạn chế độc quyền nhà nước. Ông cũng tìm cách gia tăng danh tiếng ở ngoài nước; trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên (đến Moskva), đi cùng ông là phu nhân, giọng nữ cao Bành Lệ Viên, người truyền cảm hứng cho việc đưa tin rộng rãi về cặp vợ chồng nguyên thủ hiện đại đầu tiên của Trung Quốc. Bà Bành nhanh chóng xuất hiện trong danh sách những người ăn mặc đẹp nhất của tạp chí Vanity Fair.
Sau Mao, Trung Quốc bắt đầu đề cao hình ảnh “lãnh đạo tập thể” hơn tầm quan trọng của các lãnh đạo cá nhân. Tập đã thay đổi cách tiếp cận này, và chính phủ của ông, sử dụng cả những biện pháp cũ lẫn mới, đã khuếch trương hình ảnh của ông. Với tinh thần của cuốn Mao chủ tịch ngữ lục, các nhà xuất bản đã cho ra tám đầu sách tập hợp những phát biểu và bài viết của Tập; cuốn mới nhất có tên Tập Cận Bình dụng điển, mổ xẻ những phát biểu của ông, đánh giá những câu ông yêu thích, và bình giảng những đề cập đến văn hoá của ông. Một nghiên cứu của tờ Nhân dân Nhật báophát hiện ra rằng mới tròn hai năm nhiệm kỳ, Tập đã xuất hiện trên báo chí với tần suất nhiều hơn hai lần so với người tiền nhiệm trong cùng kỳ. Ông còn xuất hiện trong loạt phim hoạt hình nhắm đến giới trẻ, bắt đầu với “Tạo nên một nhà lãnh đạo như thế nào,” tập phim mô tả ông như biểu tượng của một chế độ trọng dụng nhân tài, bất kể thân thế gia đình – “một trong những bí mật của sự thần kỳ Trung Quốc.” Cơ quan thông tấn nhà nước đã làm một điều chưa từng có là đặt biệt danh cho Tổng bí thư: Tập Đại Đại – tức Bác Tập. Hồi tháng 1, Bộ Quốc phòng cho ra mắt các bức tranh sơn dầu khắc hoạ ông trong những tư thế hùng dũng; hàng ngàn sinh viên mỹ thuật thi vào Đại học Kỹ thuật Bắc Kinh được sát hạch bằng khả năng phác hoạ chân dung ông. Tờ Bắc Kinh Vãn báo cho hay có một thí sinh ngưỡng mộ Chủ tịch tới mức “cô phải gắng hết sức để ngăn tay mình khỏi run.”
Với người bên ngoài, Tập là chủ đề không nhất quán. Các nhà xuất bản ở Hồng Kông, vốn độc lập trước sự kiểm soát của đại lục, đã cung cấp những những chân dung khác nhau về ông – đáng tin cậy nhất bao gồm Tập Cận Bình tân truyện của Lương Kiếm, và Tương lai của Trung Quốc của Ngô Minh – nhưng phần lớn được viết một cách bí mật dưới bút danh. Mô tả rõ ràng nhất về cuộc đời và ảnh hưởng của Tập đến từ chính lời nói và quyết định của ông, dọc theo con đường đi tới đỉnh cao quyền lực.
Cựu Thủ tướng Úc Kevin Rudd, một người biết tiếng Quan Thoại từng nói chuyện với Tập trong nhiều năm qua, nói với tôi: “Cái ông ấy nói là cái ông ấy nghĩ. Kinh nghiệm của tôi về ông ấy là không có nhiều xảo ngôn.”
Trong một nền lãnh đạo nổi tiếng với hình ảnh các quan chức cộng sản chải chuốt và nhạt nhẽo, Tập thể hiện một sức sống nam tính. Ông chế giễu giới “trí thức suông” và ca ngợi “tinh thần tập thể của đàn chó ăn thịt sư tử.” Trong cuộc gặp tháng 3 năm 2013, ông nói với Tổng thống Nga Vladimir Putin, “Chúng ta giống nhau về tính cách,” tuy Tập ít có xu hướng lực lưỡng ngực trần. Tập ngưỡng mộ Tống Giang, một kẻ giang hồ trong Thuỷ hử, cuốn tiểu thuyết kinh điển của Trung Quốc được viết từ thế kỷ 14, bởi năng lực “thu phục người tài” của nhân vật này. Không tuấn tú cũng không đẹp mã, Tống Giang cầm đầu một băng đảng hảo hán nổi dậy. Trong một trích đoạn nổi tiếng, Tống Giang nói về con sông Tầm Dương:
“Một mai may báo được oan cừu
Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau.”
Tập mô tả kế hoạch trọng yếu của mình như một cuộc giải cứu: ông phải bảo vệ nhà nước Cộng hòa Nhân dân và Đảng Cộng sản trước khi chúng bị nhấn chìm bởi tham nhũng; ô nhiễm môi trường; bất ổn tại Hồng Kông, Tân Cương, và các khu vực khác; và sức ép của một nền kinh tế tăng trưởng chậm chưa từng thấy kể từ năm 1990 (dù vẫn ở mức 7%, tốc độ tăng trưởng nhanh nhất so với bất kỳ nước lớn nào). “Những nhiệm vụ Đảng ta phải đối mặt trong cải cách, phát triển, và ổn định đang trở nên nặng nề hơn bao giờ hết, và xung đột, hiểm hoạ, và thử thách đang nhiều chưa từng thấy,” Tập nói trước Bộ Chính trị hồi tháng 10. Theo Chinese Human Rights Defenders, một tổ chức vận động có trụ sở tại Hồng Kông, trong năm 2014, chính phủ đã bắt giữ gần một ngàn thành viên của xã hội dân sự, nhiều hơn bất cứ năm nào kể từ giữa những năm 1990, theo sau vụ thảm sát Thiên An Môn.
Tập thẳng thừng phản đối những khái niệm dân chủ của Mỹ. Trong các năm 2011 và 2012, ông dành nhiều thời gian tiếp xúc với Phó Tổng thống Joe Biden, người đồng cấp chính thức của ông ở thời điểm đó, ở cả Trung Quốc và Mỹ. Biden kể với tôi rằng Tập đã hỏi ông tại sao nước Mỹ “chú trọng nhân quyền đến vậy.” Biden trả lời, “Không tổng thống Hoa Kỳ nào có thể đại diện cho nước Mỹ nếu không cam kết về nhân quyền,” và nói tiếp, “Nếu ông không hiểu điều này, ông không thể làm việc với chúng tôi. Tổng thống Barack Obama cũng không thể tại vị nếu không nói về vấn đề này. Hãy nhìn vào đó như một điều kiện chính trị tiên quyết. Nó không làm chúng tôi tốt hơn hay xấu đi. Chúng tôi là như vậy. Ông có quyết định của ông. Chúng tôi sẽ có quyết định của chúng tôi.”
Trong những tháng đầu nắm quyền của Tập, những người ủng hộ ông ở phương Tây suy đoán rằng ông muốn dập tắt những lời chỉ trích cứng rắn, rồi sẽ cởi mở hơn, có thể là trong nhiệm kỳ hai, bắt đầu vào năm 2017. Quan điểm này phần lớn đã biến mất. Cựu Bộ trưởng Tài chính Henry Paulson, tác giả cuốn Dealing with China sắp ra mắt, mô tả quãng thời gian một thập niên tiếp xúc với Tập, nói với tôi: “Ông ta kiên quyết và thẳng thắn – cả công khai lẫn riêng tư – về việc Trung Quốc đang bác bỏ những giá trị phương Tây và nền dân chủ đa đảng.” Ông nói thêm, “Đối với người phương Tây, có vẻ rất phi lý khi một mặt thì cam kết thúc đẩy nhiều hơn sự cạnh tranh và linh hoạt theo định hướng thị trường trong nền kinh tế, mặt khác lại tìm cách kiểm soát chặt hơn lĩnh vực chính trị, truyền thông, và Internet. Nhưng đó là mấu chốt: ông ta coi một Đảng vững mạnh là tối cần thiết cho sự ổn định, và chỉ nó mới đủ mạnh để giúp ông ta hoàn thành những mục tiêu khác của mình.”
Trong quyết tâm giành quyền kiểm soát và bảo vệ Đảng, có lẽ Tập đã tạo ra một mối đe doạ khác: ông khoét sâu thêm những rạn nứt nội bộ và làm lung lay thế cân bằng đặc trưng cho sự trỗi dậy của đất nước trong một thế hệ. Trước khi Tập nắm quyền, các quan chức hàng đầu vẫn đinh ninh mình được bảo vệ. Nhà văn Dư Hoa nói với tôi, “Khi Trung Quốc bắt đầu phát triển, những ‘luật lệ bất thành văn’ đã thực sự trở thành vấn đề. Khi luật pháp hiện hành không đủ cụ thể và rõ ràng, khi chính sách và các đạo luật không theo kịp thực tế, người ta luôn phải dựa vào những luật lệ bất thành văn.” Chúng chi phối mọi thứ, từ số tiền phải phong bì cho bác sĩ phẫu thuật đến giới hạn hoạt động của một tổ chức phi chính phủ nếu không muốn bị xoá sổ. “Luật lệ bất thành văn đã bắt đầu bị xoá bỏ,” ông Dư nói. “Dĩ nhiên đó là điều đáng làm, nhưng luật pháp thì chưa kịp đến.”
* * *
Đảng Cộng sản xác định sứ mệnh của mình là phụng sự cho một xã hội phi giai cấp nhưng lại tự tổ chức theo một hệ thống phân cấp khắt khe, trong đó Tập Cận Bình ra đời ở vị trí gần chóp. Ông sinh ra tại Bắc Kinh năm 1953, là con thứ ba trong gia đình bốn người con. Cha của ông, Tập Trọng Huân, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Tuyên truyền của Trung Quốc, bắt đầu làm cách mạng ở tuổi 14, khi ông và các bạn cùng lớp tìm cách đầu độc một giáo viên mà họ cho là phần tử phản cách. Ông bị tống vào tù, nơi ông gia nhập Đảng Cộng sản, rồi cuối cùng trở thành một chỉ huy cấp cao và bị cuốn vào những xích mích nội bộ của Đảng. Năm 1935, một phe nhóm đối thủ cáo buộc Tập Trọng Huân phản bội và ra lệnh chôn sống ông, nhưng Mao đã tháo gỡ vụ khủng hoảng này. Tại một hội nghị Đảng tháng 2 năm 1952, Mao tuyên bố để “ngăn chặn các phần tử phản cách” cần trung bình cứ một đến hai nghìn người dân phải hành quyết một tên. Tập Trọng Huân ủng hộ “ngăn chặn và trừng phạt nghiêm khắc,” nhưng trong khu vực của ông, “việc giết hại xảy ra tương đối ít,” theo tiểu sử chính thức của ông.
Tập Cận Bình lớn lên với những câu chuyện của cha mình. “Cha tôi kể chuyện tham gia cách mạng và ông thường nói, ‘Chắc chắn con sẽ làm nên cách mạng trong tương lai,’” Tập hồi tưởng trong một cuộc phỏng vấn năm 2004 với Tây An Vãn báo, một tờ báo nhà nước. “Rồi cha tôi giảng giải về cách mạng. Chúng tôi đã nghe nhiều đến mức chai cả tai.” Trong sáu thập niên tham chính, cha ông đã chứng kiến và thực hành mọi chiến lược. Trong bữa tối với Tập Trọng Huân năm 1980, David Lampton, một chuyên gia về Trung Quốc của Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp thuộc Đại học John Hopkins, đã rất ngạc nhiên khi thấy ông có thể tiếp rượu Mao Đài với hàng chục quan khách mà không có biểu hiện gì. “Hoá ra ông ấy uống nước,” Lampton nói.
Khi Tập Cận Bình lên năm, cha ông được thăng làm phó thủ tướng, và ông thường tới thăm cha ở Trung Nam Hải, khu quần thể đặc biệt dành cho các lãnh đạo cấp cao. Tập theo học ở trường Mùng 1 tháng 8, đặt theo tên một chiến thắng vang dội của Đảng Cộng sản. Nằm trong khuôn viên cung điện cũ của một hoàng tử nhà Thanh, ngôi trường được mệnh danh là lãnh tụ diêu lam, tức “cái nôi của lãnh tụ.” Học sinh ở đó tạo thành một nhóm tinh hoa nhỏ, gắn kết; cùng sống trong những khu nhà, cùng hưởng một kỳ nghỉ hè, và cùng chia sẻ những nề nếp quý tộc. Trong hàng thế kỷ trước thời Cộng hoà Nhân dân, danh sách những danh gia vọng tộc ngày càng nhiều, sở hữu cả của cải và chính trị. Con cháu các gia đình đó một số làm kinh doanh, một số theo đuổi chức tước. Những người chiến thắng cũng thay đổi theo thời gian, và khi những người cộng sản thắng thế năm 1949, họ đã giành được hồng bào. “Ngôn ngữ phổ thông để mô tả điều này là họ đã ‘chinh phục thiên hạ,’” nhà xã hội học Dương Quốc Bân ở Đại học Pennsylvania nói với tôi. “Họ tin mình được an bài làm lãnh đạo. Họ làm chủ. Và con cháu họ cũng nghĩ một cách tự nhiên rằng chúng sẽ là, và nên là, những người chủ trong tương lai.” Như sử gia Mễ Hạc Đô nhận xét trong Thế hệ Hồng vệ binh, cuốn sách xuất bản năm 1993 của ông, học sinh trường Mùng 1 tháng 8 “so bì lẫn nhau xem cha ai có chức cao hơn, cha ai đi xe xịn hơn. Một số đứa nói, ‘Tuân lệnh ai có cha giữ chức vụ cao nhất.’” Khi Cách mạng Văn hoá bắt đầu năm 1966, những sinh viên Bắc Kinh thuộc diện tự lai hồng (tức “sinh ra đã đỏ”) đã đề cao khẩu hiệu: “Cha anh hùng, con anh hùng; cha phản động, con vô lại.” Hồng vệ binh tìm cách xoá sạch tài sản phe đối lập để làm chúng “trong sạch và tinh khiết như pha lê,” họ nói. Từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 9 năm 1966, gần 2 ngàn người đã bị sát hại ở Bắc Kinh, và ít nhất 4.900 di tích lịch sử bị hư hại hoặc phá huỷ, theo Ngô Nhất Khánh, tác giả cuốn The Cultural Revolution at the Margins.
Nhưng Tập Cận Bình không đóng vai trò rõ rệt của kẻ tấn công lẫn nạn nhân. Năm 1962, cha ông bị buộc tội cổ xuý cho cuốn tiểu thuyết mà Mao bài xích, và bị đưa đi lao động trong một nhà máy; mẹ ông, Tề Tâm, bị giao nhiệm vụ lao động khổ sai ở nông trại. Tháng 1 năm 1967, sau khi Mao khuyến khích sinh viên vạch mặt “kẻ thù giai cấp,” một nhóm thanh niên đã lôi Tập Trọng Huân ra đấu tố trước đám đông. Trong các tội danh, ông bị cáo buộc đã nhìn sang Tây Berlin bằng ống nhòm trong chuyến thăm Đông Đức cách đó vài năm. Ông bị giam trong một doanh trại quân đội, nơi trong nhiều năm ông giết thời gian bằng cách đi bộ trong buồng giam, sau này ông kể lại – một vạn vòng xuôi, rồi một vạn vòng ngược. Con trai ông còn quá nhỏ để làm một Hồng vệ binh chính thức, và lý lịch của cha cũng khiến Tập Cận Bình không được tin dùng. Hơn nữa, việc sinh ra đã đỏ đã trở thành một thứ trách nhiệm. Các trường ưu tú bị coi là tiểu bảo tháp và bị đóng cửa. Tập và con của các cán bộ bị đấu tố khác đã ở bên nhau, cuốn vào những vụ ẩu đả đường phố và ăn cắp sách vở từ các thư viện bị đóng cửa. Về sau Tập mô tả thời kỳ này như một sự mất kiểm soát hoàn toàn. Ông bị các đội Hồng vệ binh bắt đến “ba bốn lần,” và bị ép đấu tố cha mình. Năm 2000, ông kể với nhà báo Dương Tiểu Hoài về lần bị một nhóm thân tín với vợ của người đứng đầu cảnh sát mật Trung Quốc bắt giữ:
Tôi mới 14. Hồng vệ binh hỏi, “Mày thấy tội của mày nặng thế nào?”“Cái đấy bọn mày có thể tự đánh giá. Đã đủ để xử tử tao chưa?”“Bọn tao có thể xử tử mày cả trăm lần.”Trong đầu tôi bị xử tử một lần hay một trăm lần cũng không khác nhau, vậy tại sao phải sợ một trăm lần? Hồng vệ binh muốn doạ tôi, nói tôi sắp cảm nhận được chuyên chính dân chủ nhân dân, và tôi chỉ còn năm phút. Nhưng cuối cùng, thay vì giết tôi, chúng lại bảo tôi mỗi ngày đều phải đọc ngữ lục của Mao Chủ tịch cho đến đêm.
Tháng 12 năm 1968, trong nỗ lực giành lại kiểm soát, Mao ra lệnh cho Hồng vệ binh và học sinh sinh viên phải về nông thôn để “được giai cấp bần cố nông cải tạo lại.” Các gia đình gia thế gửi con cái tới những vùng họ có quan hệ hoặc có gia đình, và Tập Cận Bình tới nơi đồn trú cũ của cha ở Thiểm Tây. Ông được chỉ định về Lương Gia Hà, một ngôi làng nằm giữa những vách đá hoàng thổ. “Cường độ lao động làm tôi choáng váng,” Tập hồi tưởng trong một buổi phỏng vấn truyền hình năm 2004. Để trốn việc, ông tập hút thuốc – không ai làm phiền người đang hút thuốc – và ở lỳ trong nhà vệ sinh. Sau ba tháng, ông trốn về Bắc Kinh, nhưng bị bắt và bị gửi trả về địa phương. Trong cái sau này trở thành phần trung tâm trong tiểu sử chính thức của ông, Tập đã được tái sinh. Một bài viết của cơ quan thông tấn nhà nước gần đây còn đưa ra giai thoại: “Chủ tịch Tập đã sống cùng dân làng trong hang, ngủ trên kháng (giường bằng gạch và đất nung, bên dưới có ống dẫn khói từ bếp qua để sưởi ấm – NHĐ), chịu chấy rận đốt, gánh phân, đắp đập, và sửa đường.” Nó đã bỏ sót vài chi tiết tàn khốc. Có lần, ông nhận được thư báo Tập Hòa Bình, người chị cùng cha khác mẹ, đã qua đời. Nhà báo người Úc John Garnault, tác giả cuốn sách sắp ra mắt về sự trỗi dậy của Tập và nhóm thân tín, nói, “Đó là một vụ tự tử. Những người thân cận nói với tôi, có ghi âm, rằng sau một thập niên bị ngược đãi bà ấy đã treo cổ mình lên vòi tắm.”
Tập đã chọn gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản. Do lý lịch của cha, đơn xin gia nhập của ông đã bị từ chối tới bảy lần, theo số lần ông đếm. Sau khi kết thân với một cán bộ địa phương, ông đã được chấp nhận. Tháng 1 năm 1974, ông chính thức vào Đảng và trở thành bí thư làng. Quyết tâm vào Đảng của ông đã khiến một vài người bạn đồng lứa cảm thấy khó hiểu. Một người bạn lâu năm sau này trở thành giáo sư đã kể cho một nhà ngoại giao Mỹ rằng ông cảm thấy “bị phản bội” trước tham vọng “gia nhập hàng ngũ” của Tập. Trong một bức điện ngoại giao của Mỹ ghi lại quan điểm của ông, nhiều người trong nhóm bạn bè của Tập đã tìm mọi cách thoát khỏi chính trị; họ hẹn hò, uống rượu, và đọc văn học phương Tây. Họ “cố gắng bù lại những năm tháng đã mất bằng cách tìm thú vui,” giáo sư nói. Cuối cùng, ông kết luận Tập có “tham vọng khác thường,” và biết mình sẽ “không đặc biệt” bên ngoài Trung Quốc nên ông “chọn tồn tại bằng cách trở nên đỏ hơn cả đỏ.” Suy cho cùng, Dương Quốc Bân nói với tôi về con cái các cựu lãnh đạo, “ý thức cầm quyền đã không mất đi. Niềm tự hào và ý thức về ưu thế vẫn ở lại, họ phần nào tự tin rằng nghịch cảnh của cha mình chỉ là nhất thời và sớm muộn họ cũng sẽ trở lại. Đó chính là những gì đã diễn ra.”
Năm sau, Tập vào Đại học Thanh Hoa với tư cách sinh viên “công-nông-binh” (thí sinh được nhận trên cơ sở lý lịch chính trị thay vì điểm số). Mùa xuân năm đó, Tập Trọng Huân được phục hồi danh dự sau 16 năm chịu án. Khi gia đình đoàn tụ, ông không còn nhận ra những đứa con trai đã trưởng thành của mình. Lòng tin của ông chưa bao giờ dao động. Tháng 11 năm 1976, ông viết thư cho lãnh đạo Đảng Hoa Quốc Phong, đề nghị được phục chức, nhằm “cống hiến phần đời còn lại cho Đảng và phấn đấu hơn nữa vì nhân dân.” Ông ký thư, “Tập Trọng Huân, người đi theo Mao Chủ tịch và người Đảng viên chưa được phục hồi sinh hoạt Đảng.”
Gia thế của Tập Cận Bình khiến ông được tiếp xúc với nền chính trị khốc liệt – thanh trừng, trả thù, phục chức – và ông đã rút ra những bài học thẳng thắn từ đó. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2000 với nhà báo Trần Bằng của tờ Trung Hoa Thời báo ở Bắc Kinh, Tập nói, “Những ai có ít trải nghiệm với quyền lực, những ai xa lạ với nó, sẽ có xu hướng nhìn nhận mọi thứ như điều bí ẩn và hư cấu. Nhưng tôi nhìn sâu hơn những thứ bên ngoài: quyền lực, những bó hoa, ánh hào quang, và những tràng vỗ tay. Tôi thấy những nhà giam, sự thay lòng đổi dạ giữa quan hệ con người. Tôi hiểu chính trị ở một mức độ sâu hơn.” Cách mạng Văn hoá và những năm tháng ở Diên An, nơi ông được gửi đến thời niên thiếu, đã tạo nên ông. “Diên An là điểm khởi đầu của cuộc đời tôi,” ông nói năm 2007. “Nhiều phẩm chất và ý tưởng nền tảng mà tôi có hôm nay được hình thành ở Diên An.” Cựu Thủ tướng Úc Rudd nói với tôi, “Mấu chốt trong mọi nhận định về Tập Cận Bình phải bắt đầu từ sự cống hiến của ông ta dành cho tổ chức Đảng – cho dù trong đời sống riêng lẫn đời sống chính trị ông đã nếm trải cả điều tốt nhất lẫn tệ nhất của Đảng.”
Anh chị em của Tập ly tán nhiều nơi: em trai và một người chị của ông làm ăn tại Hồng Kông, người chị còn lại được cho là đã định cư ở Canada. Nhưng Tập Cận Bình đã ở lại và qua năm tháng tiến sâu hơn trong Đảng. Sau khi tốt nghiệp năm 1979, ông nhận công việc đáng ao ước là phụ tá cho Cảnh Tiêu, một quan chức quốc phòng cao cấp mà cha ông gọi là “người đồng chí sát cánh thân thiết nhất” từ thời cách mạng. Tập mặc quân phục và tạo dựng nhiều mối quan hệ đáng giá trong các cơ quan Đảng. Không lâu sau khi ra trường, ông kết hôn với Kha Tiểu Minh, cô con gái có lối sống quốc tế của Đại sứ Trung Quốc tại Anh. Nhưng họ cãi nhau “gần như hằng ngày,” theo giáo sư sống đối diện. Ông kể với nhà ngoại giao rằng hai người đã ly dị khi Kha quyết định chuyển đến Anh còn ông Tập ở lại.
Các nhà cách mạng của Trung Quốc ngày một già đi, và Đảng cần đào tạo những lãnh đạo mới. Tập nói với vị giáo sư rằng chuyển tới các tỉnh là “con đường duy nhất tới trung tâm quyền lực.” Ở lại các cơ quan Đảng ở Bắc Kinh chỉ thu hẹp những mối quan hệ của ông và chuốc lấy lòng đố kỵ từ những đồng nghiệp có xuất thân kém hơn. Năm 1982, ngay trước khi sang tuổi 30, ông đề nghị được gửi trở lại vùng nông thôn và được chỉ định về một huyện đóng xe ngựa ở tỉnh Hà Bắc. Ông muốn làm bí thư huyện – chức cao nhất – nhưng lãnh đạo tỉnh bất mãn với con ông cháu cha từ trung ương Đảng về nên cắt cử Tập vào vị trí số 2. Điều này tương tự như đổi vị trí điều hành ở Lầu Năm Góc lấy một chức vụ cấp trung ở vùng nông thôn Virginia.
Tuy nhiên, trong vòng một năm Tập đã được thăng chức và mài giũa nhiều kỹ năng chính trị. Ông dành nhiều đặc quyền cho các cán bộ về hưu có thể tạo tiếng tăm cho ông; ông thu xếp cho họ nhận được ưu đãi tại các phòng khám; khi mua chiếc xe nhập khẩu đầu tiên của huyện, ông tặng nó cho “văn phòng cựu chiến binh,” còn mình chỉ dùng chiếc jeep cũ. Ông vẫn mặc chiếc quần quân phục xanh của mình để tỏ ra khiêm nhường, và ông đã học được giá trị của nghệ thuật sân khấu chính trị: có những lúc, “nếu anh không đập bàn thì sẽ không đủ sức răn đe và mọi người không coi trọng vấn đề,” ông nói với một nhà báo Trung Quốc trong một cuộc phỏng vấn năm 2003. Ông đã thử nghiệm nền kinh tế thị trường bằng cách cho phép nông dân dùng nhiều đất đai hơn cho chăn nuôi thay vì gieo trồng hạt cho nhà nước, và đẩy mạnh các dự án gây chú ý ở địa phương, trong đó có việc xây một phim trường dựa theo tiểu thuyết kinh điển Hồng lâu mộng.
Năm 1985, ông có hai tuần ở Iowa trong thành phần phái đoàn nông nghiệp. Ở thị trấn Muscatine, ông ở cùng gia đình Eleanor và Thomas Dvorchak. “Lũ trẻ đều đi học xa nên có vài phòng trống,” Eleanor kể với tôi. Tập ngủ trong căn phòng dán tường chủ đề bóng đá và diễn viên Star Trek. “Ông ấy nhìn ra cửa sổ, trông có vẻ như đang thốt lên, ‘Ôi trời,’ và tôi đã nghĩ, Có gì lạ đâu nhỉ? Chỉ là căn gác lửng,” bà kể. Tập không giới thiệu mình là một bí thư của Đảng Cộng sản; danh thiếp của ông ghi hội trưởng Hiệp hội Chăn nuôi Thạch Gia Trang. Năm 2012, trong một chuyến đi Mỹ trước khi trở thành nguyên thủ, ông trở lại Muscatine để gặp Dvorchak và những người khác, theo sau là báo giới quốc tế. Bà nói, “Chẳng ai đầu óc bình thường lại có thể nghĩ anh chàng từng ở nhà tôi lại có ngày trở thành nguyên thủ. Tôi không quan tâm anh đang nói đến nước nào.”
Đến năm 1985, khi Tập sẵn sàng cho lần thăng chức mới, lãnh đạo tỉnh uỷ một lần nữa chặn đường ông, nên ông chuyển tới tỉnh Phúc Kiến ở phía Nam, nơi một người bạn của cha ông làm bí thư và có thể giúp ông. Không lâu sau khi tới đây, ông gặp Liêu Vạn Long, một doanh nhân người Đài Loan, người sau này nhớ lại, “Ông ấy cao và chắc, trông hơi cù lần.” Liêu, thường xuyên đến thăm Tập trong hàng chục năm sau đó, kể với tôi, “Ông ấy có vẻ thẳng thắn và thật thà. Ông ấy đến từ miền Bắc và không thực sự hiểu miền Nam.” Liêu nói tiếp, “Ông ấy chỉ lên tiếng khi thực sự có điều cần nói, và không dễ hứa hẹn. Ông ấy thường suy nghĩ thấu đáo mọi thứ trước khi mở miệng. Ông ấy cũng hiếm khi nói về gia đình, vì từng có quá khứ khó khăn và một cuộc hôn nhân thất vọng.” Tập không có đầu óc chất vấn, nhưng xuất sắc trong việc quản lý hình ảnh và quan hệ của mình; giờ ông phải gặp gỡ các nhà đầu tư nước ngoài, do vậy ông thôi mặc quân phục và có một tủ đồ Tây. Liêu nói, “Không phải ai cũng gặp được ông ấy; Tập sẽ sàng lọc những ai muốn gặp mình. Ông ấy giỏi nhìn người.”
Năm sau, khi Tập 33 tuổi, một người bạn giới thiệu ông với Bành Lệ Viên, lúc đó 24 tuổi và đã là một trong những ca sĩ dân ca và opera nổi tiếng của Trung Quốc. Tập bảo bà ông không xem truyền hình, bà nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn năm 2007. “Em hát nhạc gì?” ông hỏi. Bành nghĩ trông ông có vẻ “ít hiểu biết văn hóa và già hơn tuổi,” nhưng ông đã hỏi bà về những kỹ năng ca hát, và bà coi đó là một dấu hiệu của sự thông minh. Sau này ông Tập kể chỉ trong 40 phút ông đã quyết định hỏi cưới bà. Họ kết hôn vào năm sau, và năm 1989, sau vụ đàn áp cuộc biểu tình của sinh viên, Bành nằm trong số những văn công được cử tới quảng trường Thiên An Môn để động viên binh sĩ. (Những hình ảnh ghi lại cảnh này, cùng thông tin về đời tư và công việc của bà, đã được xoá gần hết khỏi Internet.) Năm 1992, con gái họ ra đời. Khi con đường trở thành lãnh đạo cấp cao của Tập trở nên rõ ràng, Bành từ bỏ những bộ váy diva và chỉnh trang kiểu tóc cho phù hợp với những bộ vest và quân phục. Người hâm mộ vẫn vây quanh bà trong khi chồng bà kiên nhẫn đứng bên, nhưng gần như bà đã ngừng biểu diễn và hướng mối quan tâm sang những hoạt động về HIV, kiểm soát thuốc lá, và giáo dục cho phụ nữ. Trong nhiều năm, phần lớn thời gian Tập và Bành sống xa nhau. Nhưng trong cơn mưa truyền thông đang đổ dồn quanh Bác Tập, truyền thông nhà nước đã tung ra một bài hát có tên “Tập Đại Đại ái Bành Ma Ma,” có đoạn “Đàn ông nên học theo Tập còn phụ nữ nên học theo Bành.”
Việc chuyển công tác tới miền Nam giúp Tập ở gần cha hơn. Từ năm 1978, cha của ông đã làm việc ở tỉnh Quảng Đông lân cận, quê hương của những thử nghiệm thị trường tự do đầu tiên của Trung Quốc, và Tập cha đã trở thành một người tin tưởng hết mình vào cải cách kinh tế như một giải pháp cho nghèo đói. Đây là một vị trí rủi ro: trong một cuộc họp Bộ Chính trị năm 1987, phe thủ cựu đã công kích nhà ủng hộ các tiêu chuẩn tự do Hồ Diệu Bang. Tập Trọng Huân là quan chức cấp cao duy nhất lên tiếng bảo vệ ông. “Các anh định làm gì ở đây? Đừng lặp lại những gì Mao đã làm với chúng ta,” ông nói, theo Burying Mao (Chôn vùi Mao), cuốn biên niên về chính trị cấp cao xuất bản năm 1994 của Richard Baum. Nhưng Tập đã thua và bị tước đi quyền lực lần cuối cùng. Ông được sống khá thoải mái trong sự quên lãng cho đến khi qua đời vào năm 2002, và được nhớ đến với nhiều tình cảm như “một người đàn ông của nguyên tắc chứ không phải của chiến lược,” như vị biên tập viên ở Bắc Kinh nói với tôi.
Con trai ông đã tránh những cải cách gây tranh cãi quá mức khi thăng tiến. “Phương pháp của tôi là đun nóng cái nồi bằng ngọn lửa nhỏ liên tục, thêm nước lạnh để khỏi trào,” ông nói. Năm 1989, Khang Duyên Bình, một cán bộ tuyên giáo địa phương, đã đề xuất một loạt phim truyền hình nhỏ để cổ động cho cải cách chính trị, nhưng Tập đáp lại khá hoài nghi. Theo cuốn Tương lai của Trung Quốc, ông đã hỏi, “Ý kiến này có cơ sở không? Điểm kia đã hợp lý chưa?” Chương trình phim mà Tập dự đoán có thể sẽ làm nhân dân “thoái chí” đã không được sản xuất. Ông cũng dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng các đơn vị quân đội địa phương; ông nâng cấp vũ trang, cải thiện trợ cấp sinh hoạt phí cho binh sĩ, và tìm việc cho các sĩ quan về hưu. Ông vẫn nói, “Để đáp ứng nhu cầu của quân đội thì không có gì là quá đáng.”
* * *
Tập truy tố tham nhũng tùy vụ và có những vụ ông lờ đi. Một nhà quản lý Trung Quốc nói với Đại sứ Hoa Kỳ tại Bắc Kinh rằng Tập được coi là “Ngài Trong sạch” vì từng từ chối một khoản hối lộ, nhưng trong nhiều năm Tập công tác tại Phúc Kiến, tập đoàn Viễn Hoa, một trong những doanh nghiệp tham nhũng lớn nhất của Trung Quốc, vẫn buôn lậu hàng tỷ đô la dầu, xe hơi, thuốc lá, và đồ gia dụng vào Trung Quốc, với sự bảo kê của quân đội và cảnh sát Phúc Kiến. Tập cũng tìm cách sống chung với Trần Khải, một tài phiệt địa phương sở hữu các sòng bài và nhà thổ ở trung tâm thành phố, được cảnh sát trưởng bảo kê. Về sau Trần bị bắt, truy tố, và lĩnh án tử hình, kéo theo 50 quan chức nhà nước khác ra toà vì nhận hối lộ từ ông ta. Tập chưa bao giờ dính líu tới những vụ này, nhưng chúng vẫn để lại vết nhơ trong nhiệm kỳ ông. “Đôi lúc tôi cũng sai lầm trong việc bổ nhiệm cán bộ,” ông nói vào năm 2000. “Có người được bổ nhiệm không đúng do tôi đánh giá họ cao hơn thực tế, có người là do tôi đánh giá họ thấp hơn thực tế.”
Tập tỏ ra thành thạo trong việc điều hướng những mâu thuẫn và liên minh nội bộ. Sau khi tiếp quản tỉnh Chiết Giang với một nền kinh tế năng động năm 2012, ông đã đưa ra nhiều chính sách nhằm thúc đẩy nền kinh tế tư nhân. Ông khuyến khích các hãng taxi mua xe từ Geely, một công ty xe sau này đã mua lại Volvo. Ông thuyết phục được phía bảo thủ một phần nhờ nhắc lại những câu thần chú xã hội chủ nghĩa. “Nền kinh tế tư nhân đã trở thành một bông hoa ngoại trong khu vườn xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc,” ông tuyên bố. Năm 2007, ông gặp cơ hội trời cho để thể hiện khả năng chính trị: một bê bối tham nhũng tại Thượng Hải có dính líu tới những người đồng sự của Giang Trạch Dân, vị cựu chủ tịch nước quyền lực nắm quyền từ năm 1989 đến năm 2002. Tập được cử đến Thượng Hải để giải quyết vụ việc. Ông thể hiện sự cứng rắn trước dân chúng mà không xa lánh Giang. Ông từ chối căn biệt thự được sắp xếp cho mình, và nói nó sẽ có ích hơn nếu được dùng làm nhà dưỡng lão cho cựu chiến binh.
Thời cơ của ông đã điểm: một vài tháng sau, các quan chức cấp cao trong Đảng tiến hành lựa chọn thế hệ các nhà lãnh đạo hàng đầu tiếp theo. Người ta cho rằng Tập sẽ để thua trước Lý Khắc Cường, một người đồng chí không có thân thế gia đình cách mạng, nhưng có bằng cao học về luật và kinh tế tại Đại học Bắc Kinh. Từ năm 2002, thống trị các cấp bậc cao trong hệ thống chính trị Trung Quốc là những người đi lên theo con đường học vấn hoặc kỹ trị. Cha của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vốn là chủ hiệu trà, và Thủ tướng Ôn Gia Bảo là con trai của một giáo viên, nhưng Trần Vân, ông trùm kinh tế cuối cùng, đã cố vấn cho các đồng sự rằng thế hệ hạt giống đỏ, giờ được gọi là “thế hệ đỏ thứ hai,” hoặc thái tử Đảng, sẽ là những người phục vụ đáng tin cậy hơn trong tương lai của Đảng. Một thái tử Đảng từng nói với một nhà ngoại giao phương Tây, “Cảm nhận giữa chúng tôi là: ‘Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, khi cha các anh đang bán dây giày thì cha chúng tôi đổ máu cho cách mạng.’” Khi nói chuyện riêng, một số thái tử còn ví von Chủ tịch và Thủ tướng như những hỏa kế – tức “người làm mướn.” Tháng 10 năm 2007, Tập được hé lộ có khả năng cao là người thừa kế. Đây không hẳn là một lời khen. “Giới lãnh đạo Đảng ưa những người kế nhiệm kém cỏi để họ có thể cai trị từ phía sau hậu trường,” Hà Tần, người sáng lập Minh Kính tân văn mạng, một trang web tiếng Trung ở hải ngoại, nói. Trong con mắt của công chúng, sự trỗi dậy của Tập đột ngột đến nỗi mọi người đã nói đùa, “Tập Cận Bình là ai? Ông ấy là chồng của Bành Lệ Viên.”
Tập được thử thách bằng một loại các sự vụ nổi lên trong thời gian ông sắp bắt đầu làm Tổng Bí thư năm 2012. Tháng 2, Vương Lập Quân, một cựu cảnh sát trưởng, đã cố gắng đào thoát sang Mỹ và cáo buộc gia đình người bảo trợ cũ của mình là Bạc Hy Lai, bí thư tỉnh uỷ Trùng Khánh, về tội giết người và tham ô. Các lãnh đạo Đảng đã lo sợ Bạc sẽ tự bảo vệ mình bằng chính lực lượng an ninh dưới quyền, làm gián đoạn việc chuyển giao quyền lực, và gây chia rẽ Đảng. Tháng 9, Lệnh Kế Hoạch, Chánh văn phòng của vị chủ tịch sắp mãn nhiệm, đột ngột bị giáng chức, và sau đó bị cáo buộc tìm cách che đậy cái chết của con trai ông, đã qua đời trong một tai nạn khi lái chiếc Ferrari đen chở theo hai cô gái.
Bị khủng hoảng vây quanh, Tập bỗng nhiên biến mất. Ngày 4 tháng 9 năm 2012, ông hủy cuộc họp với Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và chuyến thăm các quan chức khác. Qua nhiều ngày, những tin đồn khủng khiếp nổi lên, từ mắc trọng bệnh đến âm mưu ám sát. Ngày 19 tháng 9, ông xuất hiện trở lại với lời giải thích tới các quan chức Mỹ rằng ông bị chấn thương ở lưng. Các nhà phân tích chính trị Trung Quốc vẫn đưa ra vấn đề Tập biến mất với niềm tin rằng một lời giải thích đầy đủ hơn sẽ làm sáng tỏ chiều sâu hoặc độ nông của sự ủng hộ dành cho ông. Trong hàng chục cuộc đối thoại diễn ra vào mùa đông năm đó, giới học giả, quan chức, nhà báo, và những nhà điều hành nói với tôi rằng họ nghi ngờ ông có vấn đề sức khỏe, và cả những lý do để khai thác điều đó. Họ suy đoán rằng trên thực tế, Tập đã án binh; ông muốn cài cắm đồng minh chủ chốt và loại bỏ đối thủ trước khi nắm quyền, nhưng các lão thành trong Đảng ra lệnh cho ông chờ đợi. Một cựu quan chức tình báo nói với tôi, “Về cơ bản Tập nói như thế này, ‘Được, kệ xác các ông, xem các ông có tìm ra ai cho vị trí này không. Tôi sắp biến mất trong hai tuần và sẽ lỡ hẹn với bà ngoại trưởng.’ Đấy là cái ông ta đã làm. Nó đã gây náo loạn còn bọn họ thì vừa chạy vừa than, ‘Whoa, whoa, whoa.’” Cuộc chuyển giao được tiến hành như đã định. Ngày 15 tháng 11 năm 2012, Tập trở thành Tổng Bí thư.
* * *
Tập đứng đầu một Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị gồm bảy người: bốn được xem là thái tử Đảng do xuất thân hoặc hôn nhân, tỷ lệ lớn hơn cả của Bộ Chính trị trong suốt lịch sử Cộng hòa Nhân dân. Các chính trị gia phương Tây thường nhận thấy ông Tập có những thói quen của một chính khách dân tuý: thoải mái trong hàng rào chắn, những câu hỏi nhã nhặn cho mọi quan khách, những giai thoại gần gũi. Trong một chuyến thăm Los Angeles, ông đã kể với sinh viên rằng ông thích bơi, đọc sách, và xem thể thao trên truyền hình, nhưng hiếm khi có thời gian. “Nếu mượn tên một bộ phim Mỹ, nó sẽ giống như Nhiệm vụ bất khả thi vậy,” ông nói. Trong khi đó các nhà quan sát Trung Quốc lại có xu hướng đề cập đến một thứ khác: quý tộc khí, tức “khí chất quý tộc.” Nó có thể đóng vai trò như một đường dẫn đảm bảo về quá khứ, hoặc đôi lúc khiến những đồng nghiệp của mình xa cách. Trong một cuộc họp tại Đại lễ đường Nhân dân hồi năm ngoái, khi các quan chức của Đảng đang trò chuyện và bắt tay nhau trong giờ nghỉ giải lao dài, Tập chỉ ngồi một chỗ. “Nó kéo dài hàng giờ, nhưng ông ấy chỉ ngồi đó, nhìn thẳng về phía trước,” một người nước ngoài tham dự nói với tôi. “Ông ấy không hề bước xuống bục để nói, ‘Tình hình ở Ninh Hạ sao rồi?’”
Tập tin rằng có một mối đe dọa nghiêm trọng đối với Trung Quốc từ bên trong. Theo các nhà ngoại giao Mỹ, vị giáo sư bạn ông Tập đã mô tả ông như “thấy ghê tởm trước sự thương mại hóa toàn diện của xã hội Trung Quốc, kèm theo giới nhà giàu mới nổi, tham nhũng của quan chức, mất giá trị, nhân phẩm, và tự trọng, cũng như những ‘tệ nạn đạo đức’ như ma túy và mại dâm.” Nếu trở thành nhà lãnh đạo đứng đầu Trung Quốc, vị giáo sư dự đoán, “rất có thể ông ấy sẽ tích cực cố gắng giải quyết những tệ nạn này, có thể với cái giá là tầng lớp nhà giàu mới nổi.” Mặc dù các thái tử Đảng và anh chị em của họ đã hưởng lợi rất nhiều từ sự trỗi dậy của Trung Quốc (chị gái Tề Kiều Kiều của ông Tập được cho là sở hữu lượng tài sản doanh nghiệp và bất động sản lớn), các gia đình cách mạng vẫn cho rằng họ hưởng lợi chính đáng, và họ cũng trách những “người làm mướn” đã để xảy ra tham nhũng và lãng phí, thứ làm dấy lên cơn thịnh nộ trong dân chúng và đe dọa tương lai của Đảng.
Bước đầu tiên đi đến một giải pháp là thiết lập lại sự kiểm soát. “Nền lãnh đạo tập thể,” phân tán quyền lực trong Ủy ban Thường vụ, đã kìm hãm Hồ Cẩm Đào triệt để đến mức ông bị gán biệt danh “Người đàn bà bị bó chân.” Tập tập hợp quanh mình một “nội các không chính thức”, được xác định không phải bằng một ý thức hệ đơn nhất mà bằng mối quan hệ phe nhóm và trung thành chính trị. Các thành viên bao gồm Lưu Hạc, người bạn ấu thơ nay là một nhà kinh tế học có đầu óc cải cách, và Lưu Nguyên, một vị tướng diều hâu, con trai cố Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ. Quan trọng nhất là Vương Kỳ Sơn, một người bạn lâu năm trong hàng thập niên, đã được giao trọng trách đứng đầu Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương, cơ quan phát động một chiến dịch chống tham nhũng lớn.
Từ lâu Đảng đã vun vén một hình ảnh nhất quán về đạo đức. Tuy nhiên, trong hai năm tiếp theo, các nhà điều tra của Vương, được trao nhiều quyền hạn trong việc giam giữ và thẩm vấn, đã tấn công các cơ quan có thể đối đầu với chính quyền của Tập, với cáo buộc âm mưu và lạm quyền. Họ cáo buộc tham nhũng đối với các quan chức trong các uỷ ban kế hoạch và tài sản nhà nước, vốn bảo vệ đặc quyền của các công ty độc quyền nhà nước lớn. Họ đã bắt giữ trùm an ninh của Trung Quốc, Chu Vĩnh Khang, cựu quan chức dầu khí có xương quai hàm to cộ như tượng đảo Phục Sinh, người xây dựng công an và quân đội thành một vương quốc cá nhân và nhận được nhiều ngân quỹ cho trinh sát và do thám trong nước hơn cho quốc phòng. Họ lần tới hàng ngũ quân sự, nơi tham nhũng tràn lan không chỉ khiến người dân khó chịu – người đi bộ đã quen với những chiếc sedan sang trọng mang biển quân sự phóng bạt mạng trên đường phố Bắc Kinh với kim bài miễn tội – mà còn làm suy yếu nền quốc phòng Trung Quốc. Khi khám nhà gia đình Trung tướng Cốc Tuấn Sơn, một giám đốc hậu cần cấp cao, cảnh sát đã tịch thu bốn xe tải với rượu, tác phẩm nghệ thuật, tiền mặt, và nhiều đồ xa xỉ khác. Theo lời một nhà ngoại giao tại Bắc Kinh, trong số đồ đạc của ông Cốc có cả mô hình bằng vàng của tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc. “Khi được hỏi, ông ta nói đó là biểu tượng của lòng yêu nước,” nhà ngoại giao nói.
Đến cuối năm 2014, Đảng tuyên bố đã trừng phạt hơn mười vạn quan chức với cáo buộc tham nhũng. Nhiều nhà quan sát nước ngoài đã đặt câu hỏi liệu cuộc thập tự chinh của Tập có thực sự nhằm dập tắt tham nhũng hay chỉ là một công cụ để tấn công kẻ thù. Không đơn giản là chỉ một đáp án nào: tham nhũng đã trở nên quá nguy hiểm đối với tính chính danh của Đảng đến mức chỉ nhà lãnh đạo bàng quan nhất mới có thể tránh ép nó trở lại một mức độ có thể kiểm soát hơn, nhưng dựng rào chống tham nhũng cũng là một phương tiện để củng cố chính trị, và ở những mức độ cao nhất Tập đã triển khai nó chủ yếu để chống lại đối thủ. Geremie Barme, nhà sử học đứng đầu Viện Australian Centre on China in the World, đã phân tích 48 vụ bắt giữ quan chức cấp cao nhất và nhận ra không ai trong số họ thuộc thế hệ Đỏ thứ hai. “Tôi không gọi đó là chiến dịch chống tham nhũng,” một nhà ngoại giao phương Tây nói với tôi. “Đó là cuộc chiến triệt tận gốc.”
* * *
Ít lâu sau khi nhậm chức, Tập hỏi, “Tại sao Đảng Cộng sản Liên Xô sụp đổ?” và tuyên bố, “Đó là một bài học sâu sắc cho chúng ta.” Các học giả Trung Quốc đã nghiên cứu câu hỏi hóc búa này từ hàng chục góc độ, nhưng Tập muốn nhiều hơn thế. “Năm 2009, ông giao việc thực hiện một nghiên cứu công phu về Liên Xô cho một người làm việc trong văn phòng nghiên cứu chính sách,” một nhà ngoại giao Bắc Kinh nói với tôi. “Nó kết luận sự tan rã bắt đầu từ thời Brezhnev. Trong nghiên cứu, tác giả trích dẫn một câu chuyện đùa: Brezhnev đưa mẹ đến Moskva. Ông ta tự hào khoe với mẹ những căn hộ nhà nước ở Kremlin, chiếc xe limousine Zil của ông, và cuộc sống xa hoa mà ông đang có. ‘Mẹ nghĩ gì, thưa mẹ,’ Brezhnev hỏi. ‘Mẹ sẽ không bao giờ phải lo chuyện gì nữa.’ ‘Mẹ rất tự hào về con, Leonid Ilyich,’ mẹ ông trả lời, ‘nhưng Cộng sản biết được thì sao?’ ông Tập thích câu chuyện này.” Tập có thái độ khinh thị đặc biệt đối với Gorbachev vì đã không bảo vệ được Đảng trước những kẻ đối lập, và nói với các đồng sự, “Không có ai đủ dũng khí để đứng lên và phản đối.”
Trong năm sau khi Tập nhậm chức, các cán bộ được yêu cầu xem một bộ phim tài liệu dài sáu phần về sự sụp đổ của Liên Xô, chiếu những cảnh bạo động bất ổn và mô tả âm mưu lật đổ chủ nghĩa cộng sản thông qua “diễn biến hòa bình” của Mỹ: sự xâm nhập dần dần của các tư tưởng chính trị có mục đích lật đổ của phương Tây. Kể từ những bước đầu tiên, khi các cuộc “cách mạng màu” nổ ra ở khối Xô viết cũ, cộng sản Trung Quốc đã lấy nguy cơ lây nhiễm làm cái cớ để siết chặt đời sống chính trị. Nỗi lo sợ tăng lên khi làn sóng bất ổn dâng cao ở Tây Tạng năm 2008, ở Tân Cương năm 2009, và trên khắp thế giới Ả Rập năm 2011. Tháng 9 năm ngoái, khi các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ nổ ra ở Hồng Kông, một bài xã luận trên Thời báo Hoàn cầu, một tờ nhật báo của nhà nước, đã cáo buộc Quỹ Quốc gia vì Dân chủ ở Hoa Kỳ và CIA “chìa tay” đằng sau cuộc biểu tình, với ý định “thúc đẩy sự độc lập của Đài Loan, của Tân Cương, và của Tây Tạng.” (Hoa Kỳ đã phủ nhận sự liên quan.)
Chính phủ của Tập không có chỗ cho sự đối lập trung thành (tức chỉ trích nhưng vẫn trung thành với đảng – NBT). Khi ông phát động chiến dịch chống tham nhũng, các nhà hoạt động – như luật sư Hứa Chí Vĩnh, người phục vụ trong bộ máy lập pháp địa phương ở Bắc Kinh – đã tham gia và kêu gọi quan chức công khai thu nhập. Nhưng Hứa và nhiều người khác đã bị bắt. (Sau này ông bị kết án bốn năm tù vì tội “tập hợp đám đông gây rối trật tự công cộng.”) Đằng Bưu, cựu đồng nghiệp của ông Hứa, nói với tôi, “Với chính phủ, ‘diễn biến hòa bình’ không chỉ là khẩu hiệu. Nó là sự thật. Ảnh hưởng của các quốc gia phương Tây ngày càng hiển hiện và mạnh mẽ.” Ông Đằng đang ở một hội nghị tại Đức khi đồng nghiệp của ông bị bắt. “Mọi người khuyên tôi đừng trở về Trung Quốc, nếu không tôi cũng sẽ bị bắt,” Đằng nói. Hiện ông là một học giả khách mời tại Trường Luật Đại học Harvard.
Một biên tập viên kỳ cựu ở Bắc Kinh nói với tôi rằng các nhà từ thiện Trung Quốc đã được cảnh báo, “Các ông không được đưa tiền cho tổ chức phi chính phủ này hay tổ chức phi chính phủ kia – về cơ bản là mọi tổ chức phi chính phủ.” Trong tháng 12, Tổ chức Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) đã đếm được 44 phóng viên trong các nhà tù Trung Quốc, nhiều hơn mọi quốc gia khác. Các luật sư nhân quyền nổi tiếng – Phổ Chí Cường, Đinh Gia Hỷ, Hạ Lâm – cũng bị bỏ tù. Đầu tháng này, Human Rights Watch gọi đây là cuộc đàn áp khắc nghiệt nhất trong một thập niên qua.
Mặc dù Vladimir Putin đã bóp nghẹt xã hội dân sự Nga và vô hiệu hoá báo chí, các hiệu sách ở Moskva vẫn bày bán những cuốn sách chỉ trích ông, và một số blog kiên nhẫn vẫn tìm cách công kích ông. Tập không khoan dung đến thế. Tháng 2 năm 2014, Diêu Văn Điền, một biên tập viên 79 tuổi của Nhà xuất bản Morning Bell ở Hồng Kông, người dự định phát hành cuối tiểu sử chỉ trích ông Tập của nhà văn lưu vong Dư Kiệt, đã bị bắt trong chuyến thăm đại lục. Ông đã nhận được một cú điện thoại cảnh báo không được tiến hành xuất bản cuốn sách. Ông bị kết án 10 năm tù, vì tội buôn lậu bảy hộp sơn.
Trong nhiều năm, giới tri thức Trung Quốc đã phân biệt giữa lời nói và hành động: các tư tưởng chính trị phương Tây có thể được thảo luận ở Trung Quốc, miễn là không ai cố gắng áp dụng. Năm 2011, Bộ trưởng Giáo dục Viên Quý Nhân đã ca ngợi lợi ích của việc trao đổi với nước ngoài. “Bất luận họ giàu hay nghèo, xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, chừng nào họ có lợi cho sự phát triển của chúng ta thì chúng ta có thể học hỏi từ họ,” ông nói trên Kinh Hoa Thời báo, một tờ báo nhà nước. Nhưng trong tháng 1 ông lại phát biểu tại một hội nghị, “Giảng viên trẻ và sinh viên chính là đối tượng tiêm nhiễm chính của thế lực thù địch.” Ông nói, “Chúng ta tuyệt đối không để lọt vào lớp học những thứ truyền bá giá trị phương Tây.” Một bài viết trên trang Cầu thị, một tờ báo Đảng chính thống, đã cảnh báo các giáo sư “bôi nhọ cái tên Trung Quốc,” và chỉ đích danh giáo sư luật Hạ Vệ Phương. Khi tôi nói chuyện với giáo sư Hạ ít ngày sau đó, ông nói, “Giới thủ cựu vốn không ưa gì tôi, nhưng gần đây tình hình trở nên trầm trọng hơn. Quan điểm chính trị của dàn lãnh đạo mới không giống như dưới thời Hồ hay Giang. Họ cấm đoán nhiều hơn. Họ không hề sẵn sàng chấp nhận một cuộc thảo luận tích cực.”
Việc cách ly Trung Quốc khỏi các tư tưởng phương Tây đã đặt ra một vài vấn đề thực tiễn. Đảng đã công bố những cải cách “pháp quyền” nhằm tăng cường sự kiểm soát từ trên xuống trong hệ thống pháp lý và bảo vệ tòa án khỏi sự can thiệp của địa phương. Giáo sư Hạ nói, “Nhiều đồng nghiệp của tôi nghiên cứu luật dân sự và phần lớn bài giảng của họ là về pháp luật Đức và Pháp. Nếu muốn ngăn giá trị phương Tây truyền bá vào các trường đại học Trung Quốc, anh cần đóng cửa mọi trường luật và đảm bảo chúng không còn tồn tại.” Về phần mình, Tập không thấy có gì mâu thuẫn bởi vì bảo vệ Đảng luôn đi trước bảo vệ pháp luật. Hồi tháng 1, ông nói Trung Quốc phải “nuôi dưỡng một đội quân pháp lý trung thành với Đảng, với nhà nước, với nhân dân, và với pháp luật.” Nhắc lại lời Mao, ông nói thêm, “Đảm bảo cán dao luôn nằm chắc trong tay của Đảng và nhân dân.”
Sự thận trọng của Tập trước ảnh hưởng của phương Tây được phản ánh trong chính sách đối ngoại của ông. Còn trên phương diện cá nhân, ông bày tỏ những kỷ niệm nồng ấm với tiểu bang Iowa và cho con gái Tập Minh Trạch theo học tại Harvard. (Cô tốt nghiệp vào năm ngoái, dưới một bí danh, và đã trở về Trung Quốc). Nhưng Tập cũng thể hiện quan điểm mang tính “bản chất chủ nghĩa” (essentialist) của ông về những đặc tính quốc gia khi cho rằng lịch sử và cấu trúc xã hội của Trung Quốc khiến nó không phù hợp với nền dân chủ đa đảng, chế độ quân chủ, hay bất kỳ một hệ thống phi cộng sản nào khác. “Chúng tôi đã xem xét, đã thử, nhưng không mô hình nào hoạt động hiệu quả,” ông nói với cử tọa tại trường College of Europe ở Bruges vào mùa xuân năm ngoái. Áp dụng một lựa chọn khác, ông nói, “thậm chí có thể dẫn đến những hệ quả thảm khốc.” Dưới thời ông, truyền thông nhà nước liên tục nhấn mạnh mối đe dọa của “diễn biến hòa bình,” đồng thời cáo buộc các công ty Mỹ, bao gồm Microsoft, Cisco, và Intel, là “những “chiến binh” của chính phủ Hoa Kỳ.
Nói về tầm nhìn ngoại giao nói chung, giới lãnh đạo Trung Quốc từ thời Đặng Tiểu Bình đã trung thành với một nguyên tắc được gọi là “Thao quang dưỡng hối.” Về cơ bản, Tập đã thay thế quan niệm này bằng những tuyên bố về sự “đến thời” của Trung Quốc. Ở Paris năm ngoái, ông dẫn lại lời của Napoléon rằng Trung Quốc là “con sư tử đang ngủ,” và nói con sư tử ấy “đã thức dậy, nhưng là một con sư tử hiền hoà, thiện chí, và văn minh.” Ông nói trước Bộ Chính trị hồi tháng 12 rằng ông có ý định “khiến tiếng nói của Trung Quốc phải được nghe và đưa nhiều thành tố Trung Quốc hơn vào luật lệ quốc tế.” Nhằm đối trọng với Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế có trụ sở tại Washington, chính phủ của Tập đã lập ra Ngân hàng Phát triển Mới, Quỹ cơ sở hạ tầng Con đường Tơ lụa, và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á, với ý định tích lũy tổng cộng 240 tỷ USD tiền vốn. Tập mạnh dạn hơn những người tiền nhiệm trong việc khẳng định sự kiểm soát của Trung Quốc đối với không gian và đất liền, đưa giàn khoan dầu đến các vùng biển tranh chấp, và dựng nên các toà nhà, bãi đỗ trực thăng, và các cơ sở thiết bị khác trên các bãi đá được nhiều nước tuyên bố chủ quyền. Ông cũng lợi dụng sự cô lập ngày càng lớn về kinh tế của Nga; Tập gặp gỡ Putin nhiều hơn bất cứ nguyên thủ nào khác, và vào tháng 5 năm ngoái, khi Nga đang đối mặt với những lệnh trừng phạt mới sau vụ sáp nhập Crimea, Tập và Putin đã đồng ý một thoả thuận cung cấp dầu khí trị giá 400 tỷ USD cho Trung Quốc với giá bán có lợi cho Bắc Kinh. Theo vị biên tập viên kỳ cựu, Tập đã nói với mọi người rằng ông ấn tượng với việc Putin sáp nhập Crimea – “Ông ấy đã có một vùng đất rộng và giàu tài nguyên” và có thể tăng số phiếu của mình tại quê nhà. Nhưng khi chiến sự ở Ukraine bắt đầu kéo dài, Tập cũng bớt lời ca ngợi Putin.
Không quan hệ ngoại giao nào quan trọng với tương lai của Trung Quốc hơn mối quan hệ với Mỹ, và Tập đã thúc giục Mỹ chấp nhận “quan hệ siêu cường kiểu mới” – nhìn nhận Trung Quốc một cách bình đẳng và công nhận tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo tranh chấp và các lợi ích khác. (Chính phủ Obama đã khước từ khái niệm này.) Tập và Obama đã chính thức gặp nhau năm lần. Giới chức Mỹ mô tả mối quan hệ này là có lúc thẳng thắn nhưng không gần gũi. Họ “có những trao đổi thẳng thắn đến phũ phàng về nhiều vấn đề nhạy cảm mà không làm hỏng kế hoạch,” một quan chức cấp cao nói với tôi. “Vì thế nó khác với thời Hồ Cẩm Đào, hồi đó có rất ít trao đổi.” Hồ gần như chưa bao giờ xa rời những bài diễn văn soạn sẵn, và những người đồng cấp phía Mỹ vẫn tự hỏi ông tin đến đâu vào những điều mình nói ra. “Tập đọc những gì mà tôi tin là ông ta tin,” vị quan chức nói, dù sự tham gia của họ vẫn cứng chắc: “Vẫn có những lời lẽ mà bạn rất khó tách ra khỏi trong những trao đổi ấy.… Chúng tôi muốn có đối thoại.”
Trong nhiều năm, các lãnh đạo quân sự Mỹ đã lo ngại về nguy cơ xảy ra va chạm ngày càng lớn giữa Mỹ và Trung Quốc, phần vì Bắc Kinh đã phản đối các chính sách của Mỹ bằng cách từ chối các cuộc gặp chỉ huy cấp cao giữa hai nước. Năm 2011, Mike Mullen, khi đó là Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đã thăm Tập tại Bắc Kinh, và bằng kinh nghiệm quân sự lâu năm của mình, Mike nói với Tập, ông nhớ lại và kể cho tôi, “Tôi chỉ cần ông chấm dứt việc cắt đứt quan hệ quân sự (với Mỹ) như bước đi đầu tiên mỗi khi ông bực mình.” Tình hình đã cải thiện. Tại Bắc Kinh tháng 11 năm ngoái, Tập và Obama đã dành năm tiếng đồng hồ để ăn tối, gặp gỡ, và tuyên bố hợp tác về biến đổi khí hậu, một thỏa thuận tự do thương mại công nghệ cao mà Trung Quốc từng phản đối, và hai thoả thuận quân sự nhằm khuyến khích sự liên lạc giữa các lực lượng hoạt động gần nhau trên Biển Đông và Hoa Đông. Mullen, người gặp lại ông Tập sau lần gặp đầu tiên, đã được động viên: “Họ vẫn bực bội, họ vẫn hành động, nhưng họ không cắt quan hệ.”
* * *
Do Trung Quốc từ chối những tư tưởng phương Tây, Tập đang cố gắng lấp đầy khoảng trống bằng việc đưa ra một nhóm tư tưởng mới ở cả trong lẫn ngoài nước. Mới đây, tôi bắt tuyến tàu điện ngầm số 1 về phía Đông, chạy ngay dưới Đại lộ Trường An – dưới trụ sở Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thương mại, và Bộ Công an – và xuống đường vành đai 2, nơi từng có tường thành cũ. Gần nhà ga, ở một cửa hàng Starbucks, tôi gặp Chương Lập Phàm, một nhà sử học nổi tiếng. Ở tuổi 64, ông đi ngược lại khuôn mẫu nhàu nhĩ thường thấy của giới trí thức tự do; ông cao lớn, tóc muối tiêu lịch lãm, áo khoác đen cổ tàu và mũ trùm bằng lông đen mịn. Chương lớn lên trong chính trị; cha của ông, một chủ kho bạc trước cách mạng, làm bộ trưởng trong những năm đầu của chính phủ Mao. Tôi hỏi ông về thông điệp mà Tập hy vọng truyền bá từ Trung Quốc đến thế giới. Ông đáp, “Kể từ thời Mao và thời bắt đầu cải cách và mở cửa, ai cũng nói về ‘khủng hoảng niềm tin,’” tức cảm giác chính sự tăng trưởng nhanh chóng và bất ổn chính trị đã làm Trung Quốc đi lệch khỏi lịch sử đạo đức của nó. “Ông ấy đang cố giải quyết vấn đề, để có thể có một hệ tư tưởng mới.”
Chương viết về chính trị, thỉnh thoảng được cảnh sát hỏi thăm và nhắc nhở ông tránh những chủ đề nhạy cảm. “Có lúc họ ghé qua và nói vọng qua cánh cửa đóng,” Chương nói. Ông nhận xét, “Họ đã cố ngăn tôi đến đây ngày hôm nay. Họ theo tôi đến tận đây.” Ông ám chỉ một thanh niên trẻ và gầy mặc áo gió, theo dõi chúng tôi từ một bàn gần đó. Ở những vùng hẻo lánh, nơi cảnh sát hiếm khi thấy sự hiện diện của người nước ngoài, chính quyền thường cố gắng ngăn cản người dân gặp gỡ nhà báo. Nhưng trong mười năm viết về Trung Quốc, đây là lần đầu tiên tôi gặp phải tình cảnh này ngay ở thủ đô. Tôi gợi ý hoãn cuộc trò chuyện. Ông lắc đầu. Bằng một giọng giả như thì thầm, ông nói, “Cái tôi nói và cái tôi viết là một. Không có gì khác nhau.”
* * *
Đáng ngạc nhiên nhất về thời đại của Tập Cận Bình là quyết định đóng cửa các “khoảng không tự do” – những sự bất tuân và những điều thả cửa vốn được dung nhứ như một cách tránh buộc các công dân Trung Quốc giàu có và có học vấn nhất rời bỏ đất nước. Trong nhiều năm, chính phủ ngầm cho phép người dân kết nối VPN, tức mạng cá nhân ảo, cho phép người dùng truy cập các trang bị chặn ở Trung Quốc. Rủi ro có vẻ nằm trong tầm kiểm soát; phần lớn dân mạng Trung Quốc không quan tâm đến chính trị bằng việc theo dõi Instagram của người nổi tiếng (Instagram, cũng như Facebook, Twitter, Bloomberg, Reuters, và tờ Times, đều bị chặn). Về lý thuyết, mở cửa những trang này sẽ cho phép những người dùng khôn khéo tiếp cận được cái họ muốn hoặc cần – ví dụ, nhà nghiên cứu vào Google Scholar, hay doanh nhân thực hiện giao dịch – trong khi ngăn ngừa quần chúng sử dụng những công nghệ làm Đảng lo ngại. Nhưng vào ngày 23 tháng 1, khi tôi đang ở Bắc Kinh, chính phủ đột ngột chặn VPN và truyền thông nhà nước lại khẳng định chúng là bất hợp pháp. Qua một đêm, việc truy cập Internet bên ngoài Trung Quốc trở nên khó khăn hơn nhiều. Trước khi hệ thống bình luận bị đóng trên trang Computer News, 12.000 người đã kịp bày tỏ quan điểm. “Các ngài sợ cái gì?” một người hỏi. “Bước tiến lớn trở thành một Triều Tiên thứ hai,” người khác viết. “Một quảng cáo nữa cho việc di cư ra nước ngoài.”
Mười năm trước, Internet Trung Quốc sống động với tranh luận, thú nhận, hài hước, và khám phá. Qua từng tháng, nó ngày càng bị thanh lọc và thắt chặt. Nếu xét sự kết nối của Trung Quốc với thế giới bên ngoài, thì sự kết nối kỹ thuật số ngày càng tồi đi. Những cuộc gọi qua Internet, video, podcast – những tiện ích nhỏ của đời sống kỹ thuật số hiện đại – ngày càng khó tiếp cận rộng rãi hơn so với một năm trước. Quan sát điều này ở một siêu cường đang lên quả là đáng ngạc nhiên. Năm 2015 còn bao nhiêu nước có kết nối Internet với thế giới kém hơn năm trước?
* * *
Tổng Bí thư, với tư cách Bác Tập, đã đưa ra lời khuyên về những vấn đề phi chính trị: mùa thu năm ngoái, ông than phiền về một xu hướng “gợi cảm” thái quá trong xã hội. (Đáp lại, các hãng xe hơi Trung Quốc đã ngừng sử dụng người mẫu ăn mặc mát mẻ làm dáng quanh trong các triển lãm.) Hồi tháng 1, ông thúc giục mọi người nên ngủ nhiều hơn, “dù có tận tâm với công việc đến mấy,” nói rằng mình vẫn đi ngủ trước 12h. Trên mạng, dân tình đùa nhau điều đó thật vô lý: từ khi nắm quyền, ông Tập đã có hai bọng mắt thâm quầng và bộ dạng cáu kỉnh gần như thường trực.
Suốt một thế hệ, Đảng Cộng sản đã tạo nên sự đồng thuận chính trị dựa trên tăng trưởng kinh tế và tính mơ hồ của luật pháp. Các nhà hoạt động tự do chủ nghĩa và các quan chức tham nhũng đã học được cách luồn lách (hay qua mặt) những ranh giới pháp lý, bởi vì Đảng chỉ phản đối tùy lúc. Giờ đây, Tập cho thấy sự đồng thuận ấy – vượt ra ngoài giới tinh hoa của Đảng – là không cần thiết, hoặc, ít nhất, không đáng tin bằng ranh giới rạch ròi giữa bạn và thù.
Khó mà biết chính xác Tập nhận được bao nhiêu sự ủng hộ. Các cuộc thăm dò kín không được phép đong đếm cụ thể sự ủng hộ của công chúng dành cho ông, nhưng Victor Yuan, chủ tịch Tập đoàn Tư vấn Nghiên cứu Horizon, một công ty khảo sát ở Bắc Kinh, nói với tôi, “Chùng tôi đã làm một số thăm dò gián tiếp, và tỷ lệ ủng hộ ông ấy là khoảng 80%. Nó đến từ hai lĩnh vực: một là chính sách chống tham nhũng, và hai là chính sách đối ngoại. Lĩnh vực chưa rõ ràng là kinh tế. Người ta nói họ phải chờ xem đã.”
Nền kinh tế Trung Quốc có lẽ là cản trở lớn nhất của ông Tập. Sau ba thập niên tăng trưởng kinh tế với tốc độ trung bình gần 10% mỗi năm, Đảng kỳ vọng tăng trưởng sẽ chững lại ở tốc độ bền vững trong khoảng 7%, nhưng nó có thể sụt giảm mạnh hơn. Trung Quốc vẫn là nhà sản xuất lớn nhất thế giới với 4 nghìn tỷ USD dự trữ ngoại hối (con số tương đương với nền kinh tế lớn thứ tư trên thế giới). Tháng 11 năm 2013, Đảng thông báo kế hoạch phục hồi cạnh tranh bằng cách mở rộng vai trò của các ngân hàng tư nhân, cho phép thị trường (thay vì nhà nước) phân bổ nguồn nước, dầu khí, và các tài nguyên quý giá khác, và buộc các công ty nhà nước giảm độc quyền và cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân. Mùa xuân năm ngoái, Trung Quốc đã bãi bỏ vốn điều lệ và các điều kiện khác đối với công ty mới, và đến tháng 11 nó cho phép các nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tiên được giao dịch cổ phiếu trực tiếp trên sàn chứng khoán Thượng Hải. “Công bằng mà nói, trong 18 tháng qua chính phủ của ông Tập đã đạt được nhiều thành tựu, trong nhiều lĩnh vực, hơn chính phủ của Hồ Cẩm Đào đạt được trong cả nhiệm kỳ thứ hai,” Arthur Kroeber, một nhà kinh tế lâu năm ở Bắc Kinh làm việc tại Gavekal Dragonomics, một công ty nghiên cứu, nói với tôi. Nhưng ông cũng nói thêm, “mức độ tin tưởng của tôi” vào khả năng đẩy lùi suy thoái nhờ cải cách “chỉ nhỉnh hơn 50% một chút.”
Những rủi ro đối với nền kinh tế Trung Quốc chưa bao giờ rõ ràng đến thế. Lực lượng lao động đang già đi nhanh hơn các nước khác (do chính sách một con), và các doanh nghiệp đang vay nhiều hơn số tiền kiếm được. David Kelly, đồng sáng lập China Policy, một công ty tư vấn và nghiên cứu có trụ sở tại Bắc Kinh, nói, “Bước ngoặt của nền kinh tế thực sự diễn ra từ khoảng bốn, năm năm trước, giờ thì anh bắt đầu nhìn thấy vấn đề kinh điển là hiệu quả của đồng vốn bị suy thoái. Cứ mỗi đô la đầu tư, anh thu lợi ít hơn nhiều.” Sự gia tăng nhu cầu năng lượng và vật liệu thô đang chững lại, ngày càng nhiều nhà đất và cửa hàng bỏ không, những người Trung Quốc tiết kiệm lo xa đang gửi tiền ra nước ngoài, đề phòng một cuộc khủng hoảng. Một số nhà máy không trả nổi lương cho công nhân, và trong quý IV năm 2014 công nhân đã đình công hoặc tiến hành các hình thức phản đối khác với mật độ gấp ba lần so với cùng kỳ năm trước.
Khả năng tránh một cuộc khủng hoảng kinh tế của Tập phụ thuộc một phần vào việc ông có sức mạnh chính trị để đứng trên các công ty nhà nước, chính quyền địa phương, và các nhóm lợi ích quyền lực khác hay không. Trong những cuộc gặp với Rudd, cựu Thủ tướng Úc, Tập đã nhắc đến những nỗ lực thất bại của cha mình trong việc hoàn thành các cải cách theo định hướng kinh tế thị trường. “Tập Cận Bình có quyền tự hào về cha mình,” Rudd nói, “Cha ông ấy đã có những thành tựu thực sự và, nói một cách thẳng thắn, là người phải trả cái giá quá đắt về cá nhân lẫn chính trị để trở thành một người cống hiến hết mình cho Đảng và cải cách kinh tế.”
Trong lịch sử, Đảng chưa bao giờ nhận thức sự mâu thuẫn giữa đàn áp chính trị và cải cách kinh tế. Năm 2005, Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã tiếp một phái đoàn Quốc hội Mỹ. Một thành viên trong đoàn nhắc tới một giáo sư mới bị đuổi việc vì những lý do chính trị và hỏi thủ tướng tại sao. Ôn bối rối trước câu hỏi; vị giáo sư chỉ là “trường hợp nhỏ,” ông nói. “Tôi không biết anh nói đến ai, nhưng là thủ tướng tôi có 1,3 tỷ người trong tâm trí mình.”
Để duy trì tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc đang cố gắng đẩy mạnh sáng tạo, nhưng bằng cách áp đặt một bầu không khí chính trị lạnh lẽo lên các trường đại học, Tập có nguy cơ dập tắt chính những ý tưởng đột phá rất cần cho tương lai đất nước. Đôi khi chính trị chiếm ưu thế hơn những tính toán duy lý. Năm 2014, sau khi dành nhiều năm đầu tư vào khoa học và công nghệ, tỷ trọng kinh tế Trung Quốc dành cho nghiên cứu và phát triển đã vượt qua châu Âu. Nhưng khi chính phủ công bố những hạng mục được tài trợ cho nghiên cứu khoa học xã hội thì 7 trên 10 dự án đứng đầu được dành cho việc phân tích những phát biểu của ông Tập (có tên chính thức là Loạt diễn văn quan trọng của Tổng Bí thư Tập) hoặc khẩu hiệu đặc trưng của ông: Giấc mơ Trung Hoa.
* * *
Thời đại Tập Cận Bình đã phủ nhận giả định rằng sự mở cửa thất thường của Trung Quốc với thế giới là quá quan trọng và nhiều thành quả để có thể dừng lại. Đảng ngày nay nhận thức được một loạt mối đe doạ mà, theo quan điểm của giáo sư luật Hạ Vệ Phương, là chỉ có thể gia tăng trong những năm tới. Trước khi có mạng internet, ông nói, “thực sự không nhiều người có khả năng tiếp cận các nguồn thông tin bên ngoài, nên dưới thời Đặng Tiểu Bình, Đảng có thể mở cửa hơn nhiều.” Nhưng bây giờ, nếu Internet không bị hạn chế, “tôi tin những gì nó mang tới sẽ bị các nhà lãnh đạo coi là hiểm hoạ.”
Như nhiều người khác mà tôi đã gặp trong mùa đông qua, Hạ Vệ Phương lo rằng Đảng đang thu hẹp phạm vi sự thích nghi có thể chấp nhận được đến mức nó có nguy cơ tạo ra sự thay đổi ngoài kiểm soát. Tôi hỏi ông nghĩ Đảng sẽ ra sao trong 10 hay 15 năm tới. “Tôi nghĩ, với tư cách như những trí thức, chúng tôi phải làm mọi thứ có thể để thúc đẩy sự chuyển biến hòa bình của Đảng – để khuyến khích nó trở thành một ‘đảng cánh tả’ theo khái niệm châu Âu, một dạng đảng dân chủ xã hội.” Điều đó, ông nói, sẽ khiến đảng viên có thái độ tôn trọng hơn với một hệ thống luật pháp và cạnh tranh chính trị thực sự, bao gồm tự do báo chí và tự do tư tưởng. “Nếu họ khước từ ngay cả những thay đổi cơ bản này, thì tôi tin Trung Quốc sẽ trải qua một cuộc cách mạng khác.”
Đó là một dự đoán ấn tượng – và là một trong những điều kỳ lạ phổ biến trong những ngày này. Dưới sự giám sát của an ninh, Chương Lập Phàm, nhà sử học tôi gặp ở Starbucks, nói, “Trước mặt nhiều bạn bè thái tử Đảng, tôi đã nói, nếu Đảng Cộng sản không tiến hành những cải cách chính trị cần thiết trong 5 hay 10 năm tới, nó có thể sẽ đánh mất cơ hội hoàn toàn. Là học giả, chúng tôi vẫn luôn nói cải cách thì tốt hơn cách mạng, nhưng trong lịch sử Trung Quốc chu kỳ này vẫn thường lặp lại. Mao từng nói chúng tôi phải thoát khỏi chu kỳ ấy, nhưng ngay lúc này chúng tôi vẫn đang nằm trong đó. Điều này thật đáng lo.”
Hai tháng sau sự cố đêm giao thừa, một lần nữa Đảng phải đối mặt với xung đột giữa bản tính kiểm soát của mình và sự phức tạp của xã hội Trung Quốc. Trong nhiều năm chính quyền đã đánh giá thấp tính nghiêm trọng của ô nhiễm môi trường, mô tả nó như cái giá tất yếu của phát triển. Nhưng qua từng năm, giai cấp trung lưu ngày càng trở nên ít dễ dãi hơn; trong các cuộc thăm dò, người dân thành thị nói về ô nhiễm như mối quan tâm hàng đầu của mình, và, bằng smartphone, họ có thể so sánh mức độ ô nhiễm thường nhật với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới. Sau hiện tượng khói mù đột biến năm 2013, chính phủ đã tăng cường những nỗ lực hợp nhất các nhà máy điện, đóng cửa các nguồn gây ô nhiễm nhỏ, và thắt chặt quản lý nhà nước. Năm ngoái, Trung Quốc phát động “cuộc chiến chống ô nhiễm,” nhưng thừa nhận rằng Bắc Kinh sẽ ít có khả năng có được bầu không khí trong lành trước năm 2030. Trong một khoảnh khắc thẳng thắn, thị trưởng đã tuyên bố thành phố này là nơi “không thể sống nổi.”
Hồi tháng 2, các trang mạng video của Trung Quốc đã đăng một phim phóng sự được tư nhân tài trợ có nhan đề Dưới mái vòm, trong đó Sài Tĩnh, cựu phóng viên truyền hình nhà nước, gióng lên hồi chuông cảnh báo những hiểm hoạ mà ô nhiễm không khí đem lại cho bé gái sơ sinh của cô. Đó là một tác phẩm tinh tế: Sài, mặc quần jeans bạc và áo blouse trắng hợp thời trang, truyền tải tới khán giả trường quay đang chăm chú một bài nói chuyện có nhịp điệu nhanh, kiểu TED, xen lẫn những thống kê thẳng thắn và các đoạn phim ghi lại cảnh quan chức thừa nhận những công ty và cơ quan có quyền lực đã khiến họ không còn khả năng bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Về tinh thần, bộ phim nhất quán với “cuộc chiến chống tham nhũng” chính thống, và truyền thông nhà nước đã đáp lại bằng một loạt bài đưa tin khen ngợi.
Bộ phim đã khuấy đảo mạng xã hội, và đến cuối tuần đầu tiền đã nhận được 200 triệu lượt xem – một con số thường dành cho video nhạc pop hơn là phim tài liệu khó nhằn kéo dài hai tiếng. Cuối tuần sau, chính quyền ra lệnh cho các trang mạng gỡ phim, các cơ quan báo chí cũng hạ các bài viết của mình. Nhanh như cách nó xuất hiện, bộ phim biến mất khỏi mạng Trung Quốc – một hiện tượng bị đảo ngược.
Dưới thời Tập Cận Bình, một lần nữa công chúng chứng tỏ mình là một đối tác khó lường. Đó là bài học mà Tập đã thấm thía từ lâu. “Nhân dân đưa tôi đến vị trí này để tôi có thể lắng nghe và phục vụ lợi ích của họ,” ông nói vào năm 2000. “Nhưng, đối diện với mọi ý kiến và bình luận, tôi phải học cách đón nhận những lỗi lầm được chỉ ra cho mình mà không quá dao động trước điều đó. Không vì người này người kia nói gì mà tôi bắt đầu cân đo thiệt hơn. Tôi sẽ không đánh mất khát vọng của mình vì điều đó.”
Evan Osnos là nhà báo người Mỹ. Ông tốt nghiệp ngành Khoa học Chính trị tại Đại học Harvard và trở thành cây viết của tạp chí The New Yorker từ năm 2008. Cuốn Age of Ambition: Chasing Fortune, Truth, and Faith in the New China đã mang lại cho ông Giải thưởng Sách quốc gia Mỹ cho thể loại Phi hư cấu năm 2014.
http://nghiencuuquocte.org/2016/05/25/chan-dung-tap-can-binh-p3
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét