Các hào trưởng bản xứ và cuộc giành giật chức Tiết Độ Sứ
Thời kỳ tự chủ và kỷ nguyên độc lập của dân tộc ta mở ra từ cuối triều Đường, nhân bên Tàu có loạn “thập quốc, ngũ đại” (mười nước, năm đời). Đây là cơ hội ngàn năm có một – theo đúng nghĩa. Tuy nhiên, chỉ có thể nắm bắt được cơ hội nếu tình hình trong nước đã có đủ các điều kiện cần thiết. Đó là nhiều người Việt đã tự gây dựng được thế lực, đủ sức tranh giành chức Tiết Độ Sứ.
Cuối thời Bắc Thuộc, nước ta vẫn có tên Tĩnh Hải Quân do triều Đường đặt. Tên gọi này có từ năm 866 kéo dài trên trăm năm, cho đến khi Đinh Tiên Hoàng đổi thành Đại Cồ Việt (968). Người đứng đầu Tĩnh Hải Quân là Tiết Độ Sứ, đóng ở Đại La; dưới quyền ông này là 12 thứ sử đứng đầu các châu. Tất cả, đều do nhà Đường cử sang.
Về chức Tiết Độ SứNăm 722, trước loạn An-Sử, nhà Đường chia đất nước thành 15 “đạo”, trong đó đạo ở cực nam có tên Lĩnh Nam (gồm Quảng Đông và một phần Quảng Tây hiện nay), thủ phủ là thành Quảng Châu. Đứng đầu một đạo là Tiết Độ Sứ, phụ trách quân sự và hành chính. Phía nam đạo Lĩnh Nam, còn một vùng đất được nhà Đường gọi là Tĩnh Hải Quân, coi như một đạo ở phiên trấn, cũng cử người sang làm Tiết Độ Sứ. Khi nước ta giành được quyền làm chủ, lãnh tụ Khúc Thừa Dụ (905) vẫn giữ tên Tĩnh Hải Quân, vẫn tự nhận là “Tiết Độ Sứ” và mong mỏi lớn nhất là được vua Tàu công nhận bằng một sắc phong. Ý thức dân tộc bị kìm nén là hậu quả đô hộ 300 năm đằng đẵng của nhà Đường.Tĩnh Hải Quân lúc rộng nhất gồm 12 châu, trong đó 4 châu phía bắc – nay nằm vĩnh viễn trong đất Trung Quốc; còn 8 châu phía nam (tới Hà Tĩnh) nay vẫn là đất nước ta.Các mốc về ý thức dân tộc:– Ngô Quyền (939) không tự xưng là Tiết Độ Sứ, mà xưng Vương– Đinh Bộ Lĩnh (968) không xưng vương, mà xưng Đế, lấy tên nước là Đại Cồ Việt.Tuy nhiên, khi nhà Tống cấp sắc phong, vẫn chỉ gọi Đinh Bộ Lĩnh là Vương; vẫn chỉ phong cho Đinh Liễn làm Tiết Độ Sứ, vẫn gọi nước ta là Tĩnh Hải Quân. Vua ta vẫn phải nhận.Cho đến tận đời Lý…Về hào trưởngNhững người có thế lực trong các châu được gọi là hào trưởng, có thể do uy tín mà được cử (kiêm) luôn cả chức thứ sử. Cũng có thể một thứ sử được cử tới, rồi do “cha truyền, con nối” nhiều đời mà tự gây thế lực để thành hào trưởng (Việt-hóa). Hào trưởng có điền địa riêng, có dân riêng, quân đội riêng và quyền tự quản lãnh thổ. Cũng cha truyền, con nối. Vùng đất của hào trưởng nằm trong một châu, nhưng có khi gồm cả một châu, nhất là những châu ở xa trung ương (châu Ái của Dương Đình Nghệ, châu Phong của Kiều Công Tiễn)… Sau này, khi Ngô Quyền giành độc lập, ông vẫn dùng tên nước như cũ, vẫn phong chức thứ sử cho những người có công; ví dụ, cho Đinh Công Trứ (sinh ra Đinh Bộ Linh) làm thứ sử Hoa Lư – thuộc châu Trường. Những hào trưởng tham gia trận Bạch Đằng, hoặc đóng góp binh-lương – ngoài việc vẫn là hào trưởng – còn được phong thêm lãnh thổ, giao chức và tặng tước (cao nhất là tước “công”, dưới đó là tước “hầu”…). Tước vương thời ấy chỉ dành cho vua.
Tình trạng phân tán quyền lực thời xa xưa là đương nhiên ở mọi nước (nước ta, đến đời Lý, Trần vẫn chưa hết hẳn sự cát cứ ở miền thượng du, biên viễn). Đó là do trình độ tổ chức xã hội còn thấp, chính quyền trung ương (đóng ở thành Tống Bình, sau đối là Đại La) chưa đủ lực lượng để vươn bàn tay quản lý rộng khắp, mà chỉ đủ sức đòi hỏi các hào trưởng tuân phục, nộp đủ thuế, thóc, sản vật. Và phải góp đủ quân, lương – khi chính quyền trung ương cần chinh phạt những nơi dám cưỡng lệnh.
Cuối thời Bắc Thuộc, ở Tĩnh Hải Quân đã xuất hiện nhiều hào trưởng gốc Việt, hoặc từ Hán tộc bị Việt-hóa. Khi bên Tàu có loạn, chưa thể cử Tiết Độ Sứ sang ngay (Đại La bỏ trống), nhân đó một hào trưởng người bản xứ đã kịp chiếm lấy và xưng Tiết Độ Sứ. Rồi sau đó, dẫu các vị hào trưởng bản xứ giành đi, giật lại chức này, nhưng không để người Hán có cơ hội lấy lại. Lịch sử đã nói đầy đủ các sự kiện về thời tự chủ, với các nhân vật: họ Khúc, Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền. Tất cả, đều là các hào trưởng người bản xứ. Nếu không thế, tình hình sẽ diễn biến theo hướng khác.
Về “loạn 12 sứ quân”
Rất nhiều tư liệu lịch sử, khá chi tiết, về Loạn 12 sứ quân và Thập nhị sứ quân. Nội dung những sự kiện lớn khá thống nhất, ví dụ, diễn biến, danh sách sứ quân, tự xưng là gì, hành trạng và sự nghiệp mỗi vị ra sao…
Đại cương, có thể, tóm tắt tình hình diễn biến như sau: Ngô Quyền trước khi mất, đã ký thác ấu vương cho Dương Tam Kha, nhưng ông này lại đoạt ngôi, bị hào trưởng khắp nơi coi là không chính thống. Họ nổi dậy chống lại. Dù sau đó, Dương Tam Kha bị truất quyền, việc hai con của Ngô Vương (Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn) lên ngôi – tuy rất chính thống – nhưng “loạn” vẫn không dứt. Hai vua vẫn phải đích thân cầm quân đi dẹp vài nơi còn chống đối, trong đó sự chống đối sớm nhất, kéo dài nhất và nguy hiểm nhất là do Đinh Bộ Lĩnh. Vua không đánh nổi. Khi hai vua lần lượt mất (do bệnh, do tử trận) “loạn” lại càng bùng phát, nhưng bị dẹp yên nhờ công lao của Đinh Bộ Lĩnh. Đất nước thống nhất, lòng người quy tụ, đúng lúc bên Tàu nhà Tống cũng thống nhất đất nước và âm mưu xâm lược. Quả nhiên, chúng đã xâm lược và lập tức bị đánh bại (981).
Những chi tiết nay có thể nhận định khác
Nhiều chi tiết thời nay có thể nhận định khác với những gì viết trong Sử. Vài ví dụ.
1) Sứ quân: từ không xấu
Một nhân vật Tam Quốc rất được tôn kính đã được gọi là “sứ quân” (“Lưu sứ quân”, tức Lưu Bị) . Khi gọi một ông tướng mà mình kính trọng, người ta cũng dùng “tướng quân”. Nhưng văn phong một số bài viết về giai đoạn “loạn 12 sứ quân” khiến người đọc có cảm giác sứ quân là kẻ thích gây loạn. Thực tế, không ai (trong số 12 vị) tự xưng là sứ quân, mà là các nhà sử học hậu thế gọi (một cách kính trọng) như vậy. Thực tế, họ bị tấn công, chiến đấu tới cùng, dũng cảm chịu chết, không đầu hàng. Đến nay, nhiều đền thờ họ vẫn nghi ngút khói hương.
2) Hào trưởng thời loạn, nhưng không phải sứ quân
Sử sách kê ra 12 sứ quân, hầu hết xuất thân từ hào trưởng hoặc tướng tá của triều Ngô (được cử trấn nhậm ở vùng đất nào đó…). Nhưng số hào trưởng và tướng tá thời đó nhiều gấp bội con số 12. Khổ nỗi, thế và lực đều yếu, cai quản nơi biên viễn (đất rộng, người thưa, nghèo nàn), chỉ dám nghe ngóng “ai mạnh thì theo”, cốt giữ lấy những gì đang có; do vậy lịch sử không thèm biết tới.
3) Những sứ quân chỉ lo giữ cơ nghiệp
Họ chính thức có tên trong danh sách 12 sứ quân, nhưng không gây “loạn”. Sử sách không có một chữ nào thể hiện họ gây hấn với láng giềng, còn nói gì ý đồ bành trướng hay thôn tính ai. Họ chỉ lo giữ cơ nghiệp hiện có. Rốt cuộc, họ bị tấn công, bị tiêu diệt, chứ không hàng. Về nhân cách, họ rất cao cả nếu so với kẻ vô cớ tấn công họ.
4) Sứ quân bảo vệ chính thống
Đó là các vị tướng được Ngô Quyền và Ngô Xương Văn cử trấn nhậm vùng xung yếu, nhất là quanh kinh đô Cổ Loa. Hành động của các vị này chủ yếu là chống mọi thế lực xâm phạm Cổ Loa và cố giữ yên nới trấn nhậm. Có thể kể Đỗ Cảnh Thạc, Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí. Khi ngôi chính thống bị đe dọa rơi vào tay ngoại tộc, họ tự thấy mình cấn hành động. Cũng có thể họ tự thấy mình xứng đáng với ngôi vua hơn và đứng ra tranh chấp. Điều này nếu xảy ra, chỉ gói trong phạm vi Cổ Loa, chỉ nhất thời, chứ không thể gây “loạn” triền miên cho cả một vùng rộng lớn (như thực tế đã xảy ra hoặc sử sách đã mô tả). Nay, nhét họ vào một “duộc” họ không có cơ hội cãi lại.
Riêng Ngô Xương Xí, thái tử, đủ tư cách chính thống để làm vua, nhưng lại bị gọi là “sứ quân”. Ông này chẳng tự xưng gì, vì yếu thế, trơ trọi, chỉ lo giữ lấy thành Bình Kiều (mỗi cạnh vẻn vẹn 1800 mét), không có hành động nào gây “loạn”. Cái tên “Ngô sứ quân” gán cho ông là không ổn.
5) Những hào trưởng không dám tự xưng. Trên bản đồ, ta thấy vùng đất của 12 sứ quân chỉ rộng bằng 1/4 hoặc 1/5 cả nước; nhưng đó là cùng đồng bằng sông Hồng, trù phú, đông người. Ngoài vùng đó, các vùng khác hoàn toàn yên ắng, tuy cũng có hào trưởng (tất nhiên), nhưng không ai dám làm “sứ quân”.
6) Tự xưng danh tước
Khi Ngô Quyền xưng Vương, các nơi đều phục. Một trong những việc đầu tiên, ông ban thường cho người có công (Dương Tam Kha, Lã Xử Bình, Ngô Nhật Khánh, Đỗ Cảnh Thạc, Dương Cát Lợi, Phạm Chuyên…). Về vật chất, những hào trưởng có công có thể được mở rộng lãnh địa; các tướng được trấn nhậm những địa dư trọng yếu hoặc giàu có, hoặc làm quan ở triều đình… Về quyền lực, họ được phong chức (ví dụ, thứ sử, tham mưu). Về vinh dự, họ được phong tước “công” và “hầu”…
Trong danh sách 12 sứ quân, mỗi vị khi “nổi dậy” đều tự xưng tước vị. Tư liệu này cần nhận định lại. Ví dụ, có người xưng là “phòng át”. Đó là một chức không lớn (quân sự) có từ thời Ngô Quyền, sau này khi vua Lê Long Đĩnh công cán xứ Nghệ đã gọi một người giữ chức “phòng át sứ” tới, giao việc.
– Đa số sứ quân đều tự xưng tước “công”. Rất có thể như sau: Đây là tước được Ngô Quyền ban tặng cho từ trước; họ có một cách chính đáng chứ không lạm xưng.
– Có thể, một số chỉ ở tước “hầu”, nay tự xưng là “công”. Theo cách này, một số người vốn chỉ có tước “công” nay tự nống lên “vương” – ngang vua. Có thể đây là những vị có ý đồ nhằm tới ngôi vua (Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Thủ Tiệp). Chỉ duy nhất Đinh Bộ Lĩnh chưa hề được phong tước gì, nay “một bước” xưng “vương”, nhưng sử sách không đưa ông vào danh sách sứ quân, mà đặt ông ở vị trí cao hơn cả đám, với sứ mệnh dẹp loạn.
Nguyên nhân gây “loạn”: nhiều nhận định
Thử điểm qua vài nhận định
– Những nhận định càng “đại thể” càng dễ đúng. Có nhận định cho rằng loạn 12 sứ quân có mầm mống từ tình trạng cát cứ – nghĩa là từ rất xa xưa. Đã cát cứ trước sau sẽ có tranh chấp do ý đồ bành trướng và thôn tính của một số thủ lĩnh mạnh; trong khi các thủ lĩnh yếu chỉ mong giữ được cơ nghiệp. Lý lẽ này “nói chung” là đúng. Nhưng (có lẽ) không nên bàn ở đây, vì ít bổ ích.
– Nhận định khác nhau do “thời buối khác nhau”. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (1499) thì nguyên nhân đưa đến “loạn” là do Nam Tấn [Vương] mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ. Các nhà viết sử sau đó (buộc phải) thêm vào: Các sứ quân đánh lẫn nhau. Bởi vì, không “đánh lẫn nhau” làm sao có loạn để Đinh Bộ Lĩnh có cớ chinh phạt?
Xuất bản sau Đại Việt sử ký tới 500 năm, sách giáo khoa lớp 7 (2011) với văn phong rất hiện đại, nội dung rất lập trường (nhân dân làm nên lịch sử) nhận định rằng: Nhà Ngô sụp đổ, cả nước rối loạn, Đinh Bộ Lĩnh đi đánh dẹp, “được nhân dân ủng hộ” đã đánh tan các sứ quân khác… cấm dứt tình trạng cát cứ.
– Nguyên nhân thật sự là do Đinh Bộ Lĩnh… làm loạn
Hai con Ngô Quyền, sau khi truất phế Dương Tam Kha (cách chức, giáng cấp từ “vương” xuống “công”) lên làm vua, tuy có những chống đối nhưng không lớn, dễ dẹp (ví dụ Chu Thái). Lo nhất của hai vua là sự chống đôi của Đinh Bộ Lĩnh. Nếu vậy, đây là vị sứ quân đúng nghĩa nhất, nổi dậy sớm nhất (khi 2 vua còn tại ngôi) và kéo dài nhất. Hai vua phải đích thân tiến đánh, nhưng không nổi. Hai vua mất sớm là cơ hội để Đinh Bộ Lĩnh chinh phạt, tấn công khắp nơi. Các nơi khác chỉ lo tự giữ… và được gọi là sứ quân. Khi lên ngôi, vua Đinh vẫn phải “nấu vạc dầu ngoài sân”, “nuôi hổ báo trong chuồng” để xử những thế lực chống đối.
Về học thuật, nhiều người không thể bỏ qua nhận định về vua Đinh “làm loạn” trong bài Thập nhị sứ quân. Quả thật, các nhân vật một khi thành công trong mưu đồ “tranh bá, đồ vương” đều được sử sách thời phong kiến tô vẽ thành các vị thánh. Còn dân gian lại sáng tác câu tục ngữ: Được: làm vua; thua: làm giặc.
Công trạng
Dù có nhận định coi Đinh Bộ Lĩnh là người gây nội chiến, nhưng công trạng của vua Đinh vẫn rất lớn, nếu xuất phát từ quan điểm coi độc lập dân tộc là tối thượng. Nếu tình trạng cát cứ kéo dài, dù chưa xảy ra kình địch gay gắt thì sức mạnh quốc gia cũng suy giảm, có thể đưa đến mất nước khi bị ngoại xâm. Mà nguy cơ ngoại xâm là có thật, không xa xôi gì. Lê Hoàn chiến thắng giặc Tống là nhờ những kết quả tích cực mà vua Đinh đã tạo ra và để lại.
Phụ lục: Danh sách sứ quân (theo sử sách)
TT | Sứ quân | Tự xưng (hoặc được phong?) | Chú thích |
1 | Trần Lãm | Trần Minh Công | Trần Lãm (?-967) tự xưng Trần Minh Công, là người gốc Hoa, đã việt-hóa từ nhiều đời. Gả con gái và trao lực lượng cho Đinh Bộ Lĩnh. Trong danh sách này, ông đứng số 1, nhưng Đinh Bộ Lĩnh thì đứng ngoài danh sách, để có tư cách dẹp loạn. |
2 | Ngô Xương Xí | Ngô Xương Xí, thái tử, bị gán cái tên “Ngô sứ quân”, phải bỏ kinh đô, dạt về Thanh Hóa, trơ trọi, lực yếu, phải đầu hàng. | |
3 | Đỗ Cảnh Thạc | Đỗ Cảnh Công | Đỗ Cảnh Thạc (912-967) gốc Hán, lão tướng trung thành của triều đình. Đáng được Ngô Vương phong tước Công , chống Đinh Bộ Lĩnh đến cùng, tử trận. |
4 | Phạm Bạch Hổ | Phạm Phòng Át | Phạm Bạch Hổ (910 – 972) vốn là tướng nhà Ngô, giữ chức Phòng Át, con danh tướng Phạm Chuyên. Sau hàng phục Đinh Bộ Lĩnh. |
5 | Kiều Công Hãn | Kiều Tam Chế | Kiều Công Hãn (?-967) tướng nhà Ngô, có công, được phong chức thứ sử châu Phong Châu (xứng đáng tước “công”). Xưng là Tam Chế, vì tự bành trướng thêm 2 châu khác: Hào và Thái. Thua trận, bị giết. |
6 | Nguyễn Khoan | Quảng Trí Quân | Nguyễn Khoan (906 – 967) gốc Hán, Việt-hóa chỉ sau 1 thế hệ. Có công chiêu mộ và huấn luyện dân binh bảo vệ căn cứ và phát triển kinh tế. Được dân tôn là Quảng Trí Quân (vị vua đức lớn, biết rộng). Bị tấn công, chống không nổi, tử trận. |
7 | Ngô Nhật Khánh | – Ngô Lãm Công – An Vương | Ngô Nhật Khánh (?-979) dòng dõi nhà Ngô, được cử trấn giữ quê hương Đường Lâm, được phong tước “công”, sau xưng vương và tranh chấp ngôi vua. Sau hàng phục nhà Đinh. |
8 | Nguyễn Siêu | Nguyễn Hữu Công | Nguyễn Siêu (924-967) anh em ruột với Nguyễn Khoa và Nguyễn Thủ Tiệp. Thế lực rất mạnh, Đinh Bộ Lĩnh phải tấn công hai lần mới kết quả. |
9 | Kiều Thuận | Kiều Lệnh Công | Kiều Thuận (?-?) hậu duệ Kiều Công Tiễn, đóng ở châu Phong. Tử trận. |
10 | Nguyễn Thủ Tiệp | – Nguyễn Lệnh Công – Vũ Ninh Vương | Nguyễn Thủ Tiệp (908 – 967) là một sứ quân mạnh, mở rộng lãnh thổ sang châu Vũ Ninh (tự xưng là Vũ Ninh vương). Thua, chạy vào Nghệ An, tử trận ở đó. |
11 | Lý Khuê | Lý Lãng Công | Lý Khuê (?-968) là hào trưởng vùng Siêu Loại, bị tấn công, thua trận, bị giết năm 968. |
12 | Lã Đường | Lã Tá Công | Lã Đường hào trưởng vùng Tế Giang. Cố thủ, bị họ Đinh giết. |
Đinh Bộ Lĩnh | Vạn Thắng Vương | Nổi dậy trước 951 ở Hoa Lư, chống triều đình. Thu nhận lực lưỡng của sứ quân Trần Lãm. Tấn công khắp nơi, cả kinh đô.
Nhưng Lịch Sử không xếp vào danh sách sứ quân.
|
Khởi đầu nội loạn: khi Dương Tam Kha tự xưng Bình Vương
Là con Dương Đình Nghệ, nghĩa là cùng chà lứa với Ngô Quyền, Kiều Công Tiễn, Phạm Chuyên, Đinh Công Trứ, Trần Lãm… Các vị này đều là nha tướng hoặc bộ tướng dưới quyền Dương Đình Nghệ và cùng lập công trong trận đánh quân Nam Hán lần 1 (tướng là Trần Bảo); giành lại chức Tiết Độ Sứ cho người Việt – tiếp tục thời kỳ tự chủ mà họ Khúc để lại. Rồi Dương Đình nghệ bị giết, quân Nam Hán lại kéo sang, lần này do đích thân thái tử Hoằng Tháo làm tướng. Trận đánh trên sông Bạch Đằng toàn thắng do Ngô Quyền chỉ huy; trong đó Dương Tam Kha (anh/em vợ của Ngô Quyền) và Ngô Xương Ngập (con trưởng Ngô Quyền) đã trực tiếp xung trận. Truyền thuyết và thần phả nói rằng chính ông giết được Hoằng Tháo.
Nếu Dương Đình Nghệ vẫn tiếp tục làm Tiết Độ Sứ (hoặc xưng vương) Dương Tam Kha sẽ là người kế tục một cách chính thống. Có lẽ, suy nghĩ như vậy, Dương Tam Kha không khỏi tiếc nuối. Ngô Quyền mất, tự vương còn nhỏ, lại thêm địa vị nhiếp chính (số 1 trong triều đình) là hoàn cảnh thuận lợi khiến ông ra tay thực hiện tham vọng. Lên làm vua, ông tự xưng là Bình Vương.
Dương Tam Kha thiếu chính danh, thiếu sự thần phục, chứ không phải thiếu tài năng và công trạng để làm vua. Những đóng góp lớn của ông trong khai khẩn đất – sau khi mất ngôi – nói lên tài trí của ông.
Bà Dương Như Ngọc tức Dương Hậu
Gốc là họ Dương, khi đã xuất giá (lấy Ngô Quyền) bà là thành viên họ Ngô. Bởi vậy, với suy nghĩ của bà, thì ông vua mới thuộc họ Ngô hay họ Dương đều chấp nhận được. Vả lại, cho tới lúc ấy Dương Tam Kha đã ở tuổi “ngũ thập” mà vẫn không có con trai, không nhận người trong họ làm con nuôi, mà lại nhận Xương Văn, khiến bà yên tâm về ngôi vua trong tương lai vẫn thuộc về con bà. Chính vai trò mẫu nghi và thái độ “ba phải” của bà khiến hào trưởng các nơi chưa quyết liệt chống Tam Kha. Do vậy, không có chuyện các hào trưởng, thứ sử hoặc tướng tá nào hè nhau đem quân vây kinh đô, mà chỉ kín đáo bất phục, hoặc bất tuân. Điều này giúp cho Dương Tam Kha giữ được ngôi tới 6 năm. “Sáu năm” cũng là cái vận hạn của họ Dương: Bản thân Dương Đình Nghệ, cũng như con rể và con ruột mình, mỗi người chỉ cầm quyền được sáu năm.
Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn
Xương Ngập cùng chà lứa với Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Bặc, Đinh Điền… Khi Ngô Quyền mất, ông đủ trưởng thành để làm vua, nhưng phải bỏ trốn vì sợ bác (cậu) giết hại. Việc này gây bất an lớn cho Tam Kha: Một mặt, nó tố cáo ông đã đoạt ngôi bất chính; mặt khác, nó có thể biến Xương Ngập thành một trung tâm tập hợp các lực lượng chống đối. Có tới 3 lần Dương Tam Kha cử quân đi tróc nã Xương Ngập, nói lên sự lo lắng lớn tới mức nào. Còn hào trưởng Phạm Chuyên, tướng và công thần dưới thời Ngô Quyền (được phong tước “công” – gọi là Phạm Lệnh Công) cả 3 lần giấu biệt Xương Ngập trong rừng và chối rằng “không chứa chấp thái tử”. Đây là thái độ điển hình về sự “bất tuân” kín đáo – chứ chưa công khai chống đối. Đó cũng là thái độ chung của các địa phương. Quả thật, suốt 6 năm Tam Kha làm vua vẫn chưa có vụ chống đối nào thật sự quyết liệt, đến mức gọi là “loạn” – như từ ngữ mà sử sách đã sử dụng.
Xương Văn còn nhỏ, do vậy chưa thành mối lo để Tam Kha phải “tính”. Cách tốt nhất là ông nhận Xương Văn làm con nuôi. Ít năm sau, ông cử Xương Văn đi dẹp sự phản đối của 2 thôn. Hậu thế có thể liên hệ việc này với chuyện vua Lê Đại Hành cũng nhận Đinh Toàn làm con nuôi, cũng đem Đinh Toàn đi “dẹp giặc”, để rồi Đinh Toàn chết trận; dù vua Lê có kêu “trời” – tỏ ra thương tiếc – người ta vẫn nghi ngờ sự thương tiếc này…
Xương Văn lớn lên, được cử đi trấn áp hai thôn (chỉ là cỡ “thôn”) không tuân phục, thì chính Xương Văn gọi dân chúng hai làng đó là “vô tội”. Cử Xương Văn cùng 2 tướng (trung thành với Ngô Quyền, được Ngô Quyền phong chức và tặng tước) đem quân ra khỏi kinh đô Cổ Loa là sự khinh thị, chủ quan của Tam Kha. Nó dẫn đến cuộc đảo chính, khiến Tam Kha mất ngôi, từ “vương” bị giáng xuống “công”, bị đi khỏi kinh đô, về Chương Dương lập nghiệp mới.
Tuy nhiên, anh em Xương Ngập và Xương Văn lên làm vua, dù rất chính thống, vẫn không vãn hồi được sự ổn định và lấy lại được uy quyền của triều đình.
Đinh Bộ Lĩnh: tự xưng Vạn Thắng Vương
Ông này là mối lo lớn nhất và thường trực nhất của triều đình Hậu Ngô. Thực tế lịch sử cho thấy sự lo ngại này rất không thừa. Bởi vậy, vừa mới lên ngôi (năm 950), ngay lập tức hai vua cử sứ giả mang sắc chỉ tới Hoa Lư trách cứ sự bất tuân của Đinh Bộ Lĩnh, đòi ông này lên Cổ Loa bệ kiến. Đinh thoái thác, chỉ gửi con trưởng là Đinh Liễn theo sứ giả vào kinh đô làm “con tin”. Thấy rõ sự ương ngạnh của họ Đinh, hai vua khẩn trương chuẩn bị quân mã để ngay năm sau (951) đích thân cất quân đi đánh.
Sinh năm 924, khi bị 2 vua trách cứ, Đinh Bộ Lĩnh mới 26 tuổi. Năm sau, khi bị vây đánh, ông quyết tử chống lại, dù tính mạng của con trưởng bị hai vua đem ra thử thách. Thà mất con còn hơn mất cơ nghiệp. Cuối cùng, hai vua thất bại, phải rút quân. Kết quả này nói lên:
1) Cuộc chinh phạt thất bại, chứng tỏ Đinh đã xây dựng lực lượng từ lâu rồi. Liệu có thể nghĩ rằng họ Đinh cát cứ để chống việc Tam Kha cướp ngôi?. Chả phải.
2) Dù Tam Kha đã bị truất ngôi, họ Đinh vẫn chống đối vua mới, chính thống.
3) Chính do vậy, sự cát cứ này là nỗi lo ngại lớn nhất và thường trực của triều đình. Sau khi Xương Văn mất (965), chỉ hai năm sau họ Đinh thâu tóm thiên hạ (967).
4) Nếu muốn chỉ ra ai xứng đáng được gọi là “sứ quân” thì Đinh Bộ Lĩnh là duy nhất. Thực tế, tất cả 12 vị trong danh sách sứ quân, chẳng ai tự xưng, mà là thứ danh hiệu bị gán. Bậy bạ nhất là gán cho thái tử Xương Xí. Sau năm 951 cho tới khi hết “loạn” (967) không có bất cứ ai tới tấn công Hoa Lư, mà chỉ có chuyện Hoa Lư xuất quân đi loạn đả khắp nơi. Cái “loạn” bắt đầu từ đó. Lần xuất quân đầu tiên (965), đích thân Đinh Bộ Lĩnh đem theo con trưởng nhằm thẳng kinh đô, khi ở đó xảy ra biến cố.
Biến cố ở Cổ Loa: do Lã Xử Bình tự xưng vua
Đó là cuộc tranh giành ngôi vua, mà lịch sử Trung Hoa viết rằng do 4 (hoặc 5) nhân vật gây ra. Sự biến này là tác nhân làm bùng phát loạn lạc trong cả nước.
Xương Ngập chỉ tại ngôi 3 năm; còn lại Xương Văn – thực là ông vua chinh chiến. Lên ngôi, ông đánh Hoa Lư, cuối đời, ông tử trận. Biến cố này ngay lập tức gây ra cuộc tranh ngôi ở ngay triều đình. Sử ta không ghi gì, do vậy sau này phải dựa vào sự ghi chép trong sử Trung Quốc. Nhiều bộ sử nói giống nhau, không phải vì các sử gia Trung Hoa đã điều tra độc lập (họ không có điều kiện làm như vậy) mà là các thế hệ cứ chép lại tư liệu đầu tiên. Ngay “tư liệu đầu tiên” cũng khó chính xác, vì tác giả chỉ dựa vào tin tức truyền từ nước ta sang. Nói cụ thể, khi Đinh Bộ Lĩnh toàn thắng, lên ngôi vua, đã cử Đinh Liễn dẫn sứ bộ sang nhà Tống (572) trình bày tình hình, thuyết phục và xin được phong. Nhà Tống tin và nghe theo tất thẩy. Nội dung trình bày của Đinh Liễn hẳn là được sử Tàu ghi lại, tóm tắt như sau: Vua mất, tham mưu Lã Xử Bình, các thứ sử Kiều Tri Hựu, Dương Huy, Ngô Nhật Khánh và nha tướng Đỗ Cảnh Thạc, tranh nhau ngôi vua. Loạn lạc xảy ra, 12 sứ quân mỗi người hùng cứ một nơi, nhưng đều bị Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn dẹp yên. Đất nước trở lại thanh bình…
Thực tế thế nào?
Chỉ có thể suy đoán. Và đã có nhiều cách suy đoán. Dưới đây là một cách.
Lã Xử Bình là tướng thân cận và có công, được vua ban họ tôn thất (quốc tính) nên còn gọi là Ngô Xử Bình. Là tham mưu, ông theo vua đi chinh phạt nơi chống đối, chẳng may vua chết trận, Lã nắm cơ hội, thâu tóm quân đội và bộc lộ ý đồ xưng vương. Tuy nhiên, trong 3 vị tôn thất (Ngô Xương Xí, Ngô Nhật Khánh và Ngô Xử Bình) thì ông Bình ít xứng đáng nhất, do vậy bị phản đối. Phản đối tức thời phải là các hào trưởng, thứ sử (quan văn) và tướng tá trấn nhiệm gần Cỏ Loa nhất. Đó là Kiều Tri Hựu (tức Kiều Công Hãn) ở Phong Châu, Dương Huy ở Vũ Ninh và Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động. Đây là những người trung thành với triều Ngô, nhưng bị nhét vào một rọ “tranh bá, đồ vương” với Lã Xử Bình. Ngoài ra, còn Ngô Nhật Khánh ở Đường Lâm – chỉ cách Cổ Loa 1 ngày đường. Ông này cùng chà lứa với Đinh Liễn, nhưng là thân tộc nên sớm được phong tước “công” và được coi giữ Đường Lâm (quê vua). Dịp này, ông tự xưng là An Vương, kéo quân về Cổ Loa, thể hiện rõ ý đồ tranh chấp. Còn Ngô Xương Xí, chính danh là thái tử, nhưng lúc đó đang ở Bình Kiều, quá xa Cổ Loa. Một suy đoán có lý là thái tử được vua (chú ruột) phái vào trấn nhậm châu Ái để tạo gọng kìm phía nam, bao vây Hoa Lư do họ Đinh cát cứ. Nhưng sau ít năm, Đinh kịp liên kết với Trần Lãm, khiến Xương Xí bị cô lập, hết đường về Cổ Loa. Do vậy Xương Xí từ đầu chí cuối chỉ ru rú giữ nhà, không dám đánh ai, cũng không ai dám đánh thái tử, trước khi ông hàng phục họ Đinh.
Cũng nhân sự biến Cổ Loa, họ Đinh không bỏ lỡ cơ hội, đã xuất quân nhằm thẳng kinh đô, đánh tan cả đám. Có kinh đô, ông thừa thắng thanh toán mọi nơi trong vòng 2 năm.
Sự tự xưng của các sứ quân
Như đã nói, “sứ quân” là tên gọi mà hậu thế dành cho những người “nổi dậy” để… “người này đánh lẫn người kia” (!). Lạ đời! Sử sách liệt kê chính thức 12 sứ quân, đặc biệt là ông nào cũng tự xưng danh tước. Dưới đây là danh sách chính thức truyền tới hôm nay.
Tên “sứ quân” | “Tự xưng” | |
1 | Đỗ Cảnh Thạc | Đỗ Cảnh Công |
2 | Lý Khuê | Lý Lãng Công |
3 | Trần Lãm | Trần Minh Công |
4 | Kiều Thuận | Kiều Lệnh Công |
5 | Nguyễn Siêu | Nguyễn Hữu Công |
6 | Lã Đường | Lã Tá Công |
7 | Nguyễn Khoan | Nguyễn Thái Bình
và Quảng Trí Quân
|
8 | Ngô Nhật Khánh | Ngô Lãm Công
và An Vương
|
9 | Nguyễn Thủ Tiệp | Nguyễn Lệnh Công
và Vũ Ninh Vương
|
10 | Kiều Công Hãn | Kiều Tam Chế |
11 | Phạm Bạch Hổ | Phạm Phòng Át |
12 | Ngô Xương Xí | Thái tử, bị gán là
“Ngô sứ quân”
|
Đinh Bộ Lĩnh
(nằm ngoài danh sách)
| Vạn Thắng Vương |
Sơ bộ phân tích: a) Rất rõ, các nhà sử học nước ta muốn làm đẹp lịch sử dân tộc đã không tiếc lời ca ngợi vua Đinh; trong đó một cách là chê bai những người thất bại. Vì vua Đinh trước đây không được phong tước, do vậy các tước hiệu của sứ quân đều bị chê là “tự xưng”. Chả phải. Thật sự, Ngô Quyền khi xưng vương đã rộng rãi phong tước “công” cho nhiều vị có công. Lịch sử cũng cho biết, khi Ngô Xương Ngập lấy lại được ngôi vua, cũng phong tước công và nâng tước (lên tước “công”) cho các vị tỏ ra không tuân phục Dương Tam Kha. Sự phong tước này cố ý công khai và loan báo rộng rãi, vì có lợi cho triều đình mới. Do vậy, 8 vị “sứ quân” nêu lên danh tước “công” của mình là chính danh, không phải là “tự xưng”. Tự xưng, lạm xưng chỉ có hại cho bản thân.
b) Xưng danh tước (do triều Ngô ban tặng) chính là cách tự nhận mình trung thành với triều Ngô. Và nói lên sự chính danh của mình, để gián tiếp chê Đinh Bộ Lĩnh.
c) Trong 8 vị tước “công” có 2 vị xưng “vương”: Ngô Nhật Khánh và Nguyễn Thủ Tiệp. Tước “công” của hai vị này là chính đáng, nhất là tước “lệnh công” – khá phổ biến. Một vị tranh chấp ngôi vua với Lã Xử Bình; vị kia do thôn tính được đất đai của hào trưởng (thứ sử) Dương Huy đã tự tôn lên “vương”.
d) Có một vị không xưng tước, mà xưng chức (phòng át). Càng chứng tỏ sự trung thành với họ Ngô.
e) Dẫu vậy, chẳng ai tự cứu được mình trước tài thao lược của Đinh Bộ Lĩnh.
Công – Tội
Dù tàn bạo, nhưng việc làm của họ Đinh là phù hợp với tiến trình lịch sử: phân quyền phải tiến tới tập quyền. Lịch sử sẽ luận công hoặc kết tội tiếp (sau giai đoạn tập quyền): Họ Đinh làm gì để quy tụ lòng người đặng phát triển xã hội?http://nghiencuulichsu.com/2015/04/14/chuyen-tu-xung-trong-loan-12-su-quan/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét