Nga đã tích cực gia nhập cuộc chạy đua quốc tế đóng các tàu ngầm thông thường mới. Các tàu ngầm mới của Nga sẽ có thể lặn dưới nước đến 25 ngày đêm và sẽ trở thành mặt hàng xuất khẩu rất giá trị.
Nhu cầu bức thiết
Tàu ngầm là loại vũ khí độc đáo. Bất thần xuất hiện, nó có thể giáng đòn chí mạng vào các quân hạm đối phương, các công trình trên bờ, đánh đắm các đoàn tàu hàng và sau đó tan biến không dấu vết trong đại dương mênh mông. Khó khăn chỉ là ở chỗ tàu ngầm có thể bí mật ẩn mình bao lâu dưới mặt nước. Các tàu ngầm hạt nhân hiện đại có thể không phải nhô lên mặt nước trong thời gian đến 3 tháng. Nhưng các tàu ngầm điện-diesel lại buộc phải cứ 2-5 giờ lại phải nổi lên độ sâu kính tiềm vọng để nổ máy động cơ diesel và dùng nó để nạp điện cho các bộ acquy mà nhờ chúng tàu ngầm có thể di chuyển trong lòng biển. Bởi vậy, trong thập niên 1950, ở tất cả các nước có trường phái thiết kế tàu ngầm riêng (trừ Mỹ, quốc gia chọn phương án mua, chứ không đóng tàu ngầm thông thường), đã bắt đầu triển các loại AIP vốn sẽ cho phép tàu ngầm thông thường ở sâu dưới nước trong thời gian đến 15-20 ngày đêm. Đã xuất hiện một sự quan tâm rất lớn của thị trường đối với đề tài này vì chỉ có vài nước trên thế giới có thể đủ sức đóng và duy trì các tàu ngầm hạt nhân. Còn tàu ngầm thông thường thì ngày nay hầu như nước nào cũng có.
Dẫn đầu trong lĩnh vực tàu ngầm thông thường là Đức (điều này không có gì ngạc nhiên nếu xét đến truyền thống của Đức trong lĩnh vực đóng tàu ngầm) và Thụy Điển. Các chuyên gia đóng tàu Đức từ cuối thập kỷ 1990 đang đóng hàng loạt các tàu ngầm lớp Type 212/214, trang bị hệ thống động lực hỗn hợp, hoạt động ở chế độ hoàn toàn tự động, không cần sự bảo dưỡng của thủy thủ đoàn. Hệ thống bao gồm một động cơ diesel dùng để chạy nổi và nạp acquy, còn bản thân các bộ acquy kẽm-bạc và AIP để chạy ngầm ở chế độ tiết kiệm trên cơ sở các pin nhiên liệu gồm các xitec chứa oxy nhiệt độ thấp và các thùng chứa hydride kim loại (hợp kim đặc biệt trong hỗn hợp với hydro). Việc trang bị AIP cho tàu ngầm đã cho phép kéo dài thời gian tàu hoạt động ở trạng thái lặn lên đến 20 ngày đêm. Các kiểu tàu ngầm thông thường lắp AIP của Đức hiện có trong trang bị của Đức, Italia, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Hàn Quốc và một số nước khác.
Tập đoàn Kockums Submarin Systems của Thụy Điển thì vào cuối thế kỷ XX đã bắt đầu đóng các tàu ngầm lớp Gotland với AIP trên cơ sở động cơ Stirling. Khi sử dụng động cơ AIP kiểu này, các tàu ngầm Thụy Điển cũng có thể lặn dưới nước mà không cần nạp điện cho acquy đến 20 ngày đêm. Và hiện nay, tàu ngầm thông thường lắp động cơ Stirling có không chỉ ở các nước Scandinavia, mà cả ở Australia, Nhật Bản, Singapore và Thái Lan.
Người Pháp thì đã đi theo con đường chế tạo AIP MESMA (Module d'Energie Sous-Marine Autonome) chạy bằng ethanol và oxy lỏng mà họ đã bắt đầu trang bị cho các tàu ngầm lớp Agosta. Hiện nay, các tàu ngầm với các AIP như vậy không chỉ có ở Pháp mà còn có ở Chile chẳng hạn. Ngoài ra, trên cơ sở công nghệ diesel chu trình kín, các nhà thiết kế Italia đã chế tạo được AIP dành cho các tàu ngầm siêu nhỏ và nhỏ.
Như vậy, ứng dụng AIP hiện là xu hướng chủ yếu trong phát triển tàu ngầm thông thường trong 30 năm gần đây. Chúng đơn giản hơn, rẻ tiền hơn khi đóng và khai thác, và so với các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa thì hợp túi tiền hơn nhiều đối với đa số các nước. Còn việc trang bị cho chúng các tên lửa hành trình, chẳng hạn như các tày ngầm Đức Type 212 hay tàu ngầm Trung Quốc lớp Nguyên (Type 041) đang biến các tàu ngầm này thành vũ khí đáng sợ chống các mục tiêu bờ biển cảu đối phương trong kỷ nguyên “chiến tranh ven bờ”.
Bước tiến vượt bậc
Nga hiện chưa có tàu ngầm trang bị AIP. Tàu ngầm thông thường thế hệ 3 nổi tiếng nhất thuộc các lớp Projekt 877 (Paltus) và Projekt 636.3 (Varshavyanka), vẫn sử dụng động cơ diesel và động cơ điện như các tiền bối của chúng thời Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại. Mặc dù, Liên Xô từng có các dự án phát triển AIP trong những năm 1980-1990. Nhưng Nga chỉ đưa vào hiện thực hóa chúng trong thực tế khi vào năm 2010-2011, Nga bắt đầu chi những khoản kinh phí thực sự lớn cho việc đổi mới quân đội và hạm đội. Bởi vậy, Viện thiết kế TsKB Rubin - nhà thiết kế tàu ngầm chủ yếu của Nga rõ ràng là vào thời điểm đó cũng bắt tay vào thử nghiệm mẫu AIP giá thử kích thước như thật dành cho các tàu ngầm thông thường tương lai của Hải quân Nga, cũng như dành cho các tàu ngầm xuất khẩu.
Hiện nay, việc thử nghiệm trên giá thử đã hoàn thành tốt đẹp và động cơ mới chắc chắn sẽ được lắp lên các tàu thứ hai là Kronshtadt và thứ ba là Sevastopol của lớp Projekt 677 Lada đang đóng ở Admiralteiskye verfi để thử nghiệm tiếp. Tàu đầu tiên của lớp này là St. Petersburg đã được Hải quân Nga tiếp nhận đưa vào sử dụng thử từ tháng 5/2010.
Trong thời gian này, tàu St. Petersburg đã làm Hải quân Nga và các công trình sư rất đau đầu. Một phần là vì hệ thống động lực điện-diesel của tàu ở giai đoạn 1 không cung cấp quá 70% công suất công bố. Tuy vậy, đến nay, đa số những khiếm khuyết đã được khắc phục và vào cuối năm nay, các tàu ngầm thông thường thế hệ 4 lớp Lada sẽ được chính thức nhận vào trang bị của Hải quân Nga.
Amur-950 - biến thể xuất khẩu của lớp Lada - sẽ có khả năng tấn công bắn loạt ngư lôi, tên lửa vào các mục tiêu trên biển và các mục tiêu tĩnh trên bộ từ 4 ống phóng lôi và 10 giếng phóng tên lửa thẳng đứng.
Trong thời gian này, tàu St. Petersburg đã làm Hải quân Nga và các công trình sư rất đau đầu. Một phần là vì hệ thống động lực điện-diesel của tàu ở giai đoạn 1 không cung cấp quá 70% công suất công bố. Tuy vậy, đến nay, đa số những khiếm khuyết đã được khắc phục và vào cuối năm nay, các tàu ngầm thông thường thế hệ 4 lớp Lada sẽ được chính thức nhận vào trang bị của Hải quân Nga.
Amur-950 - biến thể xuất khẩu của lớp Lada - sẽ có khả năng tấn công bắn loạt ngư lôi, tên lửa vào các mục tiêu trên biển và các mục tiêu tĩnh trên bộ từ 4 ống phóng lôi và 10 giếng phóng tên lửa thẳng đứng. Amur-1650 có tầm phát hiện mục tiêu xa hơn so với các hệ thống thủy âm hiện có nhờ có một hệ thống thủy âm độc đáo. Cả hai biến thế đều có thể lặn sâu đến 300 m, tốc độ tối đa của Amur là 21 hải lý/h, thời gian hoạt động độc lập 45 ngày đêm. Để giảm tiếng ồn cho tàu ngầm, người ta áp dụng các bộ chống rung, động cơ điện đẩy mọi chế độ dùng nam châm vĩnh cửu, vỏ tàu được bọc lớp vật liệu Molnyia hấp thụ tín hiệu của thiết bị thủy âm.
Hiện nay, chưa có nhiều thông tin về động cơ AIP sẽ được lắp cho các biến thể xuất khẩu của tàu ngầm Lada. Cũng giống như AIP của Đức, nền tảng của AIP của các tàu ngầm này cũng là một máy phát điện hóa. Nhưng nó sẽ khác hoàn toàn ở chỗ hydro cần cho hoạt động của AIP sẽ không được chở theo tàu mà là thu nhận được trực tiếp trên tàu ở khối lượng tiêu thụ cần thiết nhờ quy trình reforming nhiên liệu diesel có sẵn. Bởi vậy, AIP của Nga sẽ kinh tế hơn loại tương tự của Đức, nên cho phép chẳng hạn kéo dài thời gian lặn liên tục của tàu lên đến 25 ngày đêm.
Ngoài ra, biến thể xuất khẩu của Lada ngay cả khi được lắp AIP cũng sẽ rẻ hơn các tàu ngầm lớp Type 212/214 của Đức, vì thế các hãng đóng tàu Nga có thể hy vọng vào các hợp đồng xuất khẩu nhiều lợi nhuận. Hạm đội Nga cũng hy vọng đến cuối thập kỷ này nhận được gần 15 tàu ngầm thông thường thế hệ 4 mới.
Nguồn: Expert, 5.10.2014.
http://vietnamdefence.com/Home/phantich/Chay-dua-tang-hinh-duoi-mat-bien-Full/201410/54046.vnd
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét