Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2014

Tập đoàn hải quân viễn chinh trên biển – Cụm không quân hải quân chủ lực CVBG

Cụm không quân Hải quân chủ lực trong hình thái chiến lược chiến dịch là lực lượng cơ động viễn chinh nhằm mục đích can thiệp quân sự và ứng phó những tình huống khẩn cấp, khi lợi ích của nước Mỹ có nguy cơ bị đe dọa, trong điều kiện thời bình thường được coi là công cụ răn đe cấp chiến lược với những khu vực đang phát triển.
Trên các phương tiện thông tin đại chúng nước ngoài đã lan truyền một thông lệ của chính phủ Mỹ, trong mọi trường hợp, khi lợi ích của nước Mỹ bị đe dọa trên bất cứ châu lục nào trên thế giới, câu hỏi đầu tiên sẽ được đưa ra trong Nhà Trắng là: “ Gần khu vực đó có tàu sân bay nào đang hoạt động không?!. Và họ sẽ thở phào nhẹ nhõm khi có câu trả lời “ Có, có một tàu sân bay đang hoạt động trong vùng nước quốc tế gần đó…ơn trời!” Là những sân bay trong vùng biển quốc tế, các tàu sân bay trong khoảng thời gian ban đầu của xung đột, có thể duy trì trong vòng từ năm đến mười ngày xung đột khu vực 100 – 200 lần cất cánh mỗi ngày, cho đến khi khu vực chiến sự được lực lượng Không quân Mỹ tiếp quản. Trong biên chế hiện nay của Mỹ có khoảng 12 tàu sân bay đa nhiệm – mười chiếc trong số đó là tàu sân bay năng lượng nguyên tử, hai tàu sân bay năng lượng thông thường. Gần đây nhất, tàu sân bay AVMA"Ronald Reagan (CVN 76) thay thế tàu sân bay năng lượng thông thường AVM" Constellation ".
Trong điều kiện thời bình cũng như thời chiến, các tàu sân bay được xác định là kỳ hạm trong biên chế của Cụm không quân hải quân chủ lực (CVBG).
Trong biên chế của CVBG, ngoài tàu sân bay còn có trong biên chế là: 1 -2  tàu tuần dương tên lửa, 2-4 tàu khu trục tên lửa, 2 - 6 tàu hộ vệ tên lửa hoặc hơn nữa tùy theo mức độ căng thẳng của nhiệm vụ, 2 tàu hậu cần kỹ thuật tốc độ cao, các tàu quét thủy lôi, tàu phụ trợ khác và từ 1 -3 tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm.
Các chiến hạm tên lửa được bố trí trong đội hình tác chiến với khoảng cách đến 75 km(40 hải lý) so với tàu sân bay. Các chiến hạm trinh sát điện tử hoạt động trên khoảng cách 130 km (70 hải lý). Các tàu tuần dương và khu trục hạm tên lửa có nhiệm vụ bảo vệ tàu sân bay trước các đòn tấn công của tàu ngầm, tàu nổi và không quân của đối phương.
Hệ thống phòng không của cụm không quân hải quân chủ lực CVBG do các chiến hạm tên lửa đảm nhiệm, được trang bị hệ thống tên lửa phòng không RIM-66C Standart SM-2 MR, RIM-67B Standart SM-2 ER
RIM-161 Standart (SM-3) là hệ thống tên lửa trên các chiến hạm đánh chặn tên lửa đạn đạo tầm trung, là thành phần của hệ thống Aegis phòng thủ tên lửa.
Hệ thống tên lửa chống tàu, tên lửa hải đối đất là các tổ hợp tên lửa hành trình Tomahawk được lắp đặt trên các tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm lớp Los Angenes.
Cụm không quân Hải quân chủ lực trong hình thái chiến lược chiến dịch là lực lượng cơ động viễn chinh nhằm mục đích can thiệp quân sự và ứng phó những tình huống khẩn cấp, khi lợi ích của nước Mỹ có nguy cơ bị đe dọa, trong điều kiện thời bình thường được coi là công cụ răn đe cấp chiến lược với những khu vực đang phát triển. Trong điều kiện thời chiến, cụm CVBG có thể thực hiện 2 hình thái sử dụng vũ trang chiến lược chiến dịch như: Tiến công các mục tiêu trên đất liền bằng máy bay và tên lửa hành trình Tomahawk và yểm trợ hỏa lực cho lực lượng đồng minh theo yêu cầu, đồng thời thực hiện các nhiêm vụ tác chiến trên biển lớn và tấn công các mục tiêu ven biển.
Trong điều kiện chiến tranh, CVBG phải tác chiến chống lại các nguy cơ bị tấn công ngoài biển khơi, các lực lượng đối thủ tiềm năng của CVBG trong chiến tranh sẽ là các lực lượng không quân đối phương, các cụm chiến hạm nổi và tàu ngầm. Trên thực tế, các nước có khả năng tấn công các CVBG không nhiều, chỉ có lực lượng hải quân Nga và lực lượng hải quân Trung Quốc là có khả năng tiến công trực tiếp các cụm CVBG của Mỹ, các lực lượng quân sự của các nước khác không phải đồng minh Mỹ chỉ có khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh phi đối xứng để công kích với các đòn đánh nhỏ lẻ nhằm vào cụm binh lực hùng hậu đã nêu.
Năng lực chiến đấu tiến công của CVBG.
Tàu sân bay lớp Limizt
Tuần dương tên lửa lớp Ticonderoga
Tàu khu trục tên lửa "Arleigh Burke"
Tiềm lực tác chiến tiến công của CVBG được xác định bởi năng lực tác chiến của lực lượng không quân hải quân trên boong tầu sân bay và vũ khí trang bị có trong biên chế. Vào đầu thế kỷ 21, máy bay chiến đấu tiến công chủ yếu trên tàu sân bay của Hải quân Mỹ được xác định là máy bay tiêm kích cường kích F/A-18 «Hornet" và máy bay tiêm kích đa nhiệm nâng cấp  F/A-18E«Super Hornet.". Tầm xa tác chiến độc lập là 750 km (đến 2000 km khi tác chiến trong đội hình phi đoàn với nhiệm vụ phòng không và giới hạn vũ khí tiêm kích tối thiểu trên cánh) với tải trọng vũ khí các loại trên 9 giá treo. Với số lượng vũ khí lớn, máy bay tiêm kích đa nhiệm cấp  F/A-18E«Super Hornet." là máy bay không quân hải quân có năng lực tác chiến cao nhất trong tất cả các hình thái chiến thuật, có thể tác chiến không đối không tấn công các mục tiêu các phương tiện bay, cường kính tên lửa và ném bom công kích các mục tiêu trên mặt đất và trên biển trong vùng tác chiến của CVBG. Số lượng vũ khí trang bị, được biên chế cho 48 máy bay tiêm kích đa nhiệm trên boong có khả năng cùng một thời điểm tấn công lên đến 436 đơn vị vũ khí. Khi tác chiến tiến công các hạm tàu, CVBG có thể sử dụng tên lửa chống tàu ASM"Harpoon" và tên lửa chống radar HARM, mỗi đợt tấn công có thể phóng cùng một lúc 96 tên lửa (2 tên lửa trên một máy bay), số lượng vũ khí này đủ khả năng chế áp hỏa lực phòng không của bất cứ một chiến hạm mặt nước nào trên thế giới. Hệ thống trang thiết bị vũ khí tác chiến điện tử trên máy bay tác chiến điện tử EA-18G có thể tấn công chế áp các hệ thống phòng không mạnh nhất trên mặt đất và có khả năng tấn công tất cả các mục tiêu được bảo vệ bằng hệ thống phòng không dày đặc trên khu vực ven biển.
Tiêm kích đa nhiệm F/A-18E«Super Hornet."
Máy bay tác chiến điện tử EA-18G
Máy bay trinh sát và điều hành tác chiến E-2C «Hawkeye".
Đặc điểm phòng ngự của các CVBG.
Hiểm họa đe dọa cụm không quân hải quân chủ lực là các máy bay cường kích và lực lượng tàu ngầm của kẻ thù tiềm năng. Những nguy cơ từ các chiến hạm nổi của đối phương được xác định là rất nhỏ, do các cụm chiến hạm nổi của địch sẽ bị các đòn tấn công ngăn chặn của lực lượng không quân trên tàu sân bay từ tầm xa, trước khi các chiến hạm đối phương có thể tiếp cận tuyến tấn công tàu sân bay bằng hỏa lực của pháo binh – tên lửa. Hiện nay, một nguy cơ nữa có thể đe dọa tàu sân bay, đó là các tên lửa đạn đạo phòng từ bờ biển của đối phương với số lượng lớn.
Hệ thống phòng không CVBG được xây dựng thành đội hình các thê đội. Thê đội phòng ngự 1 (đến 2000 hải lý) lực lượng không quân của đối phương bị phát hiện bới các đài radar cảnh báo sớm trên biển, trên đất liền và trong không trung trên các phương tiện bay trang bị các đài radar trinh sát, theo dõi và điều hành tác chiến. Lực lượng phòng không trên tàu sân bay bao gồm 4 – 8 máy bay F/A-18, trong trường hợp báo động phòng không sẽ cất cánh và tiến công đánh chặn đối phương bằng các tên lửa không đối không tầm trung (AIM-7 "Sparrow", AIM-120 AMRAAM), đồng thời sẽ tăng cường lực lượng máy bay đánh chặn bằng các máy phóng máy bay trên tàu sân bay, các biên đội 2 máy bay sẽ cùng được cất cánh liên tục với giãn cách là 15s.
Thê đội thứ hai là máy bay tác chiến điện tử EA-18G, nhóm máy bay này sẽ tiến hành các hoạt động trinh sát điện tử, chế áp điện tử hệ thống vũ khí đối phương, gây khó khăn cho hoạt động dẫn đường máy bay và tên lửa chống hạm của đối phương trong vùng hoạt động của CVBG.
Thế đội phòng không thứ 3 phòng ngự chống máy bay và tên lửa đối phương là hệ thống các tên lửa phòng không của CVBG, liên tục theo dõi các mục tiêu và trong điều kiện cần thiết sẽ phóng tên lửa tiêu diệt mục tiêu, các tổ hợp tên lửa phòng không được điều khiển bằng một hệ thống duy nhất AEGIS. Các model cuối cùng của hệ thông AEGIS có khả năng theo dõi nhiều mục tiêu các loại cùng một lúc và thực hiện phóng đạn, điều khiển tên lửa các các chiến hạm khác nhau cùng một lúc theo đài radar trên máy bay trinh sát, dẫn đường và điều hành tác chiến đang thường trực.  
Thê đội phòng không cuối cùng, gần nhất với các chiến hạm thuộc CVBG, nhằm ngăn chặn các tên lửa chống tàu và các máy bay cường kích đơn lẻ vượt qua được 3 thê đội phòng không, được thực hiện trực tiếp bởi hỏa lực súng phòng không tự động tốc độ cao, được lắp đặt trên các ụ pháo phòng không tự động.
Hiệu quả phòng không của hệ thống phòng không CVBG được đánh giá rất cao, trong điều kiện điều hành tác chiến thành thục và sáng tạo, sử dụng hệ thống này có thể đánh chặn hầu hết các đòn tấn công ồ ạt bằng máy bay, tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình, khả năng tiêu diệt được chiến hạm của CVBG là rất thấp và có tổn thất rất lớn từ các phương tiện mang của đối phương. 
Chiến thuật chống ngầm của CVBG.
Hệ thống phòng ngự chống ngầm của CVBG, theo điều lệnh tác chiến của Hải quân Mỹ là hệ thống phòng ngự một khu vực, một vùng nước mà trong khu vực đó các CVBG đang hoạt động. Khái niệm phòng ngự chống ngầm khu vực không những chỉ bao hàm khu vực CVBG cơ động hoặc tuyến hải trình mà cụm không quân hải quân chủ lực đang hành quân, mà còn phong tỏa các vịnh và các eo biển, từ đó tàu ngầm đối phương có thể lọt vào vùng biển lớn đang cơ động. Hệ thống chống ngầm CVBG bao hàm các lớp phòng ngự trinh sát, tình báo chống ngầm, chống ngầm tầm xa, tầm trung và tầm gần.
Hệ thống theo dõi tàu ngầm trên toàn thế giới IUSS
Một trong những nhân tố quan trọng của hệ thống phòng thủ chống ngầm trên toàn thế giới là hệ thống quan sát, theo dõi ngầm dưới biển IUSS (Integrated Undersea Surveillace System). Hạ tầng cơ bản của hệ thống theo dõi dưới biển IUSS là các hệ thống thứ cấp thủy siêu âm thụ động và các khí tài, trong số này có hệ thống các khí tài theo dõi tàu ngầm SOSUS (Sound Surveillace Undersea System).
 
Sơ đồ hệ thóng trinh sát tàu ngầm SOSUS
Khởi thủy ban đầu, người Mỹ và khối NATO xây dựng hệ thống chuỗi các đài thu thủy siêu âm với các thiết bị đầu thu thụ động dọc ven biển Đại tây dương của Mỹ, sau đó là Thái bình dương, trên những căn cứ quân sự ven biển và hải đảo, tạo thành mạng nhện BGAS, kiểm soát hoàn toàn vùng nước đại dương của thế giới. Như vậy ở vùng bán cầu phía Bắc đã kiểm soát hơn 3/4 vùng nước đại dương. Tất cả các hệ thống chuỗi mạng nhện BGAC được thiết lập là 22 hệ thống.  
Mỗi một đài theo dõi có ba thành phần chủ yếu: các an ten thu sóng thủy siêu âm thụ động, bộ cáp quang dẫn truyền tín hiệu và thiết bị xử lý thông tin kỹ thuật số. Cấu trúc thiết kế an ten là một đường cáp dài được gắn các micro thủy âm, đặt trực tiếp lên đáy biển, ở những vùng nước nông có thể đặt vào đường hào đáy biển tránh tác động của các phương tiện kỹ thuật hoặc động vật biển. Kết quả thu được từ BGAS được truyển tải theo thời gian thực bằng đường cáp quang, radio và liên lạc vệ tính đến các trung tâm chỉ huy và các trung tâm điều hành lực lượng chống ngầm ở các khu vực. Nhưng thông tin về khả năng xuất hiện tàu ngầm được sử dụng để định vị hướng bay cho máy nay chống ngầm, tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm và các chiến hạm nổi, các phương tiện chống ngầm sẽ phát hiện và đeo bám mục tiêu, sẵn sàng tiêu diệt bằng các loại vũ khí theo trang bị.
Khu vực cảnh giới chống ngầm tầm xa.
Trong khu vực chống ngầm tầm xa bảo vệ CVBG, tìm kiếm và truy quét tàu ngầm được tiến hành bởi các đài trinh sát thủy siêu âm và các phương tiện trinh sát khác, cũng như các khí tài của các đài thuộc hệ thống SOSUS, máy bay, tàu ngầm, chiến hạm nổi do các đài trinh sát tìm kiếm tàu ngầm, ở dưới nước sonar và các thiết bị trinh sát thủy âm của các tàu ngầm đối phương có tầm hoạt động hơn hẳn các khí tài tìm kiếm, do đó, các tàu ngầm có thể phát hiện ra các phương tiện trinh sát tìm kiếm nó, từ đó có thể lẩn tránh lực lượng truy quét chống ngầm và bất ngờ tấn công mục tiêu đang được bảo vệ. Chính vì vậy, lực lương chống ngầm tầm xa sử dụng các trang thiết bị truy tìm thủy siêu âm và các đài sonar hoạt động ở chế độ chủ động chỉ có thể sau khi phát hiện sớm sự có mặt của tàu ngầm bằng các thiết bị thụ động nhằm xác định chủng loại tàu ngầm và vị trí của tàu ngầm, thường là khi tàu ngầm đang chuẩn bị tấn công.
Chống ngầm tầm xa cho CVBG được thực hiện bởi máy bay tuần biển Р-3С "Orion". Các máy bay tuần biển này hoạt động trong biên chế của lực lượng chống ngầm tầm xa. Máy bay tuần biển chống ngầm Р-3С "Orion" thực hiện nhiệm vụ chống ngầm không chỉ phòng thủ cho AIG, phụ thuộc vào khối lượng thông tin về vị trí có thể có tàu ngầm, sẽ tiến hành chủ động tìm kiếm tàu ngầm ở khu vực tập kết chuẩn bị tiến công, trong khu vực định trước, ở khu vực xuất phát, tiến hành các hoạt động tìm kiếm ngăn chặn và theo dõi tàu ngầm. Với biên chế vũ khí trang bị, P-3 Rion có thể tiến hành các cuộc tấn công tiêu diệt tàu ngầm trong điều kiện cần thiết.
Khu vực cảnh giới chống ngầm tầm trung và tầm gần:
Trong giới hạn 100 hải lý (185 км) tính từ CVBG tìm kiếm, cảnh giới chống ngầm được thực hiện bởi máy bay chống ngầm S-3A "Viking" Khi tổ chức tuần tra cảnh giới chống ngầm, các máy bay Viking có kế hoạch bay tuần tiễu chính xác cả về thời gian và đường bay. Quỹ đạo đường bay được xác định bằng sơ đồ sao cho các máy bay chống ngầm có được khả năng nhiều lần bay gần với nhóm tàu cảnh giới của CVBG, có nghĩa là đường bay theo hình số 8 tính từ trung tâm của CVBG về hướng có nhiều khả năng xuất hiện tàu ngầm ( theo hướng tiến và hai bên sườn), giãn cách mỗi lần tiếp cận gần nhóm tàu cảnh giới không lớn hơn 2 giờ bay, mà hiệu quả nhất là một giờ bay. Quỹ đạo đường bay mỗi máy bay được thực hiện trong giới hạn không gian tuần tiễu của mình và không được có quá nhiều đường bay cắt ngang.
Máy bay chống ngầm S-3 Viking
Thời gian tuần tiễu liên tục của một phi đội máy bay chống ngầm Viking khoảng từ 5 -6 giờ bay. Phướng án chiến thuật sử dụng máy bay chống ngầm viking tương tự như máy bay chống ngầm tuần biển Р-3С "Оrion" với những tính toán về tính năng kỹ chiến thuật thấp hơn Orion.
Trong giai đoạn ngày ngày, để thực hiện nhiệm vụ chống ngầm hiệu quả, các cụm không kích hải quân chủ lực sử dụng các tàu ngầm nguyên tử, các tàu này có được vận tốc cơ động cao, đồng thời giữ được bí mật khi cơ động, được trang bị các đài sonar thủy âm hiện đại và có thể giữ được thông tin liên lạc rất ổn định so với tàu nổi. Cơ động dưới nước với một khoảng cách xác định đối với nhóm tàu cảnh giới, giữ liên lạc thủy âm với các tàu nổi, tàu ngầm nguyên tử có khả năng tìm kiếm và tiêu diệt tàu ngầm đối phương hiệu quả nhất.
Căn cứ vào những điều kiện tối ưu cho hoạt động của thiết bị sonar chủ động, đặc điểm lan truyền thủy âm trong mỗi vùng nước, các chuyên gia tính toán tốc độ truyền âm ở các tầng nước khác nhau, đường truyền của các tia siêu âm, nhiệt độ của từng lớp nước để tính khoảng cách hoạt động của tàu ngầm nguyên tử trong nhiệm vụ chống ngầm. Các tàu ngầm nguyên tử, theo tính toán của các chuyên gia quân sự Mỹ, sẽ cơ động trên khoảng cách từ 40 – 90 hải lý (75 – 165 km) so với trung tâm của CVBG.
Vũ khí chống ngầm chủ yếu của cụm lực lượng chống ngầm là tên lửa – ngư lôi SABROK và ngư lôi có đầu đạn tự dẫn có điều khiển, bộ phận kích nổ phi tiếp xúc.
Phương tiện truy quét và tìm kiếm, chống ngầm hiệu quả tầm gần là máy nay trực thăng chống ngầm MH-60HK «Seahawk". Trực thăng chống ngầm được bay thành các phi đội 2 chiếc theo kế hoạch bay tuần tiễu và thả phao sonar thủy âm trong vùng truy quét tàu ngầm. Thời gian bay treo của phi đội thường là từ 1 – 2 phút, hành lang cảnh giới và tìm kiếm là 10 hải lý, mỗi đội bay sẽ tìm kiếm trong khoảng thời gian từ 1 giờ - 2 giờ.  
Tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm lớp Los Angeles
Trực thăng chống ngầm và tác chiến ven bờ MH-60HK «Seahawk"
Các lực lượng chủ yếu và vũ khí trang thiết bị CVBG  
Theo điều lệnh tác chiến của Hải quân Mỹ, CVBG có trong biên chế các lực lượng và phương tiện chiến đấu:
Tàu sân bay lớp "Nimitz" (hoặc "Enterprise"), được biên chế từ 60 – 80 máy bay các loại, tàu sân bay được biên chế trong lực lượng Không quân Hải quân. Chỉ huy tàu sân bay là sĩ quan Không quân Hải quân, thuyền trưởng hạng 1.  (U.S. Naval aviation Captain).
Hải đoàn tuần dương tên lửa lớp "Ticonderoga" bao gồm hai tuần dương hạm có nhiệm vụ chủ yếu là phòng không và tấn công tên lửa. Theo biên chế chính thứ, hải đoàn được trang bị các tổ hợp tên lửa đánh chặn và tên lửa hành trình Tomahawk. Tất cả các tuần dương hạm lớp “Ticonderoga” đều được biên chế hệ thống trinh sát, điều khiển hỏa lực súng phòng không và tên lửa Aegis. Chỉ huy tàu tuần dương là sĩ quan hải quân Mỹ, thuyền trưởng hạng 1 (U.S. Navy Captain).
Hải đoàn các tàu khu trục tên lửa thuộc quyền chỉ huy của một sĩ quan hải quân Mỹ, thuyền trưởng hạng 1 , biên chế có thể lên đến 3 – 4 tàu khu trục tên lửa lớp "Arleigh Burke", tàu được trang bị bom chìm và ngư lôi chống ngầm, một số tàu khu trục có thể được biên chế tên lửa hành trình Tomahawk. Hải đoàn khu trục hạm có nhiệm vụ chủ yếu là chống ngầm, đồng thời trong hiệp đồng chiến đấu với tuần dương tên lửa có nhiệm vụ phòng không tầm gần. Thuyền trưởng khu trục hạm là sĩ quan Hải quân Mỹ, thuyền trưởng hạng II, (U.S. Navy Сommander).
Hải đoàn tàu ngầm nguyên tử bao gồm có từ 1 đến 2 tàu ngầm nguyên tử lớp Los Angeles, các tàu ngầm đa nhiệm này được biên chế ngư lôi chống ngầm, chống tàu và tên lửa hành trình Tomahawk, tàu ngầm lớp Los Angeles có khả năng chống ngầm rất cao, được biên chế trong cụm tàu liên hợp chống ngầm và có thể độc lập tác chiến, tấn công các mục tiêu trên biển (các chiến hạm đối phương) và các mục tiêu công trình quân sự ven biển.
Hải đoàn hậu cần kỹ thuật: được biên chế từ một đến hai tàu lớp "Seplay" vận chuyển tên lửa, vũ khí đạn và cơ sở vật chất, hải đoàn còn được biên chế tàu chở dầu và các tàu phụ trợ khác theo nhu cầu thực tế của chiến trường.
Trung đoàn không quân Hải quân trên tàu sân bay, chỉ huy trưởng là sĩ quan không quân hải quân hạng 1.
Lữ đoàn lính thủy đánh bộ, được biên chế vào CVBG , lữ đoàn trưởng cấp hàm đại tá lính thủy đánh bộ. (USMC Сolonel).
Trung đoàn không quân được biên chế thành 4 tiểu đoàn không quân tiêm kích (48 máy bay tiêm kích – cường kích đa nhiệm F/A-18 «Hornet"  F/A-18E/F «Super Hornet") tiểu đoàn máy bay tác chiến điện tử được trang bị các loại vũ khí, khí tài chế áp lực lượng phòng không đối phương, có 8 loại máy bay EA-18G «Growler", tiểu đoàn trinh sát điện tử, điều hành tác chiến được biên chế 4 máy bay trinh sát điện tử AWACS (ở một số trung đoàn được biên chế đến 5 máy bay) loại E-2C «Hawkeye".
Phi đoàn máy bay không vận được biên chế 2 máy bay loại C-2 «Greyhound", thực hiện các nhiệm vụ vận tải quân sự trên boong.
Tiểu đoàn trực thăng chống ngầm, được biên chế đến 10 máy bay trực thăng chống ngầm loạiMH-60HK «Seahawk". Cất hạ cánh trên boong tàu sân bay và trên boong các tàu tuần dương, khu trục.
Căn cứ vào biên chế tổ chức lực lượng và phương tiện, vũ khí khí tài, có thể nhận thấy, cụm Không quân hải quân chủ lực CVBG trên thực tế có thể coi như là một Tập đoàn quân viễn chinh trên đại dương, tập đoàn viễn chinh với đầy đủ cơ số vũ khí trang bị hoàn toàn có khả năng tiến hành một cuộc chiến tranh khu vực nhỏ (vùng châu Phi, châu Á) đối với các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Ở cấp độ giải quyết các nhiệm vụ chiến lược khởi đầu cho một cuộc chiến tranh cục bộ, CVBG có khả năng duy trì cường độ tác chiến cao trong thời gian 10 ngày với tần suất không kích hàng trăm đợt mỗi ngày bằng máy bay chiến đấu, tên lửa hành trình. Cụm CVAG có thể thực hiện các nhiệm vụ như can thiệp vũ trang vào một cuộc xung đột có giới hạn ( Sebia, Libya), đánh chiếm hải đảo, tiêu diệt lực lượng không quân – hải quân đối phương, đổ bộ đường biển và chống ngầm trên vùng nước lớn. Tập đoàn quân CVBG thực sự là một lực lượng răn đe và kiềm chế chiến lược của Mỹ trên sóng nước đại dương.
 Trịnh Thái Bằng – Nguồn: Thư viện quân sự Liên bang Nga
http://www.quocphonganninh.edu.vn/tabid/195/catid/540/item/2103/tap-doan-hai-quan-vien-chinh-tren-bien-cum-khong-quan-hai-quan-chu-luc-cvbg.aspx

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét