Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014

Tình thế trong và ngoài nước trước khi nhà Thanh sụp đổ!

Chương một

Liệt cường gia tăng tranh đoạt
[1901-1911]


anh
Chiến tranh Nhật Nga kết thúc, ký điều ước ngày 5/9/1905
tại Portsmouth [New Hampshire, USA)

1. Nhật Nga chiến tranh cùng quân Nhật xâm lược phía bắc Trung Quốc


Nước Nga xâm nhập đông bắc Trung Quốc do loạn Nghĩa Hoà đoàn ; đây là một phần hành động của liên quân 8 nước, đáng do liên quân xử lý sau đó ; nhưng nước Nga vốn có chủ đích, nên đơn độc tự giải quyết. Ngày 9/11/1900 Đề đốc hải quân Nga tại Lữ Thuận [Lushun, Liêu Ninh] Alexieff [A Lai Khắc Tức Phu] bắt ép viên Thịnh kinh tướng quân Tăng Kì ký tạm thời hiệp định, trong điều kiện viên này bị khống chế gần như bị bắt, để đặt Phụng Thiên [tỉnh Liêu Ninh hiện nay] dưới quyền kiểm soát của Nga. Triều đình nhà Thanh mệnh Sứ thần Dương Nho tại Nga giao thiệp để thủ tiêu hiệp định này và xin lập điều ước chính thức. Đại biểu nước Nga, viên Đại thần Uy Đặc đề ra những điều kiện rất khó khăn không những đòi tước đoạt quyền lợi Trung Quốc tại Đông Tam tỉnh 1, mà lại còn can thiệp đến miền Hoa bắc, Mông Cổ, Tân Cương. Tin tức truyền đi, các nước Anh, Nhật rất chấn động, cảnh cáo Lý Hồng Chương, Dịch Khuông, cùng thuyết phục Lưu Nhất Khôn, Trương Chi Đổng không thể thừa nhận ; mọi việc phải để các nước trong liên quân cùng bàn. Nga cho Lý biết rằng, nếu như không lập điều ước thì không thể tương trợ và sẽ vĩnh viễn đóng tại vùng đông bắc. Lý Hồng Chương muốn Nga trợ giúp đàm phán công ước Bắc Kinh, nên chủ trương ký điều ước với Nga trước ; nhưng Lưu, Trương cực lực phản đối. Từ Hy vốn sợ nước Nga, mà cũng không muốn chịu tội với các nước khác ; nên một mặt khẩn khoản Nga hãy thư thả, một mặt hứa mở cửa đông bắc, để Anh, Nhật, Mỹ bàn bạc với Nga. Nga lại tiếp tục uy hiếp Lý và Dương Nho ; riêng Anh, Nhật khuyên Lý cự tuyệt, cổ vũ Lưu, Trương ngăn cản. Vào ngày 12/3/1901, Uy Đặc đem bản cảo điều ước sửa đổi, hẹn Dương Nho trong 15 ngày phải ký ; lúc này Lý và Lưu, Trương tranh luận, riêng tại nước ngoài thì Anh, Pháp, Nga khẩu chiến qua con đường ngoại giao. Công sứ Nga P. M. Lessar nói với Lý rằng “ Muốn giao hảo với Nga thì ký, nếu muốn quyết liệt thì tuỳ ý ”. Lãnh sự Anh, Nhật khuyên Lưu, Trương rằng “ Điều ước với Nga quyết không thể chấp thuận được, sẽ đem hết sức ra giúp ”. Lý xin ký để khỏi nguy hiểm ; Lưu, Trương cho rằng không ký, bất quá Nga hoãn giao Đông Tam Tỉnh, nhưng tránh khỏi việc chia cắt. Từ Hy lại tiếp tục yêu cầu nước Nga trì hoãn, vì bây giờ chưa có thể quyết định.


Uy Đặc tìm mọi cách dụ dỗ và uy hiếp Dương Nho không được, bèn trách cứ Lý Hồng Chương rằng “ Trung Quốc nghe lời sàm của Anh, Nhật, không nghe lời trung thực của Nga… đáng phải tuyệt giao, Nga sẽ tự hành động… sau này bàn đến công ước sẽ cứng rắn hơn ”. Lý rất sợ, điện cho triều đình tại Tây An rằng “ Hoạ hoạn tại trước mắt, hãy mau định đại kế ”. Lưu Khôn Nhất nói “ Anh, Nhật ra sức giúp, đừng coi nhẹ ”. Kỳ thực nước Nga bị Anh, Nhật, Mỹ kháng nghị ; tuy ngoài mặt cứng nhưng trong lòng đã nhũn ; đầu tháng 4/1901 tuyên bố vấn đề Trung Quốc chờ cho mọi việc định sẽ đề xuất. Vào tháng 8, lúc công ước với các nước sắp ký, Lý Hồng Chương yêu cầu Nga triệt binh, P. M. Lessar biểu thị nếu đem thiết lộ đông bắc, khai thác khoáng sản, cùng quyền ưu tiên công thương nghiệp giao cho Đạo Thắng ngân hàng [của Nga] thì sẽ triệt binh. Tháng 10 Lý Hồng Chương đòi triệt binh, không chấp nhận điều kiện liên quan đến kinh tế. Công sứ P. M. Lessar giận dữ cho rằng nghe những lời nói sàm của các nước khác rồi sinh sự. Trước khi Lý mất 1 ngày, P. M. Lessar vẫn còn áp lực ; sau đó Dịch Khuông và viên tân Toàn quyền đại thần Vương Văn Thiều tiếp tục đàm phán.


Vào ngày 3/1/1902, Anh, Nhật ký điều ước nhắm giúp Nhật đối phó với Nga ; trong đó quy định nếu như Anh hoặc Nhật khai chiến với nước thứ ba, thì nước kia đứng trung lập ; nếu có nước khác liên kết với nước thứ ba, thì Anh, Nhật sẽ liên kết đánh lại. Có điều ước trong tay, Nhật Bản không còn sợ Nga, và uy tín quốc tế lên cao, nghiễm nhiên thành nước lãnh đạo tại châu Á. Nước Mỹ cho rằng Anh, Nhật đồng minh phù hợp với chủ nghĩa môn hộ khai phóng Mỹ từng nêu lên, nên ủng hộ ; riêng nước Nga thì kinh hãi vì hành động này, buộc Nga phải rút ra khỏi miền đông bắc Trung Quốc.


Anh, Nhật đã trở thành đồng minh, tình thế quốc tế bất lợi, nước Nga không thể khảo xét lại thái độ đối với Trung Quốc. Ngày 8/4/1902, Trung Nga ký điều ước “ Trung, Nga trao và nhận miền Đông Tam Tỉnh [Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh] ” ; nội dung Nga thừa nhận quyền lợi Trung Quốc tại miền Đông bắc, nếu tương lai không có biến loạn nước Nga sẽ chia làm 3 kỳ triệt binh trong vòng 18 tháng, mỗi kỳ cách nhau 6 tháng ; đây chỉ là kế hoãn binh, Nga không muốn thực sự thi hành. Vì vấn đề Âu châu, vào tháng 8 cùng năm, Hoàng đế nước Đức, Wilhelm II von Deutschland đệ nhị, hội đàm với Nga hoàng, Ni Cổ Lạp thứ 2, trong đó có đề cập đến hoạ da vàng, cùng đối phó với Anh, Nhật, khuyên Nga đông tiến, nguyện củng cố hậu phương. Nga triệt binh kỳ thứ nhất, chỉ rút quân ra khỏi phía tây sông Liêu Hà [Liaohe river] Liêu Ninh, rồi tập trung tại vùng phụ cận Nam Mãn thiết lộ ; riêng đợt triệt binh thứ 2 không thi hành, lại vào tháng 4/1903 đòi Trung Quốc yêu sách mới. Nhật và Anh khuyên Trung Quốc đừng nhận, đồng thời hướng Nga kháng nghị. Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt [La Tư Phúc] rất ghét Nga, muốn Trung Quốc và Hàn Quốc dựa vào Nhật Bản, không chấp nhận nước Nga làm quá ; riêng Hoàng đế Đức thì khuyên Sa hoàng không thể rút lui. Vào tháng 7, nội các Quế Thái Lang của Nhật đàm phán với Nga, đề nghị Nga thừa nhận quyền ưu việt của Nhật tại Triều Tiên, Nhật Bản thừa nhận lợi ích của Nga tại Mãn Châu, nhưng không phương hại đến quyền lợi của Nhật và các nước khác ; nhưng thái độ Nga cường ngạnh, lập phủ Tổng đốc tại Viễn Đông, Nhật Nga giao thiệp trong vòng 4 tháng nhưng không có kết quả ; do đó dấy lên sự kiện nhân dân Trung quốc chống lại Nga, mâu thuẫn Nga Nhật đến hồi kịch liệt, dẫn đến chiến tranh Nga Nhật bạo phát vào năm 1904.


Nhật Bản từ lâu ôm lòng quyết thắng bại với Nga ; sau khi Anh, Nhật đồng minh thành lập, tự cho cơ hội đã đến. Ngoài ra Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt cũng đả kích Nga quyết liệt và thông báo cho các nước Đức, Pháp biết rằng nếu giúp Nga ; Mỹ sẽ lập tức trợ giúp Nhật.


Nhật chủ trương đánh trước, tuyên chiến sau. Vào ngày 8/2/1904 tập kích quân cảng Lữ Thuận [Lushun, Liêu Ninh], ngày hôm sau chiến thắng tại Incheon [Nhân Xuyên, Triều Tiên] và phong toả Lữ Thuận. Ngày 10/2 chính thức tuyên chiến ; chiến tranh Nga, Nhật không xẩy ra tại các nước này, chủ yếu chiến trường tại phía đông sông Liêu Hà, Trung Quốc. Tháng 5, một cánh lục quân Nhật vượt qua phía tây sông Áp Lục [Triều Tiên], một cánh khác đổ bộ lên bán đảo Liêu Đông [Liaodong, Liêu Ninh]. Tháng 10, hai lần đánh bại quân Nga tại Liêu Dương [Liaoyang, Liêu Ninh] và phía bắc Sa Hà [Liêu Ninh]. Tháng 1/1905, Nhật đánh chiếm cảng Lữ Thuận, tháng 3 chiếm Thẩm Dương [Shanyang, Liêu Ninh], cuộc chiến trên bộ kết thúc. Tháng 5, danh tướng Nhật, Hương Bình Bát Lang, tiêu diệt hạm đội Nga từ Âu Châu tới, tại eo biển Đối Mã [Nhật], kết thúc cuộc chiến.


Nga Nhật chiến tranh bắt đầu từ hải chiến tại Nhân Xuyên, lại được kết thúc bởi hải chiến khác tại eo biển Đối Mã. Quân Nga tử trận hơn 4 vạn, quân Nhật hơn 8 vạn, theo thống kê của triều Thanh dân Trung Quốc tử thương đến 2 vạn, tài sản tổn thất 6 900 vạn lượng bạc.


Thắng lợi của Nhật Bản có ý nghĩa mất còn, nên cả nước nhất trí, không màng đến sự hy sinh. Tuy nhiên việc hạm đội Anh tìm cách khiên chế khi hạm đội Nga điều sang đông, nước Mỹ viện trợ cho Nhật, cùng hai nước ủng hộ Nhật trên trường ngoại giao cũng có quan hệ lớn. Ngoài ra Chính nghĩa quân xuất phát từ dân gian miền đông bắc Trung Quốc, tập kích hậu phương Nga, phá hoại giao thông cũng có ảnh hưởng. Nước Nga bại, Nhật cũng kiệt sức, qua sự điều giải của Theodore Roosevelt, hai nước hội đàm tại Portsmouth [New Hampshire, USA]. Ngày 5/9/1905 ký hoà ước, nước Nga thừa nhận Nhật bảo hộ Triều Tiên, nhường cho Nhật Bản Lữ Thuận, Đại Liên [Dalian, Liêu Ninh], đường sắt Nam Mãn 2 cùng phía nam đảo Khố Hiệt [Nga], và hai nước lưu binh tại Mãn Châu để bảo vệ đường sắt.


Điều ước Portsmouth với Nga chưa đủ làm cho Nhật vừa ý, nước này vẫn ôm tham vọng khống chế miền đông bắc Trung Quốc, như điều ước Mã Quan từng ký với Trung Quốc trước kia. Trải qua hơn một tháng tranh luận, ngày 22/12/1905 “ Đông Tam tỉnh thiện hậu sự nghi điều ước ” 3 ký kết tại Bắc Kinh, trong đó Chính ước tương tự như điều ước ký với Nga, quy định quyền lợi của Nhật tại cảng Lữ Thuận, Đại Liên và thiết lộ Nam Mãn. Về Phụ ước dành cho Nhật 16 địa điểm buôn bán tại miền đông bắc, Nhật Bản theo lệ quân Nga trước đó, lưu binh bảo vệ đường sắt ; tiếp tục kinh doanh tuyến đường sắt An Đông [Dandong, Liêu Ninh] – Thẩm Dương [Shanyang, Liêu Ninh]. Năm sau Nhật lập Quan Đông Tổng đốc phủ thống trị Lữ Thuận, Đại Liên, lực lượng bảo hộ đường sắt ; đây là cơ quan quân sự, chính trị nhắm xâm chiếm miền đông bắc Trung Quốc.





2. Nhật, Mỹ đối kháng, khiến việc khai phóng đông bắc thất bại



Đầu triều Thanh quy định đông bắc là vùng cấm, không cho phép dân di cư ra khỏi Sơn Hải Quan [Shanhaiguan, Hà Bắc] ; tuy nhiên sau đó lệnh này chỉ còn trên danh nghĩa, không những lính tráng, nhà buôn, thợ thuyền mà dân chúng vùng Sơn Đông, Trực Lệ đến mỗi ngày một đông ; thành, trấn thiết lập, dân khai khẩn tung ra các nơi. Vào giữa thế kỷ thứ 19, do mối lo về nước Nga mỗi ngày mỗi gấp, nạn lụt tại sông Hoàng Hà xẩy ra nhiều, nên có chương trình di dân để củng cố biên giới, thiết lập quận huyện tại hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang. Sau chiến tranh Trung Nhật, rồi Nhật Nga, vấn đề di dân kinh dinh càng thêm mạnh, nhân đường xe lửa được thiết lập việc đi lại tiện lợi hơn, gia tăng di dân về phía đông, số nhân khẩu vùng này từ con số triệu, lên đến hàng chục triệu. Ngoài ra tại đây ngoại quốc mở mang nhiều nơi buôn bán, khuếch trương thực nghiệp. Trước kia chế độ quan lại tại Đông Tam Tỉnh so với toàn quốc không giống, nơi này đặt Tướng quân để cai trị, riêng tỉnh Phụng Thiên [Liêu Ninh cũ] đặt thêm Phủ doãn. Năm 1906, cải cách Đông Tam Tỉnh để phù hợp với thời thế mới, sai Thượng thư Tái Chấn, Từ Thế Xương đến khảo sát, ra lệnh Tướng quân 3 tỉnh chỉnh đốn quan cai trị, khai thác rộng tài nguyên. Năm 1907, cải Thịnh kinh tướng quân thành Đông Tam Tỉnh Tổng đốc, các tỉnh đặt thêm Tuần phủ, cử Từ Thế Xương làm Tổng đốc, Đường Thiệu Nghi làm Tuần phủ Phụng Thiên. Từ, Đường quan hệ nhiều với Viên Thế Khải, do đó kẻ cầm quyền trong ngoài Sơn Hải Quan tăng cường hợp tác.


Một trong những động cơ để Mỹ giúp Nhật chống Nga là chủ trương mở cửa miền đông bắc Trung Quốc, riêng Nhật cũng đã bằng lòng điều đó. Sau khi hiệp ước Nhật Nga thành lập, viên phụ trách về hoả xa của Mỹ, E. H. Harriman, lập hợp đồng mua Nam Mãn thiết lộ. Nhưng sau khi ký Đông Tam Tỉnh thiện hậu sự nghi điều ước với Trung Quốc, Nhật lật lọng, độc quyền, huỷ hợp đồng với Mỹ. Mỹ thấy Nhật thất tín bèn tìm cách đối kháng, do viên Lãnh sự tại Thẩm Dương [Shanyang, Liêu Ninh] W. Straight tìm cách hợp tác với Đường Thiệu Nghi. Đường từng du học tại Mỹ, lại cùng Viên Thế Khải làm việc tại Triều Tiên ; nên khi công danh của Viên thăng tiến, Đường cũng lên theo. Chính sách của Đường và Viên muốn quốc tế hoá vùng Đông Tam Tỉnh; mượn lực lượng Anh, Mỹ khống chế Nhật, Nga xâm lược. Tháng 8/1907, Đường và W. Straight ký hiệp nghị sơ bộ, nội dung Mỹ cho mượn tiền phát triển miền đông bắc, cải cách tiền tệ, chủ yếu lập các tuyến đường sắt từ Tân Dân [Xinming, Liêu Ninh] đến Pháp Khố Môn [Fakumen, Liêu Ninh], từ Thao Nam [Taonan, Cát Lâm] đến Hắc Long Giang ; nhắm chế ngự Nam Mãn thiết lộ. Khi mới khởi công Tân-Pháp thiết lộ, Nhật Bản cương quyết phản đối, nên người Mỹ tỏ ra nghi ngờ không quyết. Tháng 11, Đường và Từ Thế Xương quay sang hợp đồng với Anh, lại bị Nhật tiếp tục phản đối, cuối cùng Tân-Pháp thiết lộ đành phải gạt bỏ.


Cũng năm này [1907] quan hệ giữa Nhật Mỹ trở nên khẩn trương, nước Đức cũng kỵ Nhật giao thiệp với Nga, Anh, Pháp, bèn tỏ ý đồng minh với Trung, Mỹ, để thừa cơ chiếm được quyền lợi kinh tế tại Trung Quốc. Lúc bấy giờ Viên Thế Khải giữ chức Thượng thư ngoại vụ, rất đồng ý việc này. Năm 1908 nước Mỹ giảm thu tiền bồi thường chiến phí năm Canh Tý [1900] để Trung Quốc dùng vào việc giáo dục. Trung Quốc bèn cử Đường Thiệu Nghi làm chuyên sứ đến cảm ơn, nhưng thực chất là mượn thêm tiền, cùng thảo luận vấn đề Trung, Mỹ, Đức đồng minh, nhưng Nhật Bản đã ra tay trước. Lúc Đường mới đến Hoa Thịnh Đốn thì Sứ thần Nhật ký với Quốc vụ khanh Mỹ E Root [La Đức] hiệp định duy trì tại Hoa công bình công thương nghiệp cơ hội, cùng lãnh thổ Trung Quốc hoàn chỉnh ; nhân Tổng thống Theodore Roosevelt [La Tư Phúc] cũng muốn dùng Nhật chống lại Nga, vì vậy chuyến đi của Đường Thiệu Nghi thất bại.


Tháng 10/1909, Tổng đốc Đông Tam Tỉnh, Tích Lương, cùng Tuần phủ Phụng Thiên Trình Đức Toàn kế tục chính sách của Từ, Đường trước kia cùng với Lãnh sự Mỹ W. Straight ký hợp đồng lập thiết lộ từ Cẩm Châu [Jinzhou, Liêu Ninh] đến Viên Hồn [Heihe, Hắc Long Giang], lộ tuyến cách Nam Mãn thiết lộ tương đối xa, nhưng Nhật, Nga cũng đồng phản đối. Quốc vụ khanh Mỹ P. C. Knox [Nặc Khắc Tư] đề ra kế hoạch trung lập Mãn Châu thiết lộ, do liệt cường cho Trung Quốc vay tiền mua lại Mãn Châu thiết lộ ; cùng đầu tư xây các thiết lộ khác như Cẩm-Viên ; nhưng nước Anh phản ứng lạnh nhạt, Pháp, Đức vẫn giữ ý kiến cũ, còn Nhật, Nga thì cương quyết phản đối. Hậu quả Mỹ cô độc không làm gì được thêm ; riêng Nga, Nhật lại cấu kết mật thiết hơn, trong năm 1910, hai lần ký mật ước không cạnh tranh tại Mãn Châu, giữ vùng này nguyên tình trạng, bảo hộ lợi ích hai nước, ngăn chặn hoạt động của các nước khác.


Từ năm 1907 trở về sau Nhật Bản càng sinh sự tại miền đông bắc : Thứ nhất là thiết lộ Cát-Trường ; nước Nga nhường cho Nhật Bản Nam Mãn thiết lộ, phía bắc khởi đầu từ Trường Xuân [Changchun, Cát Lâm] ; Nhật Bản lại muốn xây thiết lộ từ Trường Xuân đến tỉnh thành Cát Lâm rồi kéo dài đến Triều Tiên. Thứ hai là An Đông 4 - Phụng Thiên thiết lộ ; trước đó tuy chưa được Trung Quốc chấp nhận, Nhật Bản tự tiện xây và đặt trại binh. Thứ ba là Gián Đảo trên sông Đồ Môn [Tumen river, Cát Lâm] gần biên giới ; đất này thuộc Trung Quốc, nhưng Nhật cho là thuộc Triều Tiên và công nhiên đóng quân lập trại.





3. Nước Anh gây hấn tại Tây Tạng




Nước Nga và Tây Tạng tiếp xúc dựa vào trung gian của Tu sĩ Dorjieff, người Nga. Dorjieff sống tại Lạp Tát [Lhasa, Tây Tạng] lâu, được Đạt Lại Lạt Ma 5thứ 13 tin dùng. Lạt Ma thứ 13 rất ghét nước Anh, lại bất mãn với triều Thanh ; Dorjieff khuyên nên thân Nga ; vào năm thập niên 90 thế kỷ 19, Sứ Tây Tạng, Nga thường qua lại. Vào năm 1902, có lời đồn rằng Trung Quốc đem quyền lợi tại Tây Tạng hứa giao cho Nga. Lúc này tranh chấp giữa Anh, Tạng lại dấy lên, Anh mang quân vào biên giới ; Nga bèn chất vấn, Anh đáp lại rằng Anh, Tạng quan hệ mật thiết, chỉ mong Tây Tạng tuân theo điều ước.


Năm 1903, Tổng đốc Ấn Độ sai Thượng tá Younghusband [Vinh Hách Bằng] mang quân vào đất Tây Tạng. Từ tháng 3-5/1904 liên tiếp đánh bại quân Tây Tạng, Lạt Ma bèn tuyên chiến với quân Anh. Tháng 7 quân Anh đại phá quân Tạng tại Giang Tư [Gyangze, Tây Tạng] rồi trên đường tiến quân hướng Lạp Tát, Lạt Ma phải chạy lên phía bắc tỉnh Thanh Hải [Qinghai], rồi đến Khố Luân [Hure, Nội Mông]. Ngày 3/8 quân Anh vào Lạp Tát, ngày 7/9 Nhiếp chính Tây Tạng ký hoà ước với Younghusband, dành cho Anh mở các địa điểm buôn bán tại Giang Tư [Tây Tạng], Hát Đại Khắc [Tây Tạng], Á Đông [Yadong,Tây Tạng] và đóng quân tại Xuân Phi [Chunpi, Tây Tạng] ; ngoài ra phải dẹp bỏ các pháo đài tại biên giới Tạng-Ấn ; bồi thường binh phí 500 000 bảng Anh ; không được nhường đất, đường, điện, mỏ khoáng cho các nước khác, hoặc đem các tài nguyên ra cầm cố.


Trung Quốc không thừa nhận Lạp Tát điều ước, quyết gánh vác trách nhiệm về ngoại giao. Tháng 3/1905, Đường Thiệu Nghi cùng Đại biểu Anh hội đàm tại Calcutta [Ấn Độ] không thành, lúc trở về lại họp với Công sứ Anh E. M. Satow [Tát Đạo Nghĩa]. Ngày 27/ 4/1906 ký “Tạng Ấn điều ước”, Anh đồng ý không chiếm đất Tạng, không can dự vào chính trị của Tây Tạng, dùng “Lạp Tát điều ước” làm phụ ước ; Trung Quốc cũng hứa không để cho nước khác chiếm đất, hoặc can dự việc chính trị của Tây Tạng. Điều ước này có những điểm bất lợi cho Trung Quốc, nhưng ít ra người Anh đã công nhận quyền làm chủ của Trung Quốc tại Tây Tạng. Ngày 20/4/1909 Trung Quốc tiếp tục đính ước với Anh “Tạng Ấn thông thương chương trình”, lấy lại được một số quyền lợi. Lại dùng Triệu Nhĩ Phong làm Đại thần Tứ Xuyên, Vân Nam, phụ trách kinh dinh vùng Tây Khang [Xikang, Tây Tạng] vào năm 1906-1908 ; việc làm quá gấp nên bị dân Tây Tạng oán.


Đại Lại Lạt Ma đến Khố Luân ; nhân Nga bị Nhật đánh bại, không có cách trợ giúp. Tháng 9/1908 triều đình nhà Thanh mời đến Bắc Kinh chiêm cận, được gia phong ; lại một lần nữa xác định quyền làm chủ của Trung Quốc. Lạt Ma thấy nước Nga không thể dựa, thế lực của Trung Quốc tăng cao, bèn chuyển sang thân Anh, trực tiếp nói chuyện với Sứ Anh John N. Jordan. Tháng 12/1909 Lạt Ma trở về Tây Tạng. Tháng 2/1910 quân Tứ Xuyên đến Lạp Tát, Lạt Ma xuất bôn lần thứ hai, xin Tổng đốc Ấn Độ bảo hộ ; nhà Thanh bèn cách bỏ danh hiệu của Lạt Ma. John N. Jordan kháng nghị, chỉ trích Trung Quốc nhiễu loạn hoà bình tại Tây Tạng, nếu muốn thay đổi chính sách tại nơi này, phải thương lượng với Anh. Bộ ngoại vụ đáp lại rằng quân vào Tây Tạng chỉ làm nhiệm vụ cảnh sát, Trung Quốc không thể vì một người bỏ đi mà thay đổi chính sách tại Tây Tạng.





4. Các nước khuếch trương quyền lợi




Căn cứ điều ước năm Tân Sửu [1901] cần phải cải sửa thương ước. Trước hết đàm phán với nước Anh, đại biểu Anh là James L. Mackay [Mã Khải], chủ trương bỏ thuế ly kim 6 ; phía Trung Quốc có Lữ Hải Hoàn, Thịnh Tuyên Hoài đưa điều kiện tăng thuế đến 15 %. Trải qua 10 tháng hội đàm, vào ngày 5/9/1902 thành lập “Tục đính thông thương hàng thuyền điều ước” nội dung như sau :


- Thứ nhất, thuế nhập khẩu lên đến 12 %, xuất khẩu 7 % ; bỏ thuế ly kim, đợi các nước đồng ý sẽ chinh thu.


- Thứ hai, mở mang hàng hành tại các sông nội địa, thuyền ngoại quốc được ghé 10 chỗ trên sông Châu Giang [Pearl River]. Mở các địa điểm buôn bán tại Huệ Châu [Huizhou] Quảng Đông ; An Khánh [Anqing], Trường Sa [Changsha], Vạn Châu [Wanzhou, Tứ Xuyên] dọc theo sông Trường Giang ; Thẩm Dương [Shanyang, Liêu Ninh], An Đông [Andong, Liêu Ninh], Đại Đông Cấu [Liêu Ninh] thuộc miền đông bắc, và Bắc Kinh. Các thuyền buồm Trung Quốc cũng phải chịu thuế giống như thuyền máy ngoại quốc.


- Giúp cho người nước ngoài được tiện lợi trong việc đầu tư, cho phép người Trung Quốc và ngoại quốc chung cổ phần kinh doanh, lập chương trình chế định tiền tệ, thống nhất đo lường.


Những điểm quan trọng trong thương ước mới là tăng thuế, điều này chỉ tuyên bố trên giấy tờ, nhưng thực chất không đạt được như vậy ; riêng mậu dịch với ngoại quốc tăng gấp 3, số lượng ngoại quốc đầu tư cũng tăng gấp hai.


Trong vòng 57 năm sau Chiến tranh nha phiến [1842-1899] Trung Quốc mở 45 cửa khẩu buôn bán với ngoại quốc ; sau loạn Nghĩa Hoà đoàn [1901-1910] mở thêm 38 nơi. Giai đoạn đầu lập tô giới cho các nước Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nga, Nhật tại Thượng Hải, Quảng Châu, Phúc Châu, Hạ Môn, Thiên Tân, Trấn Giang, Hán Khẩu, Cửu Giang, Yên Đài, Vu Hồ, Trùng Khánh, Hàng Châu, Tô Châu, Sa Thị. Kỳ sau [1901-1902] tại Thiên Tân lập thêm tô giới cho các nước Tỷ Lợi Thì, Nga, Ý, Áo ; tại Cổ Lãng Dự [Gulangyu Island, Phúc Kiến] lập thêm công cộng tô giới ; năm 1904, Nhật Bản lập thêm tô giới tại Trường Sa. Tô giới giống như đất thực dân, có thương điếm, ngân hàng, tập trung công xưởng của các nước.


Người ngoại quốc tại Trung Quốc kinh doanh đường sắt ; trước tiên nước Nga lập tuyến đường sắt Đông Thanh - Nam Mãn tại Đông Tam Tỉnh, hoàn thành năm 1903 ; sau chiến tranh Nga Nhật, năm 1908 Nhật Bản hoàn thành cải sửa lại Nam Mãn thiết lộ. Nước Đức hoàn thành Giao-Tế thiết lộ tại tỉnh Sơn Đông vào năm 1904. Nước Anh hoàn thành Đạo-Thanh thiết lộ [từ Đạo Khẩu đến Thanh Hoá] tại tỉnh Hà Nam vào năm 1907. Pháp hoàn thành Điền-Việt thiết lộ [từ Việt Nam đến Côn Minh] vào năm 1910. Nhật Bản cải tạo hoàn thành An-Phụng thiết lộ tại tỉnh Liêu Đông vào năm 1910.


Ngoài ra còn các đường sắt, mượn tài khoản để xây, nhưng do ngoại quốc khống chế. Như thiết lộ Việt-Hán tại tỉnh Quảng Đông, mượn Mỹ, hoàn thành năm 1904 ; thiết lộ Lô-Hán từ Lô Cấu Kiều đến Hán Khẩu, mượn Tỷ Lợi Thì, hoàn thành năm 1906 ; thiết lộ Quan nội-ngoại từ kinh sư đến Phụng Thiên, mượn Anh, hoàn thành năm 1907 ; Chính-Thái thiết lộ tại tỉnh Sơn Tây, mượn Pháp, hoàn thành năm 1907. Lại mượn từ Anh, xây các thiết lộ : Hỗ-Ninh từ Thượng Hải đến Nam Kinh hoàn thành năm 1908 ; thiết lộ Hỗ-Hàng, từ Thượng Hải đến Hàng Châu, hoàn thành năm 1909 ; thiết lộ Quảng Châu, từ Quảng Châu đến Cửu Long, hoàn thành năm 1911. Ngoài ra thiết lộ Biện-Lạc, từ Khai Phong đến Lạc Dương tỉnh Hà Nam, mượn Tỷ Lợi Thì, hoàn thành năm 1909 ; thiết lộ từ Nam Xương đến Cửu Giang thuộc tỉnh Giang Tây, mượn Nhật, hoàn thành năm 1911 ; thiết lộ từ Cát Lâm đến Trường Xuân, cũng mượn Nhật, hoàn thành năm 1912. Thiết lộ từ Thiên Tân đến Phố Khẩu [Pukou, Giang Tô], mượn tiền Anh, Đức, hoàn thành năm 1912 ; Việt-Hán thiết lộ từ Quảng Châu [Quảng Đông] đến Vũ Xương [Hồ Bắc], mượn tiền từ các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức, từng bộ phận hoàn thành năm 1911. Nói tóm lại các thiết lộ vào cuối triều Thanh, không có thiết lộ nào không nằm trong tay ngoại quốc.


Vào hậu bán thế kỷ thứ 19, thuyền máy các nước Anh, Mỹ, Đức, Pháp, Nga hoạt động tại đại dương, dọc bờ biển, cùng sông ngòi Trung Quốc. Bắt đầu năm 1898, có công ty “Tứ gia Nhật Bản luân thuyền” gia nhập ; năm 1906 lại có công ty “Robert Dollar and Co” của Mỹ. Năm 1907, các công ty Nhật Bản hợp lại thành “Nhật Thanh luân thuyền công ty”, chủ yếu hoạt động tại duyên hải và dọc sông Trường Giang, cùng với 2 công ty “Di hoà” và “Thái cổ” của nước Anh thuộc vào loại lớn mạnh. Tổng kê thuyền máy ngoại quốc tại Trung Quốc chiếm 40 % sự nghiệp hàng hành.


Trước chiến tranh Trung Nhật, có hàng trăm xưởng ngoại quốc thiết lập tại Trung Quốc ; sau điều ước Mã Quan lại kiêm thêm việc khai mỏ khoáng. Công xưởng chủ yếu là nhà máy dệt, khoáng sản quan trọng là mỏ than, gồm 86 xưởng, phần lớn do người Nhật và Anh làm chủ. Về ngành dệt, người Anh có các công ty lớn như “Laokungmow Cotton Spining and Weaving Co.” và “Ewo Cotton Mill”. Năm 1908, Nhật có các công ty “Thượng Hải phương chức chu thức hội xã” và “Nhật tín sa xưởng”. Tổng kê, ngành dệt tại Hoa, hai nước Anh, Nhật chiếm hơn 1/3. Riêng chế tàu thuyền, nước Anh tại Thượng Hải có công ty “Shanghai Dock and Engineering Co.”; năm 1910 Nhật mở công ty “Đông Hoa tạo thuyền chu thức hội xã”.


Các nước Đức, Anh, Nga, Nhật đứng đầu về việc khai thác mỏ khoáng tại Trung Quốc. Nước Đức có đường sắt tại tỉnh Sơn Đông, quy định độc quyền khai thác mỏ than dọc đường sắt trong vòng 30 lý. “Phúc công ty” của nước Anh tiếp tục, độc quyền khai thác than tại đông nam Sơn Tây và phía bắc Hà Nam. Mỏ khoáng lớn nhất tại Khai Bình [Kaiping, Hà Bắc] cũng do người Anh chiếm đoạt. Khoáng sản tại miền đông bắc, lúc đầu do người Nga chiếm, sau chiến tranh Nga Pháp, mỏ khoáng tại Nam Mãn và Yên Đài vào tay người Nhật. Năm 1910 Trung Nhật hợp tác khai mỏ than, sắt tại Bản Khê [Benxi, Liêu Ninh], thiết lập xưởng, thành một trung tâm chế thép lớn của Nhật. Thống kê vào cuối triều Thanh, ngoại quốc đầu tư vào khoáng sản chiếm 8/10 tổng số.


Ngân hàng ngoại quốc, buổi đầu có Đông phương ngân hàng mở tại Hương Cảng năm 1845. Ngân hàng quan trọng nhất mở tại Hương Cảng, Thượng Hải năm 1865 mang tên Hối phong ngân hàng [Hongkong and Shanghai Banking Corporation], trong vòng 20 năm ngân hàng này có chi nhánh khắp các cửa khẩu cùng Bắc Kinh. Nước Nga, được Pháp chi trì, thiết lập Đạo thắng ngân hàng vào năm 1895 ; có chi nhánh tại miền đông bắc, cùng Bắc Kinh, Thiên Tân, Thượng Hải, Hán Khẩu, Hương Cảng. Pháp có Đông phương hối lý ngân hàng, Đức có Đức Hoa ngân hàng ; cà hai đều lập chi nhánh tại Thượng Hải năm 1898. Ngân hàng Nhật Bản Hoành Tân chính kim ngân hàng thiết lập chi nhánh tại Thượng Hải cũng vào năm 1898 ; sau đó có chi nhánh tại miền đông bắc cùng Thiên Tân, Triều Tiên, Đài Loan. Mỹ có Hoa Kỳ ngân hàng [The National City Bank of New York] thiết lập phân hàng tại Thượng Hải năm 1902. Ngoài ra còn có ngân hàng của các nước như Tỷ Lợi Thì, Hà Lan. Chủ yếu nhiệm vụ của ngân hàng ngoại quốc cung cấp xuất khẩu mậu dịch, hối đoái quốc tế, thu hút tồn khoản, phát hành tiền. Ngân hàng lớn tại Trung quốc như Hối phong ngân hàng [Hongkong and Shanghai Banking Corporation] có số tồn khoản vào cuối thế kỷ thứ 19 đạt đến 140 000 000 nguyên, không những cung cấp tiền cho thương nhân Tây phương hoạt động, lại cung ứng cho Thanh triều tiền mượn, khống chế phần lớn các mỏ khoáng ; tiền thu từ hải quan chờ bồi thường cuộc chiến năm Canh Tý [1900], cũng do ngân hàng này bảo quản.


Chương hai

Mưu sống còn
Thanh triều học đòi biến pháp
[1901-1911]


tcd
Trương Chi Đổng [1837-1909]

1. Ngượng mặt biến pháp :


Từ Hy tiêu diệt biến pháp của phái Khang Hữu Vi năm Mậu Tuất [1898] tạo thành mối đại hoạ huỷ diệt quốc gia ; đợi đến khi quân Tây phương tiến vào kinh thành, hoảng hốt chạy trốn, khốn nhục không cùng. Biết rằng số phận của bà tuỳ thuộc vào sự vui buồn của ngoại quốc, bèn xuống chiếu trách tội mình, cầu tiến nhân tài, rồi sau cùng tuyên bố biến pháp để xu mị ngoại quốc. Trương Chi Đổng, người ủng hộ chính quyền Từ Hy, nói “ Biến pháp tất mọi sự khai thông, thương vụ của các nước sẽ mỗi ngày một thịnh… Không biến pháp không thể hoá giải cừu hận ngoại quốc trong lòng dân và cũng không thể biến đổi quan điểm cừu hận triều đình của ngoại quốc ”. Viên Quân cơ đại thần mới nhậm chức Lộc Truyền Lâm là anh em rể Trương Chi Đổng, cùng đương quyền Vinh Lộc, muốn mượn biến pháp để làm sáng tỏ lập trường ; riêng Từ Hy tuyên bố biến pháp thì cũng ngượng miệng, nên vào ngày 1/12/1900 xuống dụ cho các Đại thần, Tổng đốc, Tuần phủ mệnh điều trần về cải cách triều đình, quan lại, trị nước, dân sinh, học hiệu, khoa cử, binh chính. Ngày 21/1/1901, với danh nghĩa vua Quang Tự, chính thức ban bố chiếu biến pháp ; mở đầu “ Mấy chục năm gần đây, tệ trạng nối tiếp, lần lữa che đậy rồi gây thành mối hấn lớn. Hiện đang lúc nghị hoà, mọi việc chính sự cần phải chỉnh đốn… Lấy điều sở trường của ngoại quốc để bổ cứu sở đoản của Trung Quốc. Rút kinh nghiệm về sự sai lầm trước, để làm thầy dạy cho việc sau này ”. Tiếp đến bảo rằng “ Nghịch Khang [Hữu Vi]bàn về tân pháp là loạn pháp chứ không phải là biến pháp… Hoàng thái hậu chẳng bao giờ không nghĩ đến canh tân, Trẫm há chẳng muốn bỏ cũ hay sao ? Nay cung kính thừa theo mệnh Thái hậu, một lòng chấn hưng… ”. Đoạn này nhắm mục đích xoá bỏ tội trạng gây cuộc chính biến Mậu Tuất [1898] của Từ Hy và ngược lại kết tội Khang Hữu Vi. Lại bàn thêm “ Trung quốc suy nhược tại tập quán quá sâu,… lầm lỡ quốc gia tại chữ ‘tư’, gây hoạ cho thiên hạ tại chữ ‘lệ’ ; gần đây học Tây pháp chỉ học ngôn ngữ, văn tự, chế tạo, khí giới mà thôi ; đó chỉ là bề ngoài của Tây học, chứ chưa phải là nguồn gốc. Kẻ trên khoan, người dưới giản, nói là làm, làm thì đúng ; đó là lời di huấn của Thánh xưa, mà cũng là căn bản phú cường của Tây phương ”. Cuối cùng đòi hỏi tâu lên những ý kiến cụ thể.


Đạo dụ đề cập đến những nét chủ yếu về biến pháp, so với “ Khuyến học thiên ” của Trương Chi Đổng không khác bao nhiêu. Trong cuộc biến pháp năm Mậu Tuất, Khang Hữu Vi cùng Quang Tự hợp tác, Khang là người chủ động ; lần này Trương Chi Đổng và Từ Hy hợp tác, người chủ động là Trương. Trương Chi Đổng và Lưu Khôn Nhất đã từng dâng biểu về biến pháp gồm 3 phần : thứ nhất, hưng học bồi dưỡng nhân tài ; thứ hai, bàn về việc chỉnh đốn ; thứ ba, luận về chọn thi hành theo Tây pháp.


Tháng 4/1901, đặt thêm Đốc biện chính vụ xứ, do Vinh Lộc chủ trì, phụ tá có Lộc Truyền Sâm, Cù Hồng Cơ; danh sách gồm Dịch Khuông, Lý Hồng Chương, Côn Cương, Vương Văn Thiều, Lưu Khôn Nhất, Trương Chi Đổng, cùng Viên Thế Khải. Trong đó những nhân vật quan trọng như Lý Hồng Chương mất vào tháng 11/1901, Lưu mất vào tháng 10/1902, Vinh Lộc mất vào tháng 4/1903, kế đó là Dịch Khuông. Còn lại 2 Đốc phủ làm cột trụ là Trương Chi Đổng và Viên Thế Khải ; Trương đã trên 70 tuổi, riêng Viên Thế Khải chỉ hơn 40, sinh lực dồi dào, sẵn sàng nắm giữ địa vị quan trọng của Lý Hồng Chương trước kia.


Bốn mươi năm về trước Tổng thự nắm giữ mọi việc liên quan đến nước ngoài, nhưng thiếu quan chuyên môn ; nay theo lời yêu cầu của ngoại quốc vào tháng 7/1901 cải thành bộ ngoại vụ. Vào tháng 9/1903 lập thương bộ ; tháng 10/1905 lập bộ tuần cảnh, tháng 12 lập bộ học cùng luyện binh xứ. Các nha thự bị triệt bỏ, tại trung ương có Chiêm sự phủ, Thông chính ty ; tại địa phương có Hà Đông hà đạo Tổng đốc, Quảng Đông tào vận Tổng đốc, cùng Tuần phủ Hồ Bắc, Vân Nam.


Lúc cơ quan phụ trách biến pháp, Đốc biện chính vụ xứ mới thành lập, phần lớn trên mặt giấy ban hành những cải cách nhỏ như : năm 1902 cho phép người Mãn, Hán được thông hôn, cấm phụ nữ bó chân vv… Ngoài ra đáng chú ý chính sách mới, có 3 điều sau đây :


- Thứ nhất, thiết lập cảnh sát. Lúc liên quân vào Bắc Kinh, tại vùng chiếm đóng, Nhật Bản dùng người Hoa để bảo vệ an ninh ; Viên Thế Khải theo cách này, thiết lập cảnh sát tại Thiên Tân, Bảo Định, người chủ trì là Triệu Bỉnh Quân. Năm 1902, ban chiếu mệnh cả nước bắt chước thi hành ; điều tốt thì không đủ, nhưng nhũng nhiễu dân thì có thừa.


- Thứ hai, cấm thuốc phiện. Thời Quang Tự mỗi năm nhập hơn 10 vạn gánh, trong nước sản xuất gấp bội, đến 40 vạn gánh ; đa số dân hút thuốc phiện, quan lại, binh lính hầu như ai cũng hút. Tháng 9/1906, chiếu quy định trong 10 năm phải cấm tuyệt. Năm 1908, nước Anh chấp nhận mỗi năm giảm số lượng nhập khẩu từ Ấn Độ 1/10, tại trong nước Trung Quốc cấm trồng. Tháng 2/1909, do lời đề nghị của Tổng thống Mỹ W. H. Taft [Đáp Phu Thoát], mở hội nghị Vạn quốc cấm thuốc phiện tại Thượng Hải, thành tựu cấm thuốc phiện tại Trung Quốc được công nhận.


- Về Lãnh sự tài phán 1, các nước cho rằng pháp luật Trung Quốc không tốt nên không chịu huỷ bỏ. Tháng 3/1902 mệnh Sứ thần tra xét luật lệ các nước, tháng 5 phái Thẩm Gia Bản, Ngũ Đình Phương chủ trì ; Thẩm chuyên về Trung luật, Ngũ chuyên về Tây luật. Cùng năm thương ước giữa Trung Anh, đến năm sau Trung Mỹ, Trung Nhật đều ghi rằng các nước chấp nhận hiệp trợ Trung Quốc chỉnh đốn luật lệ, nguyện triệt tiêu Lãnh sự tài phán. Tháng 4/1905 tuyên bố bỏ hình phạt lăng trì, bêu đầu, mổ thây ; hình phạt chỉ đến chém đầu là cùng. Cơ quan Thẩm phán theo lối mới được thành lập tại Đông Tam Tỉnh, Trực Lệ, Giang Tô, Hồ Bắc ; khiến hành chính và tư pháp dần dần cách ly.

2. Viên Thế Khải cùng Bắc dương tân quân



Trung Quốc lục quân được huấn luyện và dùng súng Tây dương trải qua 30 năm, nhưng chỉ là hình thức ; qua cuộc chiến năm Giáp Ngọ với Nhật, bị vùi xuống tận đất đen. Ngay sau đó có nghị bàn về huấn luyện tân quân, đầu tiên sai viên Diêm chính sở muối Trường Lô Hồ Bỉnh Phân huấn luyện 5 000 quân, đặt tên là Định vũ quân ; lại đem đạo quân thiện chiến của Niếp Sĩ Thành đổi tên là Vũ nghị quân, cả hai đều đóng tại Thiên Tân. Cùng năm Trương Chi Đổng lập Tự cường quân cùng Lục sư học đường tại Giang Tô ; năm sau lại lập Hộ quân doanh và Vũ bị học đường tại Hồ Bắc ; tất cả đều do người Đức huấn luyện. Viên Thế Khải rất đau buồn về việc quân lính hủ bại, nhiều lần dâng thư điều trần ; lại nhân Định vũ quân đã biên chế được một năm, mà hiệu quả không cao, triều đình bèn giao cho Viên Thế Khải phụ trách. Với số quân này, Viên lại mộ thêm hơn 2 000 tân binh, thành lập Tân kiến lục quân ; đạo quân được mô phỏng theo quy chế quân Đức, Nhật, dùng Hàn lâm Từ Thế Xương làm Đốc luyện xứ tham mưu. Dưới quyền có các Sĩ quan tốt nghiệp Bắc dương vũ bị học đường như Đoàn Kỳ Thuỵ, Phùng Ngọc Chương, Vương Sĩ Trân phân nhiệm bộ binh, pháo binh, công trình binh, bọn Tào Côn, Lý Thuần giữ chức Đội quan ; ngoài ra còn có Trương Huân, Nghê Tự Xung xuất thân từ đạo quân Tương, Hoài đến hợp tác ; huấn luyện viên phần lớn là người Đức. Trước kia Hoài quân của Lý Hồng Chương, chia hai bộ phận hành quân và huấn luyện riêng biệt ; nay Tân kiến lục quân của Viên Thế Khải thì quan chỉ huy kiêm cả huấn luyện. Sau chính biến Mậu Tuất [1898] quân Viên lên tới 1 vạn người ; được viên Nghị viên người Anh Charles Beresford [Bối Tư Phúc] quan sát, tỏ ấn tượng tốt ; sau đó đạo quân này cải thành Vũ vệ hữu quân. Trong biến loạn Nghĩa hoà đoàn, Vũ vệ quân bị tiêu diệt, chỉ riêng Hữu quân điều đến Sơn Đông thì không những an toàn mà lại biên chế thêm được 20 doanh, quân số 20 000 ; Tự cường quân cũng giao cho Viên Thế Khải huấn luyện tiết chế.


Sau hoà ước Tân Sửu [1901], chiếu mệnh khuyếch trương quân Bắc Dương, Hồ Bắc vũ bị học đường, cùng các doanh do Viên phụ trách. Lại tuyển lựa quân từ Lục dõng, Phòng dõng để biên chế thành những doanh thuộc Thường bị quân, Hậu bị quân, cùng Tuần cảnh doanh [Hiến binh]. Thường bị quân mỗi trấn hơn 1 vạn, vì chưa đủ số nên vẫn tiếp tục tuyển mộ. Năm 1902, Viên thiết lập quân chính ty, bộ thuộc được cải tên là Thường bị quân, đặt 3 bộ phận : binh bị, tham mưu, giáo luyện, do Vương Thế Trân, Đoàn Kỳ Thuỵ, Phùng Ngọc Chương đảm trách, trước tiên biên chế thành 2 trấn. Chiếu mệnh các tỉnh phía bắc như Hà Nam, Sơn Đông, Sơn Tây ; các tỉnh phía nam như Giang Tô, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam tuyển chọn các tướng biền đến Bắc Dương, hoặc Hồ Bắc học đường học tập ; học thành trở về tỉnh làm việc, mỗi năm các trường vũ bị lại phái người đến tỉnh duyệt binh. Trương Chi Đổng là thư sinh, không rành việc quân lữ, chỉ bàn việc binh trên mặt giấy. Riêng Viên Thế Khải trải qua việc binh từ lâu, tự biết có địa vị hôm nay là nhờ dưới tay có đạo quân tinh luyện ; Bắc dương là nơi quốc phòng trọng yếu, trung ương đem hết sức ra chi trì, nên uy thế mạnh hơn Trương nhiều.


Năm 1903, Viên kiêm giữ chức Tổng binh nơi kinh kỳ, Thiết Lương làm Hội biện. Khi trung ương lập Luyện binh xứ, các tỉnh lập Đốc biện công sở ; Dịch Khuông giữ chức Tổng lý Luyện binh xứ, Viên Thế Khải làm Hội biện, Thiết Lương làm Tương biện, Từ Thế Xương giữ chức Đề điệu ; Lưu Vĩnh Khánh, Đoàn Kỳ Thuỵ, Vương Thế Trân giữ chức Quân chính, Quân lệnh, Quân học tại 3 ty. Năm 1904, Bắc Dương thành lập xong 3 trấn, 1 trong 3 trấn đóng tại kinh kỳ. Mỗi trấn gồm 15 000 chia làm 2 hiệp 2 bộ binh, mỗi hiệp có 2 tiêu ; 1 tiêu kỵ binh và 1 tiêu pháo binh ; công binh và vận tải mỗi thứ 1 doanh. Năm 1905, định tân quân cho mỗi tỉnh, gọi là lục quân ; tháng 9 diễn tập tân quân Bắc Dương tại Hà Gian [Hejian, Hà Bắc], năm 1906 lại cử hành tại Chương Đức 3 tỉnh Hà Nam. Lúc bấy giờ có 6 trấn Bắc Dương, Hồ Bắc 1 trấn, Giang Tô 1 trấn ; tháng 11 bộ lục quân thành lập, Thiết Lương giữ chức Thượng thư. Đến năm 1911, tân quân toàn quốc có 16 trấn, riêng 6 trấn Bắc Dương trang bị và huấn luyện khá tinh. Viên Thế Khải giữ chức Tổng đốc Trực Lệ, nắm quân Bắc Dương ; tuy chức tước không bằng Lý Hồng Chương trước kia, nhưng thực lực vượt quá.


Về giáo dục quân sự, ngoài việc huấn luyện trong quân doanh, năm 1902 Viên cho mở Bảo Định hành doanh tướng biền học đường. Năm 1903 mở Vũ bị tiểu học, Lục quân tốc thành học đường. Năm 1906 đổi Lục quân tốc thành học đường thành Bảo Định quân quan học đường, là cơ cấu giáo dục tối cao. Ngoài ra các tỉnh cũng đặt Vũ bị học đường và số người sang Nhật Bản học cũng không ít. Cho đến năm 1910, số tốt nghiệp trường vũ bị từ các nguồn hơn 670 người ; thời cuối Thanh và đầu Dân quốc, các tướng lãnh quan trọng xuất thân từ Bắc Dương vũ bị học đường, Bảo Định quan quân học đường, hoặc từ Nhật Bản; trong đó số tham gia cách mệnh cũng không ít.

3. Trương Chi Đổng và tân giáo dục


Trước đó chính phủ thiết lập học đường theo kiểu Tây phương không nhiều ; phạm vi lại hẹp, chỉ hạn trong vấn đề ngữ văn, kỹ nghệ, quân sự. Rồi viên quan lớn như Trương Chi Đổng rất nhiệt tâm hưng học, đặc biệt lúc làm Tổng đốc Lưỡng Hồ đã thiết lập Lưỡng Hồ thư viện 4 với 6 bộ môn : kinh học, lý học, sử học, toán học, văn học, kinh tế. Năm 1893 lại lập Tự cường học đường, chia ra 4 môn : phương ngôn, cách trí, toán học, thương vụ. Sau chiến tranh Trung Nhật, tâu xin mở rộng học đường ; sáng lập Trử tài học đường tại Nam Kinh, chia làm 4 bộ môn : giao thiệp, công nghệ, nông chính, thương vụ. Kế đó lập nông vụ, công nghệ học đường tại Hồ Bắc, các phủ đều lập học đường. Vào năm 1895, Thịnh Tuyên Hoài thiết lập tại Thiên Tân Trung Tây học đường, gồm 2 bậc đầu đẳng và nhị đẳng ; đầu đẳng tương đương với đại học, nhị đẳng tương đương với trung học. Năm sau lập Nam Dương công học tại Thượng Hải, chia làm thượng, trung, ngoại ; tương đương với đại học, trung học, tiểu học. Ngoài việc giáo dục, Trương Chi Đổng lập nhiều công trình vũ bị, công nghiệp tại tỉnh Hồ bắc, tạo cơ sở giúp cho cách mệnh Tân Hợi thành công trong tương lai, khiến Tôn Trung Sơn có lời bình về Trương như sau : “ Trương Chi Đổng là nhà đại cách mệnh, nhưng chưa từng nói về cách mệnh ”.


Trong tờ tâu về biến pháp của Trương Chi Đổng và Lưu Khôn Nhất, tại mục 1 Hưng học dục tài, có 4 việc : lập học đường, cải khoa cử, đình chỉ khoa thi võ, tưởng thưởng du học. Vào tháng 6/1901 chiếu mệnh bắt đầu từ năm sau thi Hương và thi Hội dùng luận sách, không dùng văn Bát cổ 5 và đình chỉ khoa thi võ. Tháng 9 đổi thư viện các tỉnh thành học đường, chia đặt các học đường đại học, trung học, tiểu học, mông dưỡng tại các tỉnh, phủ, châu, huyện ; phàm do học đường khảo thí tốt nghiệp hợp cách, được cấp bằng Cống sinh, Cử nhân, hoặc Tiến sĩ. Năm 1902, ban hành chương trình học. Năm sau Trương Chi Đổng, Viên Thế Khải cho rằng khoa cử làm trở ngại việc học, tâu xin giảm khoa cử. Bèn sai Trương Chi Đổng cùng viên quản lý đại học tại kinh sư Trương Bách Hy định lại chương trình, phần lớn theo cách của Nhật Bản. Tháng 2/1904 ban bố chương trình, 2 năm sau giảm các kỳ thi trúng ngạch thi Hương, trúng ngạch thi tại tỉnh; đợi khi cải cách thành hiệu sẽ đình chỉ khoa cử.


Sau chiến tranh Trung Nhật, phong trào cách mệnh lên cao ; bọn Viên Thế Khải, Trương Chi Đổng báo động tình hình khẩn cấp, xin bỏ khoa cử, mở mang học đường để thu nhân tài và cũng là cách ngăn cản mầm bạo động. Ngày 2/9/1905 dụ tuyên bố kể từ năm sau bỏ thi Hương và thi Hội ; vào tháng 3 lập bộ học, định tôn chỉ giáo dục gồm : trung quân, tôn Khổng, thượng công, thượng vũ, thượng thực ; lấy cổ học trung quân, tôn Khổng để bảo vệ chế độ làm thể [căn bản] ; dùng công chính, vũ bị, thực dụng của Tây phương làm dụng [phương tiện]. Cao đẳng giáo dục trực thuộc bộ học, trung đẳng trở xuống thuộc tỉnh, huyện. Ngoài trường công, còn có tư nhân mở trường, thịnh hành tại các tỉnh Giang Tô, Hồ Nam. Năm 1898, Nghiêm Tu thiết lập tư thục tại Thiên Tân, mời Trương Bá Linh xuất thân từ Bắc Dương thuỷ sư học đường chủ trì, năm 1911 cải thành Nam Khai trung học, đến năm 1919 trở thành Nam Khai đại học.


Sau chính biến năm Mậu Tuất, đại học tại kinh sư may mắn tồn tại, năm 1902 khôi phục, thiết lập khoa dự bị và khoa tốc thành ; dự bị khoa chia thành chính khoa, nghệ khoa ; tốc thành khoa chia ra các quán : sĩ học, sư phạm, dịch học. Học sinh lấy từ các trường cao đẳng tại tỉnh, cùng các Giám sinh, Cống sinh, Cử nhân. Thiên Tân Trung Tây học đường, năm 1903 đổi thành Bắc Dương đại học, người Mỹ Chores D. Tenneg [Đinh Lập] giữ chức Hiệu trưởng. Thượng Hải Nam Dương công học thượng viện (Đại học) do người Mỹ John D. Ferguson [Phúc Khai Sâm] làm Giám viện. Sơn Tây đại học thành lập năm 1902, do người Anh Mair Duncan [Đôn Sùng Lễ] làm Tổng giáo tập. Các tỉnh đều thiết lập trường cao đẳng, tương đương với đại học dự bị.


Vào khoảng năm 1909, số sinh viên tại kinh sư khoảng 800 người, số sinh viên tốt nghiệp tốc thành khoảng trên 100 ; nói về chất lượng thì không bằng đại học giáo hội Thượng Hải Saint John's University. Số học sinh cao đẳng toàn quốc khoảng hơn 4 000, học sinh chuyên môn khoảng 20 000, học sinh phổ thông trung học khoảng hơn 40 000, thực nghiệp sư phạm khoảng 40 000, học sinh tiểu học khoảng 1 500 000. Về số lượng Tứ Xuyên, Trực Lệ đứng đầu ; dưới là Giang Tô, Hồ Bắc, Hồ Nam.


Bốn năm trước đó số học sinh toàn quốc các cấp chỉ có 150 000, như vậy tỷ lệ gia tăng không ít ; nhưng về chất lượng giáo dục và thiết bị thì rất yếu kém. Các Giáo sư đại học, cao đẳng, hoặc chuyên nghiệp 25 % khoa cử xuất thân, 30 % lưu học Nhật Bản, 10 % người Nhật. Tại trung đẳng học đường, số Giáo sư khoa cử xuất thân 33 %, tiểu học 45 %. Cái gọi là Giáo sư hợp cách, chỉ được huấn luyện sư phạm trong một thời gian ngắn. Năm 1906 định chương trình học cho nữ sinh, hạn về ngành sư phạm và tiểu học ; tại Thiên Tân, Viên Thế Khải lập Bắc Dương nữ tử sư phạm học đường, là trường chuyên môn đầu tiên cho phái nữ lúc bấy giờ.


Sau khi hô hào biến pháp, số học sinh lưu học nước ngoài thêm thịnh ; đặc biệt tại Nhật Bản. Trương Chi Đổng hết sức cổ võ lưu học ngoại quốc, cho rằng xuất dương 1 năm hơn ngồi đọc sách Tây phương chục năm ; 1 năm du học hơn 3 năm học trong nước. Lại cho rằng lưu học Tây dương không bằng Nhật Bản ; vì phí tổn ít, chữ viết dễ hiểu, lại phong tục tương tự, dễ bắt chước để thi hành. Lưu học Nhật Bản bắt đầu vào năm 1896, chỉ hơn 10 người. Sau đó Công sứ Nhật Bản Thỉ Dã Văn Hùng khuyên Tổng thự đem 200 học sinh du học, nước Nhật nguyện giúp đỡ. Vào năm 1899, các tỉnh Hồ Bắc, Chiết Giang, cùng Nam Bắc Dương phái tổng số 54 người sang Nhật. Năm 1903, tại Đông Kinh, Nhật Bản lập riêng trường dạy học sinh Trung Quốc. Năm 1905 số du học sinh đạt đến ngàn người, có cả nữ sinh. Năm sau số học sinh lên đến gần 1 vạn. Các học sinh đã nhập học, 60 % học sư phạm và cấp tốc chính trị, 30 % học khoa học phổ thông, 3 % học cao đẳng và chuyên môn, 1 % học đại học. Công sứ Trung Quốc tại Nhật trách rằng học sinh tham gia cách mệnh, nên mấy lần sinh sự, yêu cầu nghiêm định chương trình ; nên sau đó số học sinh giảm bớt nhiều.


Học sinh lưu học Tây phương, xét về số lượng thua xa Nhật Bản. Từ năm 1880, sau khi số học sinh lưu học Mỹ quốc bị gọi về, chỉ còn một ít quan quân học hải quân tại Anh, Pháp và số học sinh tự túc, cùng giáo hội gửi đi. Đến năm 1896, Tổng thự gửi đến học tại các nước Anh, Pháp, Đức, Nga, mỗi nơi 4 người. Năm 1903, Giang Nam và Bắc Kinh đại học mỗi nơi phái 16 người đến Mỹ, Đức ; Hồ Bắc phái 40 người đến các nước Mỹ, Tỷ Lợi Thì, Đức, Nga. Năm 1904, chuẩn cho mỗi tỉnh gửi đi từ 10 đến 40 người. Năm 1909, dùng ngân khoản gửi sang Mỹ mỗi năm 60 lưu học sinh ; lập Du học dĩnh nghiệp quán tại vườn Thanh Hoa phía tây Bắc Kinh, năm 1911 đổi tên thành Thanh Hoa học đường.


Việc cải cách giáo dục tuy chưa gặt hái hiệu quả trong thời gian ngắn, nhưng cũng mang ý nghĩa thời đại. Truyền thống giáo dục tư gia trong 2000 năm, chế độ khoa cử hàng ngàn năm, trên 500 năm khảo thí theo lối văn bát cổ đều bị thủ tiêu. Từ nay trở về sau môn loại và nội dung khoa học mỗi ngày một khuếch trương, mở mang rất nhiều quan niệm, tăng tiến tư tưởng ái quốc, giúp nhận định hiện trạng cần phải cải tạo, nhân đó hâm mộ cách mệnh hoặc lập hiến. Điều này nhà đương cục chủ trương giáo dục mới không muốn chút nào, chỉ do họ liệu tính không kịp với sự chuyển biến thời đại mà thôi.



4. Khó khăn trong việc phát triển thực nghiệp


Cứu nghèo đói phải nhờ thực nghiệp, trước đây với các chính sách để quan lo, rồi đến quan và dân cùng lo tỏ ra không hữu hiệu. Năm 1897, mệnh quan góp cổ phần vào ; năm 1898 định chương trình tưởng thưởng chấn hưng công nghệ. Kế đó trong vòng 5 năm, số xưởng và mỏ khoáng mới lập được 80 đơn vị, so với mấy chục năm về trước gia tăng gấp bội ; phần lớn là xưởng dệt, Nam Thông đại sinh sa xưởng của Trương Kiển nằm trong đó.


Tổng đốc Trương Chi Đổng, Lưu Khôn Nhất ra sức tâu rằng ngoài thương nghiệp, các nước Tây phương giàu mạnh nhờ công nghiệp, do đó triều đình cũng tỏ ra lưu ý. Năm 1901, mệnh các tỉnh lập học đường về công nghệ, nông vụ, định chương trình về mỏ khoáng. Năm 1903, chế định thương luật, trù hoạch công ty nông vụ, công nghệ, khoáng sản. Lập bộ thương nắm thương vụ, công nghệ, đường sá, điện, nông tang, ngân hàng vvv… Năm 1906 bộ thương cải tổ thành bộ nông công thương và bưu điện ; kế đó năm 1907, lập “Hoa thương biện lý thực nghiệp tước thưởng chương trình” quy định ban thưởng tước cho các chủ xí nghiệp tuỳ theo vốn đầu tư, đại để vốn từ 20 vạn đến 100 vạn được làm Nghị viên của bộ này, vốn từ 1 600 vạn đến 2 000 vạn được ban tước tử 6.


Các xí nghiệp kinh doanh của tư nhân ; riêng về ngành dệt từ năm 1900 đến 1905 không có xí nghiệp mới. Sau đó 5 năm, gia tăng 11 xưởng, phần lớn tại các thành phố duyên hải, khiến sản lượng tăng gấp đôi ; như xưởng Nam Thông đại sinh sa phát triển rất nhanh, tiền vốn từ 50 vạn lượng tăng đến 200 vạn lượng. Về xí nghiệp làm mì, phát triển tại lưu vực sông Trường Giang, có hơn 10 xưởng. Ngành xi măng có các hãng đứng đầu như Khải tân dương hôi công ty [1907] tại Thiên Tân, xưởng Sĩ mẫn thổ [1906] tại Quảng Châu [Guangzhou, Quảng Đông], Thuỷ nê xưởng [1907] tại Hồ Bắc. Ngoài ra còn có các xưởng thuốc lá, đồ gốm, làm giấy, chế trà, pha lê vv…


Về công nghiệp nặng, Trung Quốc tự tạo đường sắt từ Bắc Kinh đến Trương Gia Khẩu [Zhangjiakou, Hà Bắc ] do Công trình sư Chiêm Thiên Hữu thực hiện, hoàn thành năm 1908. Từ năm 1896-1900, có vài công ty tự chế thuyền máy, phần nhiều hoạt động trong sông. Năm 1906 trở về sau có hàng chục công ty đóng thuyền máy, tuy nhiên chỉ có vài công ty có số vốn trên 100 vạn, thống kê về trọng tải so với trước tăng gấp hai.


Kể từ 1902-1911, Trung Quốc tự lập xưởng, khai mỏ khoáng, có đến 300 cơ sở ; số tiền đầu tư hơn 7 000 vạn lượng (ngoại trừ công nghiệp quân sự). Nếu so sánh với thời gian từ 1870-1900, thì số lượng cơ sở tăng thêm 2 lần, còn tiền đầu tư tăng 1 lần. Năm 1905-1910 là thời gian đầu tư mạnh nhất, tiền vốn cho công nghiệp nhỏ khoảng 25 %, khai mỏ khoáng chiếm 18 %. Công xưởng phần lớn tại hạ lưu sông Trường Giang, thứ đến Trực Lệ, Sơn Đông ; nhưng tuyệt đối không thể cạnh tranh với ngoại quốc.


Sản xuất về nông nghiệp không cải tiến chút nào, sản phẩm ngoại quốc nhập cảng gia tăng không ngừng. Các nông dân tự canh và địa chủ nếu có it thực phẩm dư thừa thì cũng chỉ qua tiểu thương trao đổi trong địa phương. Đối ngoại mậu dịch, từ năm 1900-1911, trung bình mỗi năm nhập siêu hơn 100 000 000 lượng. Các loại tạp thuế, quyên góp,làm cho nông thôn phá sản mau.


Với cơ cấu tiền tệ tài chánh cũ, không thể cạnh tranh với ngân hàng kiểu mới ; nên sau khi Trung Quốc và nước ngoài thông thương, bị ngân hàng ngoại quốc áp đảo làm chủ. Qua vài thử thách, năm 1904, định chương trình ngân hàng, quan thương cùng đầu tư. Năm 1905 lập ngân hàng bộ hộ, năm 1908 đổi tên Đại Thanh ngân hàng, với số vốn tăng đến 1 000 vạn lượng. Cho đến năm 1911, có đến 12 ngân hàng của người Trung Quốc, chủ yếu phát hành tiền giấy, vay và cho vay, không chú trọng về đầu tư công nghiệp ; dân chúng cũng không thích gửi tiền vào Trung quốc tự biện ngân hàng.



Chương ba

Cách mệnh và lập hiến đối chọi
[1901-1911]


lks
Lương Khải Siêu [1873-1929]
Nguồn : Wikipedia

1. Cao trào ái quốc bài Mãn


Sau chiến bại Nhật năm Giáp Ngọ [1894], cuộc vận động về thay đổi chính trị dấy lên ; khởi nghĩa chống Mãn Thanh của Tôn Trung Sơn bắt đầu, biến pháp duy tân của Khang Hữu Vi từ đó cũng chuyển biến. Tháng 12/1898 Lương Khải Siêu tại Hoành Tân, Nhật Bản sáng lập Thanh Nghị báo chỉ trích Từ Hy, đề cao Quang Tự ; sau đó biên dịch sách Tây phương. Lúc này Lương cũng qua lại trao đổi với Tôn Trung Sơn ; cùng Tôn luận đàm sảng khoái, cho rằng “ Gần đây các nước hưng thịnh, không thể không có giai đoạn phá hoại trước đó ” rồi hô hào “ chủ nghĩa phá hoại là việc bất đắc dĩ ”. Cái gọi là phá hoại tức cuộc cách mệnh chống Mãn Thanh, đề cao dân quyền tự do. Rồi nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc, gọi triều đình Thanh là “ nghịch đảng ”, “ chính phủ nguỵ ” ; ngôn luận của Lương so với những lời trước đó giống như hai người, kịch liệt không thua gì người trong đảng cách mệnh.

Sau khi Thanh Nghị báo đình bản, tháng 2/1902 Lương xuất bản Tân dân tùng báo, ra sức tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc, dân quyền ; cho rằng Trung Quốc mất vào tay dân tộc khác vì thiếu tư tưởng quốc gia. Hô hào triệt để tiêu diệt chính quyền chuyên chế, cách mệnh là con đường độc nhất vô nhị cứu Trung Quốc. Cùng năm lại sáng lập Tân tiểu thuyết báo, chuyên cổ suý cách mệnh.

Thanh nghị báo mỗi số phát hành được mấy ngàn bản, riêng Tân dân tùng báo đến hơn 1 vạn bản ; cho dù triều đình Thanh cấm, vẫn được tìm cách vận chuyển, lưu hành trong và ngoài nước ; tuy do bút lực của Lương gây nhiều cảm tình, nhưng điều quan trọng là Lương nói được điều dân muốn nói, thích hợp nhu cầu của nhân dân. Hoàng Tông Hiến ca tụng nghị luận của Lương “ Kinh tâm động hồn, một chữ ngàn vàng, không ai có bút lực như vậy, nhưng lòng của mọi người thì vẫn nằm trong đó ; tuy người cứng như sắt đá cũng cảm động. Từ trước tới nay, mãnh lực của văn tự, đạt được đến như vậy là cùng ”. Nghiêm Phục cũng khen “ Là tiếng nói tiên phong của Á châu trong thế kỷ thứ hai mươi ”.

Vào khoảng năm 1900, số lưu học sinh Trung Quốc tại Nhật hơn 100, đều là những người có chí lớn, tổ chức Lệ chí hội, phát hành Dịch thư hối biên, giới thiệu Tây phương cách mệnh và lịch sử. Năm 1901, những tổ chức Quốc dân báoQuảng Đông độc lập hiệp hội, chủ trương bài Mãn đều được Tôn Trung Sơn chi trì ; sau đó số học sinh tăng thêm. Năm 1902 lại xuất bản Du học dịch biên, tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cùng quốc dân giáo dục, thành lập lưu học sinh hội quán. Tháng 4, Chương Bỉnh Lân [1869-1936] tại Đông Kinh cử hành Hội kỷ niệm 242 năm Trung Hạ mất nước, hoài niệm nhà Minh mất, số tham dự 100 người. Tháng 7, Cử nhân Ngô Kính Hằng [1865-1953] giận viên Công sứ Thái Quân không bảo lãnh cho học sinh tự phí học trường Lục quân học hiệu, bèn đến Sứ quán chống đối, bị cảnh sát Nhật áp giải xuất cảnh, nên không ít học sinh bỏ lớp đòi về nước để phản đối. Năm 1903 hơn 1 000 học sinh họp tân niên, diễn thuyết phản Mãn phục Hán, toàn hội trường khích động. Hội đồng hương các tỉnh ra các tập san như Hồ Bắc học sinh giớiChiết Giang triềuGiang TôTân Hồ Nam. Học sinh người Hồ Nam, Trần Thiên Hoa [1875-1905], trước tác Mãnh hồi đầuKinh thế chung, nói rõ chỉ có cách mệnh giành độc lập, lật đổ Mãn Thanh mới có thể cứu nước.

Trào lưu cách mệnh trong nước mạnh nhất tại Thượng Hải, phần lớn là du học sinh từ Nhật Bản trở về. Năm 1901 Tập Dực Huy, người từng tham gia phong trào triệu tập quốc hội của Đường Tài Thường, phát hành Đại lục nguyệt san, tuyên truyền bài Mãn. Năm 1902 Hàn lâm xuất thân Thái Nguyên Bồi [1868-1940] cùng Chương Bỉnh Lân, Hoàng Tông Ngưỡng tổ chức Trung Quốc giáo dục hội giúp cho học sinh công lập Nam Dương thành lập Ái quốc học xã, phát hành tạp chí Học sinh thế giới, đàm luận nhiều về cách mệnh. Năm 1803 Trâu Dung [1885-1905] một học sinh quê tại Tứ Xuyên từ Nhật Bản trở về Thượng Hải phát hành Cách mệnh quân, kịch liệt như Mãnh hồi đầu của Trần Thiên Hoa. Tiếp đến vào các tháng 6,7, Tô báo đăng tải các bài ủng hộ như Cách mệnh quân tự, Độc Cách mệnh quân, Giới thiệu Cách mệnh quân, cùng những bài chống Mãn Thanh của Chương Bỉnh Lân, gọi Quang Tự là thằng hề vô tri. Thanh đương cục yêu cầu bắt Chương Bỉnh Lân, Trâu Dung ; cùng cấm chỉ Quốc dân nhật báoĐãng Lỗ tùng thư,Tự do huyếtNữ giới chungNữ tử thế giới.

Năm 1903 Hoàng Hưng [1874-1916], Trần Thiên Hoa, Tống Giáo Nhân thành lập Hoa hưng hội tại Hồ Nam ; Thái Nguyên Bồi, Từ Tích Lân, Cung Ngọc Thuyên, Đào Thành Chương thành lập Quang phục hội, phần lớn các thanh niên và hội đảng gia nhập. Năm 1904 học sinh tại Hồ Bắc cùng thanh niên quân nhân bọn Lưu Trinh thành lập Khoa học bổ tập sở, cùng tương thông với Hoa hưng hội. Năm này Hoa hưng hội kế hoạch nổi dậy tại Hồ Nam ; được Khoa học bổ tập sở, Quang phục hội, học sinh tại Chiết Giang và Ca Lão hội chuẩn bị hưởng ứng, nhưng bị tiết lộ nên thất bại. Năm 1905, một thanh niên tỉnh Hồ Bắc Vương Hán mưu giết viên Khâm sai tại Chương Đức [Hà Nam], thanh niên tỉnh An Huy Ngô Việt mưu tạc đạn 5 viên Đại thần tại Bắc Kinh trên đường ra nước ngoài khảo sát, việc không thành đều tuẫn nạn.

Mục đích của cách mệnh không chỉ lật đổ triều đình nhà Thanh, đối ngoại còn muốn đề kháng xâm lược. Việc trước là nhân của việc sau, do bởi Thanh triều hủ bại, không có sức bảo vệ chủ quyền quốc gia, khiến liệt cường hung bạo, tước đoạt gia tăng không ngừng, chỉ còn cách là tự cứu mình. Phần tử trí thức hiểu được như vậy, không ít dân chúng cùng đồng cảm. Điều ước Tân Sửu vừa mới ký kết, tháng 11/1901 tại phía nam tỉnh Trực Lệ xẩy ra việc chống đối bồi thường cho giáo dân, với khẩu hiệu “ Tảo Thanh diệt Dương ” 1, lan tràn đến các tỉnh Sơn Đông, Hà Nam, kéo dài trong vòng nửa năm. Từ năm 1902-1905, tại Quảng Tây các hội đảng dấy lên, thế lực lan ra đến khắp tỉnh, liên kết với Hưng trung hội ; Tổng đốc Lưỡng Quảng Sầm Xuân Huyên phải đốc quân hai lần, đánh dẹp trong vòng 5 tỉnh, thấy được tình hình trầm trọng.

Mấy năm trong giai đoạn này, quân Nga càng tỏ ra bất nghĩa, lửa giận trong dân chúng lại dấy lên. Năm 1902, kẻ sĩ ái quốc tại Thượng Hải phát hành báo Nga sự cảnh văn để báo động người trong nước. Trần Thiên Hoa hô hào các giới hợp lực chống quân Tây dương xâm lược, cải sửa điều ước, khôi phục chính quyền, khiến Trung Quốc được hoàn toàn độc lập. Hoàng Hưng lãnh đạo lưu học sinh tại Nhật Bản tổ chức “ Cự Nga nghĩa dõng hội ”, phái đại biểu về nước vận động ; học sinh Bắc Kinh, Hồ Bắc nổi lên hưởng ứng. Cùng năm các thân sĩ thương gia gốc Quảng Tây lưu ngụ tại Thượng Hải, giận viên nguyên Tuần phủ Quảng Tây Vương Chi Xuân mượn quân Pháp tại Việt Nam bình loạn, bèn liên hợp với các tỉnh chống Pháp. Năm sau thanh niên người tỉnh An Huy, Vạn Phúc Hoa, dùng súng bắn Vương Chi Xuân tại Thượng Hải, nhưng bị bắt tự xưng rằng “ Cầu nhân được nhân, ta chết đúng chỗ ”. Cùng năm, tại Vân Nam Chu Vân Tường tổ chức “ Bảo Điền hội ” 2, phản đối Pháp xây thiết lộ tại Vân Nam, người theo có đến hàng vạn. Năm 1905, Trần Thiên Hoa phản đối người Nhật ràng buộc lưu học sinh bèn nhảy xuống biển tự tử, để lại lá thư tuyệt mệnh bi tráng, do đó toàn thể lưu học sinh Trung Quốc cùng bãi khoá, lại nhân người Hoa bị kỳ thị, dẫn đến việc chống Mỹ.

Người Hoa đến Mỹ với số lớn vào năm 1849. Vào thập niên năm 1860, Mỹ xây đường sắt qua phía tây, cần lao động cực nhọc lương rẻ, chỉ có người Hoa mới chịu đựng được, chẳng bao lâu nhân số tăng lên hơn 10 vạn, khiến người Mỹ tăng kỳ thị. Năm 1882, Mỹ chủ trương hạn chế công nhân người Hoa. Năm 1885 tại các tiểu bang Wyoming [Hoài Nga Minh châu], California [Gia châu] xẩy ra những vụ cướp, đốt, giết người Hoa, số người chết đến vài chục người. Năm 1894, Trung Mỹ lập Hạn chế Hoa công điều ước kỳ hạn 10 năm. Tháng 12/1904 Trung Quốc tuyên bố việc cấm chỉ đã chấm dứt, nhưng Mỹ không chịu. Tháng 5/1905 thương nhân và thân sĩ Thượng Hải phản đối việc tái ký kết Hạn chế Hoa công điều ước, yêu cầu nước Mỹ trong 2 tháng cải lương việc bài Hoa, công bình đối xử với Hoa kiều ; nếu không sẽ trả đủa bằng cách không dùng hàng hoá Mỹ, không đi thuyền Mỹ, không giao thiệp buôn bán, thông dịch, không vào học trường Mỹ. Những nơi hưởng ứng đầu tiên như Quảng Đông, Phúc Kiến, các bang hội tại Thượng Hải ; bắt đầu từ ngày 18/7 các công nhân, thương nhân, học sinh tại hầu hết các thành thị trong nước đều phản đối. Nước Mỹ mấy lần kháng nghị, phái thêm quân hạm ; các quốc gia Âu châu vu rằng đây là bài ngoại, giống như phong trào chống Tây phương trước năm Canh Tý [1900]. Qua triều đình nhà Thanh và quan lại địa phương mở lời cấm chỉ, hơn một năm sau mới thực sự dừng. Nước Mỹ mậu dịch tại Hoa bị giảm 40 %, sản lượng công nghiệp Trung Quốc được đề cao, đầu tư cho xưởng và mỏ khoáng tăng thêm 2 lần. Từ đó việc chế ngự ngoại hoá trở thành công cụ chống lại sự áp chế của ngoại quốc.

Cuộc vận động thu hồi chủ quyền, là một lãnh vực khác của lòng ái quốc. Từ năm 1898 trở về sau, đường sắt và khoáng sản tại Trung Quốc cơ hồ vào trong tay ngoại quốc, đáng được thu hồi. Năm 1904, Trương Chi Đổng cho rằng Mỹ vi phạm điều ước, yêu cầu đem nguyên điều ước phế bỏ. Thân sĩ dân chúng tại 3 tỉnh Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc tranh đấu mạnh, dư luận trong nước ủng hộ, lưu học sinh tại Nhật tổ chức Tương, Việt, Ngạc [Hồ Nam, Quảng Đông, Hồ Bắc] tam tỉnh thiết lộ liên hiệp hội, học sinh lưu học tại Mỹ Vương Sủng Huệ dẫn chứng pháp lý vạch ra rằng chính phủ Mỹ không có quyền can dự. Chính phủ Mỹ nhận thấy dân chúng 3 tỉnh ngang ngạnh, lại nhân lúc bài xích hàng hoá Mỹ, nên tỏ ra hoà hoãn ; cuối cùng phế bỏ điều ước vào năm 1905. Từ đó không những tiếp tục triển khai vận động thu hồi thiết lộ mà còn thu hồi mỏ khoáng.

Các nước kinh doanh khoáng sản suốt cả lưu vực sông Hoàng Hà, Trường Giang, cùng các miền đông bắc, tây nam. Năm 1903, các tỉnh bắt đầu tự liệu biện ; 1904 khởi đầu đòi thu hồi khoáng quyền. Năm 1905 đã có sự thu hồi tại Chiết Giang, Phúc Kiến ; riêng cuộc vận động thu hồi khoáng quyền của Phúc công ty nước Anh tại Sơn Tây trở nên kịch liệt. Thân sĩ cùng học sinh đại học Sơn Tây, cùng các học đường văn võ biểu thị quyết tâm ; lưu học sinh tại Nhật Bản cũng quyết không chịu nhường. Năm 1906, Lý Bồi Nhân, một lưu học sinh cũng vì việc này nhảy xuống biển tự tử. Tư tưởng bài Mãn Thanh dâng cao, thanh niên đã đến lúc không tiếc đến sinh mệnh, cơ cấu lãnh đạo cách mệnh ứng theo thời vận mà xuất hiện.



2. Lực lượng cách mệnh đoàn kết dưới sự lãnh đạo Đồng minh hội của Tôn Trung Sơn



Vào khoảng năm 1900 thanh uy phái Bảo hoàng còn thịnh, Lương Khải Siêu không những chiếm ưu thế tại Honolulu [Mỹ], nơi phát xuất Hưng trung hội, lại xưng hùng trên văn đàn ; ngoài tài văn chương, Lương cũng hô hào cách mệnh. Thanh niên tại Thượng Hải, Nhật Bản chịu ảnh hưởng của Lương, nhưng cũng tỏ ra khâm phục người đề xướng cách mệnh Tôn Trung Sơn. Tôn tự thuật rằng vào năm 1895, cách mệnh lần đầu tiên thất bại “ Dư luận trong nước ai cũng cho bọn chúng tôi là loạn thần tặc tử, đại nghịch bất đạo, lời nguyền rủa nghe đầy tai ; bọn chúng tôi đến chỗ nào, phàm biết được đều cho là độc hại như rắn, mãnh thú, không dám giao du. Nhưng sau cuộc thất bại năm Canh Tý [1900], thì ít nghe những lời chỉ trích, những kẻ sĩ hiểu biết phần đông than tiếc, hận sự việc trước không thành. Quan điểm trước sau khác nhau như trời với vực, bọn chúng tôi được an ủi nhiều, biết rằng sự mê mộng của người trong nước đã đến lúc tỉnh ngộ ”. Từ đó lưu học sinh tại Nhật tự động đến tiếp xúc với cách mệnh, tại Honolulu trước kia có Binh học hội ; năm 1903 thiết lập Quân sự học hiệu tại Đông Kinh [Nhật] ngoài lời thề “ Khu trừ Thát Lỗ, khôi phục Trung Hoa ” còn thêm “ sáng lập dân quốc, bình quân địa quyền ” ; bao hàm dân tộc, dân quyền, dân sinh chủ nghĩa trong đó. Với lập trường như vậy, Hưng trung hội khẩn cấp tuyên truyền, để quần chúng phân biệt rõ cách mệnh với bảo hoàng, không còn lẫn lộn. Mùa thu năm đó, Tôn Trung Sơn tại Honolulu, viết văn và diễn thuyết, bác lập luận “ Danh là bảo hoàng, thực chất là cách mệnh ” của Lương Khải Siêu ; khẳng định cách mệnh và bảo hoàng là hai con đường khác nhau ; Hán, Mãn quyết không tương dung, Hồng môn [Thiên địa hội] nên theo cách mệnh, Hán tộc có tiền đồ. Mùa xuân năm 1904 đến San Francisco [Cựu Kim Sơn] lại đặt thêm chương trình cho phù hợp với tôn chỉ cách mệnh, và phát biểu “ Giải quyết vấn đề Trung Quốc ” thuyết minh cho nhân sĩ Âu Mỹ rằng chính phủ Mãn Thanh không phải đại biểu của nhân dân Trung Quốc, dân Trung Quốc không thù ngoại bang, Trung Quốc có thể cách tân tiến bộ, thế giới cộng hưởng thái bình.

Năm 1903, học sinh phái đến châu Âu, trong đó có một số thành phần bài Mãn. Mùa xuân năm 1905, Tôn Trung Sơn được mời đến gặp tại các nơi như Bá Linh, Ba Lê ; trong đó có hơn 70 người nguyện tham gia cách mệnh. Lưu học sinh tại Nhật, tuy không đồng tổ chức, nhưng tâm tình bài Mãn Thanh nồng nhiệt như lửa ; những người từng tại trong nước khởi nghĩa như Hoàng Hưng, Tống Giáo Nhân, Trương Kế rất khát vọng Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Vào tháng 7 năm đó, Tôn trở lại Đông Kinh, được hoan nghênh nhiệt liệt. Tôn bảo Trung Quốc không nên sợ các nước âm mưu chia cắt, chỉ sợ tự mình không đoàn kết ; nếu như các tỉnh hiệu triệu khởi nghĩa riêng, cục diện biến thành phân tranh, ngoại quốc thừa cơ can thiệp, Trung Quốc ắt mất. Rồi thương thảo tổ chức “ Đồng minh hội ”, ngày 20/8 thành lập, cử Tôn làm Tổng lý ; hơn 300 đại biểu tham gia, bao quát Hưng trung hội của Tôn Trung Sơn, Hoa hưng hội của nhóm Tống Giáo Nhân và Hoàng Hưng ; Ái quốc học xã tại Thượng Hải của Chương Bỉnh Lân, Thái Nguyên Bồi, Ngô Kính Hằng ; Thanh niên hội của Trương Kế, và Quang phục hội, Nhật tri hội. Thời kỳ Hưng trung hội, chủ yếu hội viên tại Quảng Đông ; nay Đồng minh hội bao gồm nhân sĩ toàn quốc. Năm 1906 Đồng minh hội quy định phương lược cách mệnh, tổ chức Quân chính, cùng Trung Hoa dân quốc quốc hiệu. Tại tuyên ngôn Quân chính phủ xác định cách mệnh ngày hôm nay với cách mệnh trước kia không giống nhau ; ngoài việc đánh đuổi Thát Lỗ khôi phục Trung Hoa còn có nhiệm vụ cải biến thành nước dân chủ. Tinh thần nhất quán là tự do, bình đẳng, bác ái ; trước đây là anh hùng cách mệnh, ngày nay là quốc dân cách mệnh. Chính cương của việc trị nước gồm : thứ nhất đánh sụp chính phủ Mãn Thanh, khoan dung các quân Mãn, Hán ; thứ hai khôi phục Trung Hoa, trả chính quyền cho người Hán ; thứ ba kiến lập dân quốc, do cách mệnh bình dân kiến lập quốc dân chính phủ, quốc dân có quyền tham chính, chế định hiến pháp ; thứ tư bình quân đất đai, cải lương xã hội. Chia làm 3 giai đoạn thi thố : kỳ thứ nhất, quân pháp trị trong vòng 3 năm, sau khi phá xong địch, quân chính phủ tổng nhiếp hành chánh địa phương, tảo trừ mọi tệ đoan chính trị xã hội ; kỳ thứ hai, ước pháp trị trong vòng 6 năm, giao quyền tự trị địa phương cho nhân dân, quyền của quân chính và nhân dân do ước pháp quy định ; kỳ thứ ba, do hiến pháp trị, quân chính phủ giải trừ quân sự hành chánh quyền, tổ chức quốc hội, chính trị do hiến pháp thi hành.

Đồng minh hội thành lập là kỷ nguyên mới của cách mệnh, các đoàn thể trước kia chưa từng liên lạc với nhau nay hợp làm một, ý chí của thanh niên do đó tập trung, cùng chung mục tiêu phấn đấu. Nội dung cương lãnh, bài Mãn và kiến lập quốc gia dân tộc, là yêu cầu chung của cộng đồng ; lật đổ chuyên chế, người trong nước bình đẳng cùng kiến lập “ quốc gia xã hội ” càng cổ vũ nhân dân. Tôn Trung Sơn được các nhà ái quốc công nhận là lãnh tụ, chưa đến 1 năm hội viên lên đến hơn vạn người, “ Học giới, công giới, thương giới, quân giới, hội đảng không ai là không hướng về cùng một chủ nghĩa, mọi người cùng ra sức ”. “ Từ đó phong trào cách mệnh ngày ngày tăng cao, tiến bộ nhanh ngoài ý liệu ”, Tôn “ tự tin sự nghiệp cách mệnh có thể thành tựu trong cuộc đời ” của ông.

Thời đại Hưng trung hội, đảng cách mệnh tại Hương Cảng, Honolulu, San Francisco đều có báo chí, nhưng ảnh hưởng không mấy mạnh mẽ. Sau khi Đồng minh hội thành lập, dùng Dân báoNguyệt san làm cơ quan ngôn luận. Số đầu tiên xuất bản vào tháng 11/1805, Tôn Trung Sơn soạn lời nói đầu chính thức nêu lên 3 đại chủ nghĩa : dân tộc, dân quyền, dân sinh làm nguyên tắc cơ bản xây dựng nước. Trước hết Tôn đề xuất lịch sử tây phương chứng minh 3 nguyên tắc lần lượt diễn tiến, trước hết là dân tộc, dân quyền, rồi đến dân sinh chủ nghĩa vào thế kỷ thứ hai mươi. RiêngTrung Quốc bị dị tộc dày xéo, ngoại quốc xâm bức, ngàn năm chuyên chế độc hại nên dân tộc và dân quyền phải ưu tiên. Dân tộc chủ nghĩa lúc bấy giờ không phải đơn thuần bài Mãn, còn kiêm cả đối ngoại, tuy nhiên mang tính thoả hiệp, như thừa nhận những điều ước, ý muốn giảm thiểu áp lực. Vấn đề kinh tế cũng cần sớm giải quyết, bởi vậy đồng thời cũng đề cập dân sinh chủ nghĩa.

Ngoài 2 tờ báo nêu trên, học sinh du học tại Nhật còn lập thêm hàng chục báo, tập san như : Vân Nam, Tứ Xuyên, Động Đình ba, Hà Nam, Hạ thanh, Tấn thanh  sách chuyên đề có hơn trăm loại ; trong nước xuất bản sách báo về các đề tài chống Mãn Thanh, cổ suý cách mệnh, phản kháng liệt cường, cũng không thiếu.



3. Thắng lợi về tư tưởng chiến



Bốn năm kể từ năm 1899, là thời kỳ Lương Khải Siêu đứng đầu chốn văn đàn ; ảnh hưởng lớn không ai địch nổi. Từ năm 1903 tư tưởng Lương chuyển biến, vào tháng 2 năm đó Lương đến châu Mỹ, vẫn tin rằng “ Trung Quốc vạn lần không thể không cách mệnh ; bỏ cách mệnh đi, không có cách nào khác ” ; nhưng chỉ vài tháng sau hốt nhiên tuyên bố “ Không dám nói đến cách mệnh nữa ! ”. Tháng 11, trong phần mở đầu tập san ông viết nội dung không những không bàn đến việc bài Mãn, cách mệnh ; còn bài xích cả cộng hoà. Cứ theo lời ông giải thích sau đó với lập luận như sau : thứ nhất, vì thấy rằng học sinh bị tư tưởng cách mệnh tuyên truyền trở nên náo loạn, nên không muốn thanh niên bị lầm lỡ vì thuyết phá hoại ; thứ hai, tự do bình đẳng lưu tệ vô cùng, khiến trật tự bị phá ; quốc gia nhân dân đã bị khổ cực, một khi mối loạn xẩy ra, người ngoài lợi dụng cướp đoạt có thể đi đến mất nước. Những điều nghe thấy tại Mỹ như việc dùng thủ đoạn trong tuyển cử, kết quả không chọn được người tài năng, cũng một phần ảnh hưởng, khiến Lương cho rằng cộng hoà không bằng lập hiến. Trong bụng Lương “ Tính bảo thủ hoặc tiến thủ tuỳ lúc giao tranh, tuỳ cảm tình biểu lộ, bởi vậy lập trường trước sau có phần mâu thuẫn ” rồi đi đến chỗ chống đối cách mệnh.

Đối tượng phái bảo hoàng và cách mệnh tranh thủ phần lớn là lưu học sinh cùng Hoa kiều. Năm 1903 hội bảo hoàng chiếm ưu thế, Khang Hữu Vi tại Nam Dương hoạt động có hiệu quả. Cũng vào cuối năm đó tình hình biến đổi, trong và ngoài nước hướng về cách mệnh ngày một đông, nếu như cách mệnh thành, địa vị của Lương sẽ mất thế trọng yếu. Lúc này Lương đang tại Mỹ quyên mộ tiền để hoạt động, nhưng việc Quang Tự trở lại ngôi thì không có khả năng, vậy nếu không nói về cách mệnh thì “ có danh mục gì để nói ! ”. Lương bàn đến cách mệnh có đổ máu và không đổ máu “ Phá hoại không đổ máu như trường hợp Nhật Bản, có đổ máu như nước Pháp ; Trung Quốc làm được phá hoại không đổ máu, ta đốt hương lên cầu khẩn ; Trung Quốc như không thể tránh cách mệnh đổ máu, ta lấy thế làm đau ! ”. Có thể thấy Lương hy vọng một cuộc cách mệnh không đổ máu, tức lập hiến.

Cuộc chiến về tư tưởng giữa cách mệnh và bảo hoàng bắt đầu từ năm 1903 tại Thượng Hải và Honolulu, rồi lan đến San Francisco, Hương Cảng, Singapore. Sau năm 1905, Dân báo của phe cách mệnh, và Tân dân tùng báo của Lương đối chọi, bút chiến. Khi Dân báo phát hành số đầu, thì tư tưởng Lương đã chuyển biến được 2 năm ; trong số này ngoài lời nói đầu của Tôn Trung Sơn và 4 thiên chuyên văn về dân tộc, dân quyền, phần còn lại tập trung đả kích Tân dân tùng báo. Cuộc tranh luận triển khai từ đó, những cây bút tham gia Dân báo như Uông Triệu Minh [Tinh Vệ], Hồ Hán Dân, Trần Thiên Hoa, Chu Chấp Tín, Lưu Sư Bồi, Chương Bỉnh Lân ; Uông, Hồ văn chương lưu lợi có mãnh lực, riêng Tân dân tùng báo chỉ một mình Lương ứng chiến ; trọng tâm tranh luận gồm :

– Thứ nhất về vấn đề cách mệnh. Tân dân tùng báo cho rằng cách mệnh tất sinh nội loạn, nội loạn sẽ bị liệt cường can thiệp dẫn đến qua phân 3 ; cần tìm cách cải lương chính phủ hiện tại, thi hành quân chủ lập hiến. Dân báo cho rằng cách mệnh là vấn đề nội chính, không bài ngoại ; tình thế quốc tế hiện tại không dẫn đến qua phân Trung Quốc, nếu nước ngoài có can thiệp cũng không đáng sợ, càng tăng lòng căm thù địch. Chính phủ hiện tại không thể cải lương, chỉ có cách là lật đổ.

– Thứ hai về vấn đề bài Mãn. Tân dân tùng báo cho rằng hiện tại người Hán còn thiếu năng lực lập quốc vả lại vẫn được bình đẳng với Mãn về chính trị và pháp luật, cần dung hợp các tộc trong nước thành một dân tộc để chống với các dân tộc ngoại lai ; nếu kiên trì bài ngoại tức ôm chủ nghĩa phục cừu bạo động. Dân báo cho rằng bài Mãn tức bài trừ chính phủ Mãn tộc ác liệt, khi chính phủ này sụp đổ thì các dân tộc sẽ dung hợp ; bài Mãn lập chính phủ mới là điều tiên quyết, hy vọng Mãn châu lập hiến là điều không có khả năng.

– Thứ ba về vấn đề nhân quyền. Tân dân tùng báo cho rằng Trung Quốc không thể thi hành cộng hoà, ngay cả quân chủ lập hiến hiện nay cũng chưa nên thi hành, vì tư cách của người trong nước chưa đủ, điều kiện chưa hoàn bị, miễn cưỡng thi hành sẽ đi đến chỗ mất nước, chỉ nên thi hành Khai minh chuyên chế 4 trong vòng mười năm. Dân báo viện dẫn học thuyết Thiên phú nhân quyền 5, cho rằng nhân dân có sẵn tư cách cộng hoà quốc dân, quốc dân năng lực ; tự do bình đẳng là công cụ của loài người, Trung Quốc cũng không nằm ngoại lệ. Một khi cách mệnh thực hiện, nhân dân làm chủ chính phủ, người trong nước sẽ được bồi dưỡng thực hành dân chủ chính trị.

– Thứ tư vấn đề đất đai. Tân dân tùng báo cho rằng so với Tây phương thì tại Trung Quốc ruộng đất bị địa chủ chiếm đoạt không quá nhiều ; nếu vấn đề cải cách đất đai thi hành lúc cách mệnh mới nổi lên, bọn du đãng vô lại sẽ thừa cơ chiếm đoạt tài sản người giàu, đất nước trở nên đại loạn ; nếu như thi hành sau cách mệnh thì tệ nạn cũng nhiều, vậy nên giải quyết vấn đề tư bản trước rồi mới bàn đến ruộng đất “ Đệ nhất nghĩa dùng chính sách tưởng lệ tư bản, đệ nhị nghĩa bảo hộ kẻ lao động ”. Dân báo cho rằng cách mệnh mang phúc lợi cho đa số dân nghèo ; nếu như so sánh tại Mỹ ruộng đất do thiểu số làm chủ, tư bản cũng vậy, giàu nghèo chênh lệch quá xa “ Muốn giải quyết vấn đề xã hội, trước đó phải giải quyết vấn đề ruộng đất, giải quyết ruộng đất không ngoài việc quốc hữu hoá ruộng đất, khiến ruộng đất không vào tay một ít người ”. Đất đai cả nước đưa vào quốc hữu, như vậy tư bản quốc gia đưa vào quốc hữu, dùng quốc gia làm đại tư bản, từ đó sinh sản ra.

Hai báo tranh luận, biểu hiện cuộc đấu tranh giữa hai phái cách mệnh và bảo hoàng. Trải qua nửa năm, Lương cảm thấy không dễ chống chọi, bèn nhờ sự trợ giúp của Từ Phật Tô tại Thượng Hải. Tháng 7/1906 báo Tân dân tùng báo đăng bài của Từ nhan đề “ Thư khuyến cáo đình chỉ lập luận bài bác ”, nhưng Dân báo không chấp thuận.

Cuộc tranh luận kéo dài đến 2 năm, đến tháng 8/1907 Tân dân tùng báo đình bản, riêng Dân báo vẫn tiếp tục tiến công, đến tháng 10/1908 bị cảnh sát Nhật đóng cửa. Tân dân tùng báo ở vào thế kém, Dân báo đứng vào thế thượng phong ; do Tân dân chỉ có một mình Lương Khải Siêu chống chọi, riêng Dân báo thì lực lượng hùng hậu, học thức không thua gì Lương. Lại cần phải nói thêm lập trường của phe cách mệnh nhất quán, riêng Lương Khải Siêu thì đi hàng hai, vừa chủ trương bảo hoàng, lại hướng Thanh triều yêu cầu cải cách, có lúc đưa những lời ai oán như “ Chính phủ như vậy, không thể không mất nước, nếu đợi mất, thì hãy tự nguyện mất đi ! ” Riêng Tôn Trung Sơn bảo rằng “ Đồng minh hội thành lập, phong trào cách mệnh một ngày đi ngàn dặm, tiến bộ nhanh ngoài ý liệu ”. Tuy rằng thời đại và nhân tâm khiến như vậy, nhưng công của Dân báo không thể quên được.



4. Dự bị quân chủ lập hiến



Sau thập niên 1880, quân chủ lập hiến được đề xướng rồi dần dần phong trào trở nên rầm rộ bởi biến pháp của Khang Hữu Vi, bắt chước chế độ tại Nhật Bản mở nghị viện, thi hành quân dân hợp trị. Năm 1904, người thuộc phái duy tân là Trương Tái từng đông du Nhật Bản, khuyên Tổng đốc Trương Chi Đổng tâu về lập hiến. Lại cho in cả “ Nhật Bản hiến pháp ” gửi lên triều đình, cùng soạn tác phẩm như “ Nhật Bản hiến pháp nghĩa giải ”, “ Nghị hội sử ”. Viên Sứ thần tại Pháp, Tôn Bảo Kỳ, cũng xin định hiến pháp và pháp luật ; các báo tại Thượng Hải cùng hưởng ứng. Có người nêu chiến tranh Nga Nhật làm bằng chứng, cho rằng Nga là nước lớn châu Âu “ bị Nhật làm khốn, thuyết về chủng tộc mạnh yếu do đó bị phá ; dân da vàng chúng ta cũng có thể tự phấn chấn được ”. Quân dân Nhật Bản một lòng, do bởi lập hiến ; lập hiến giúp cho cường thịnh và nội bộ không ngờ vực lẫn nhau. Thậm chí Từ Hy xem Nhật Bản hiến pháp do bọn Trương Tái dâng lên, cũng nói “ Nhật Bản có hiến pháp, đối với quốc gia thật tốt ”.

Nguyên nhân chính khiến tập đoàn Mãn Thanh phải quay sang lập hiến do bởi phong trào bài Mãn dâng cao. Mãn, Hán không hoà mục hiện rõ nét tại vận động duy tân, tất cả những người chủ trương duy tân đều là Hán, phần lớn những người chống đều thuộc Mãn. Sau cuộc chính biến năm 1898, những người bị tru lục đều là Hán, nhất thời người Mãn bài Hán cực thịnh. Tháng 6/1904, với danh nghĩa mừng thọ Từ Hy 70 tuổi, tuyên chiếu ngoại trừ Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Văn “ kỳ dư những người bị án trong vụ Mậu Tuất [1898] đều được miễn tội cũ, để tự đổi mới ” nhắm xoa dịu thời cuộc.

Khi việc thắng bại giữa Nhật, Nga đã rõ, không khí cách mệnh bài Mãn dương cao. Lương Khải Siêu cho rằng quân chủ lập hiến là phương thuốc hiệu nghiệm nhắm cứu quốc, cường quốc. Trương Tái cũng cho rằng cách mệnh rất thịnh, sợ sinh đại loạn, khiến ngoại quốc can thiệp, “ lập hiến có thể yên trên, bảo toàn dưới ” ; bèn hướng Viên Thế Khải trình bày lập hiến không thể hoãn được “ Không đổi chính thể, chỉ bổ cứu chi tiết, thực vô ích… Nhật, Nga thắng thua là lập hiến và chuyên chế thắng thua vậy ”. Trương hy vọng biến Viên thành một Y Đằng Bác Văn Trung Quốc, hoàn thành hiến pháp.

Ngày 2/7/1905 Viên và Trương Chi Đổng cùng Tổng đốc Lưỡng Giang Chu Phức tấu xin sau 12 năm sẽ chính thức lập hiến. Từ Hy cho rằng bà đã ngoài 70 tuổi, thì chuyện 12 năm sau không phải là điều lo của bà ; nếu chống lại thì cũng khó giữ mạng sống, vì mấy năm gần đó Khang Hữu Vi đã tìm cách cho người ám sát. Ngày 16/7, chiếu sai 5 viên Đại thần xuất dương khảo sát ; bọn Trấn quốc công Tái Trạch 3 người, đến Nhật Bản, Anh, Pháp, Tỷ Lợi Thì ; bọn Đoan Phương 2 người đến Mỹ, Đức, Ý, Áo. Lúc sắp lâm hành bị thanh niên cách mệnh Ngô Việt hành thích, tuy việc không thành nhưng cũng chứng tỏ lập hiến không có lợi cho cách mệnh, chỉ có lợi cho Mãn Thanh. Vào tháng 11, Từ Hy tiến thêm một bước mệnh Đốc biện chính vụ xứ [cơ quan được thiết lập năm 1901 để thi hành tân chính] trù tính tổng quát, lập Khảo sát chính trị quán, biên soạn sách chuyên thư cho phù hợp với thể chế Trung Quốc.

Tháng 12, năm viên Đại thần lại khởi hành, trước tiên đến Đông Kinh, Nhật Bản. Hùng Hy Linh, tuỳ viên của Đoan Phương nhiều lần tiếp xúc với Lương Khải Siêu. Lương và Dương Độ giúp bọn họ soạn thảo Khảo sát báo cáo và tấu thư, kiến nghị trong vòng 5 năm cải biến sang chính thể lập hiến. Sau đó phái đoàn tiếp tục đến Mỹ và Âu Châu, đến tháng 8/1906 thì trở về nước. Viên Thế Khải đầu tiên xin thực hành ; trước hết các quan tại kinh đô cùng thương gia, thân sĩ tham dự chính vụ địa phương. Tái Trạch cho rằng lập hiến giúp cho quân quyền vững chắc, mối hoạ từ bên ngoài bớt đi, nội loạn yên dần ; hiến pháp phỏng theo Nhật Bản, thực nghiệp phỏng Nhật Bản và Đức. Ngày 1/9 ban dụ bàn định quan chế, mở rộng giáo dục, thanh lý tài chính, chỉnh đốn vũ bị, mở rộng tuần cảnh, để dự bị cơ sở lập hiến ; đợi vài năm sau tái xét tình hình, định kỳ hạn thực hành. Đó là nội dung cái gọi là Dự bị lập hiến chiếu, ngoài mưu đồ khiến dân “ nhìn rừng mai cho đỡ khát ” 6, còn có tác dụng trong việc vãn hồi trật tự, giảm thiểu chống đối.

Bọn Đại thần Tái Trạch tại Nhật Bản dâng bản tâu cho rằng chính thể lập hiến lợi cho vua, cho dân ; riêng bất tiện cho quan. Lúc trở về trình bày việc tất nhiên phải cải cách quan chế, nếu không thì tình trạng phiên trấn đời Đường, quân phiệt tại Nhật Bản sẽ xuất hiện ngày nay. Trong mấy chục năm nay, triều Thanh rất kỵ việc để cho địa phương quyền lớn, lợi dụng lập hiến để cải định quan chế, ngăn bớt Tổng đốc, Tuần phủ người Hán, tập quyền trung ương ; Viên Thế Khải là một trong những mục tiêu bị loại. Bài Viên là những người Mãn cùng Viên tham gia hội nghị biên định quan chế, như Tái Trạch, cùng Quân cơ đại thấn Thiết Lương, Vinh Khánh. Viên không có thành kiến về Hán, Mãn ; tuy nhiên bọn Tái Trạch sợ như lời Lương Khải Siêu tiên đoán rằng lập hiến sẽ làm cho uy thế người Hán tăng cao. Nguyên tắc dự định cải quan chế, muốn thu quyền quân sự, tài chánh của Tổng đốc, Tuần phủ trở về triều đình ; trong hội nghị Viên Thế Khải cùng Thiết Lương xung đột, Ngôn quan 7 cũng cho rằng chế độ quan lại không thể bành trướng, cần thay đổi dần dần. Chủ trì tổng quát là Dịch Khuông bèn dùng biện pháp trì hoãn, chỉ bàn trước về quan chế tại trung ương. Ngày 6/11 ban bố : Nội các, Quân cơ xứ, Ngoại vụ bộ, Lại bộ, Học bộ y như cũ ; Tuần cảnh bộ cải thành Dân chính bộ, Hộ bộ cải thành Độ chi bộ ; Thái thường, Quang lộc, Hồng lô tự nhập Lễ bộ ; Binh bộ cải thành Lục quân bộ, cho Luyện binh xứ, Thái bốc tự nhập vào, riêng Hải quân bộ, Quân tư phủ trong khi chưa kịp lập tạm quy vào Lục quân bộ ; Hình bộ cải thành Pháp bộ ; Đại lý tự cải thành Đại lý viện ; Lý phiên viện cải thành Lý phiên bộ. Trừ bộ Ngoại vụ, các bộ đặt 1 Thượng thư, 2 Thị lang, không phân biệt Mãn Hán. Đứng đầu các bộ mới đặt có 7 người Mãn, 4 Hán, 1 Mông Cổ, 1 Hán quân 8.



5. Hành động của cách mệnh và lập hiến



Đảng cách mệnh lúc nào cũng chuẩn bị hành động, sau khi Đồng minh hội thành lập lại càng thêm tích cực. Ngô Việt dùng tạc đạn mưu giết 5 viên Đại thần chuẩn bị ra nước ngoài khảo sát chính trị, khiến nhân tâm chấn động mạnh. Tôn Trung Sơn đến Nam Dương trù hoạch, sai người đến các vùng hạ lưu sông Trường Giang, Lưỡng Quảng, Tứ Xuyên, Vân Nam để liên lạc vận động học sinh, hội đảng ; đặc biệt chú ý đến tân quân 9. Năm 1905, lưu vực sông Trường Giang tao động ; hoặc chống giáo dân, chống quyên góp, hoặc dành lương. Các đảng viên Đồng minh hội như Lưu Đạo Nhất, Thái Thiệu Nam liên lạc với học sinh tỉnh Hồ Nam, vận động các hội đảng, công nhân mỏ khoáng, khởi sự vào ngày 4/12/1906 tại Bình Hương [Pingxiang], Vạn Tái [Wanzai] thuộc phía tây tỉnh Giang Tây, và Ly Lăng [Liling], Lưu Dương [Liuyang] phía đông Hồ Nam, thực lực đến mấy vạn, lưu học sinh tại Đông Kinh tranh nhau về nước tham gia. Bọn Triệu Thanh, Nghê Ánh Điển thuộc tân quân trấn thứ 9, tại Giang Tô chuẩn bị theo, nhưng chưa kịp cử sự. Lãnh tụ cuộc nổi dậy là Cung Xuân Thai tự xưng “ Đô đốc Trung Hoa dân quốc quân, Nam quân cách mệnh tiên phong đội ”, yết thị chính cương của Đồng minh hội, tuyên bố nhận mệnh của Trung Hoa dân quốc chính phủ “ kiến lập cộng hoà dân quốc, quyền đất đai của dân bình đẳng ”. Cuộc phấn đấu kéo dài hơn một tháng thì thất bại, bọn Lưu Đạo Nhất bị giết tại Trường Sa [Changsha, Hồ Nam], Triệu Thanh thuộc tân quân bị cách chức. Cơ sở đảng thuộc các tỉnh lưu vực sông Trường Giang bị phá huỷ, nhưng thanh vọng của Đồng minh hội tăng cao.

Sau tháng 2/1907 dân biến dấy lên tại các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy ; tình thế có lợi cho đảng cách mệnh, đây là năm cách mệnh cử sự nhiều nhất. Tháng 6, Đồng minh hội liên tục phát động tại Triều Châu [Chaozhou, Quảng Đông], đều bị thất bại. Từ Tích Lân thuộc Quang phục hội cùng Thu Cấn Đồng minh hội chia nhau hoạt động tại An Khánh [Anqing], tỉnh An Huy, cùng Thiệu Hưng [Shaoxing], Chiết Giang, nhắm huấn luyện học sinh, liên hợp các hội đảng. Tháng 7, Từ Tích Lân cử sự tại An Khánh, giết viên Tuần phủ người Mãn, Ân Minh ; sau bị bắt rồi giết. Tại Thiệu Hưng, việc tiết lộ, Thu Cấn cũng bị bắt rồi bị giết. Thu Cấn là nữ đảng viên đầu tiên hy sinh, nàng người Chiết Giang, năm 1904 từng xuất dương sang Nhật 2 năm. Vụ án phát giác, khiến viên Tổng đốc Lưỡng Giang Đoan Phương sợ hãi thốt lên “ Từ nay trở về sau bọn ta sẽ không có một ngày yên gối ” ; nhân vụ án Thu Cấn, Tuần phủ Chiết Giang và Tri phủ Thiệu Hưng bị dư luận chỉ trích ; hành động của cách mệnh làm quan lại nhà Thanh khiếp sợ và khích động lòng dân chúng công phẫn.

Vào năm 1905 Tôn Trung Sơn liên lạc với người Pháp ; tháng 3/1907 Tôn đến Hà Nội, Việt Nam, tìm cách tiếp xúc với dân châu Khâm [Qinzhou] tại biên giới, tổ chức “ Vạn nhân hội ”, hô hào chống quyên góp. Tổng đốc Lưỡng Quảng Chu Phức sai tân quân đến đánh dẹp ; Tôn một mặt sai Hoàng Hưng vận động tân quân kết hợp với thân sĩ đoàn luyện, một mặt mua khí giới của Nhật để nhờ quan quân Pháp tại Việt Nam giúp luyện binh, mưu một lần dấy lên có thể thu phục Lưỡng Quảng. Vào tháng 9 nổi dậy tại châu Khâm, do tân quân chần chờ nhìn ngó nên đi đến thất bại. Tôn lại chiêu tập đoàn dõng tại Quảng Tây, vào tháng 11 chiếm pháo đài tại trấn Nam Quan ; Tôn cùng Hoàng Hưng, Hồ Hán Dân đích thân đến đốc quân, ra sức chiến đấu trong 7 ngày đêm. Vào đầu năm 1908, Tôn không tiện trú lâu tại Việt Nam, bèn di chuyển sang Tân Gia Ba ; mệnh Hoàng Hưng tiếp tục mưu đồ tại các châu Khâm, Liêm, Hoàng Minh Đường kinh dinh Vân Nam. Tháng 3 Hoàng Hưng vào châu Khâm, tháng 4 đánh bại quân Thanh, rồi chuyển sang hoạt động tại vùng giáp giới hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, đến tháng 5 rút về Việt Nam. Cuối tháng 4 Hoàng Minh Đường chiếm thành phố Hà Khẩu [Hekou] thuộc tỉnh Vân Nam, chống cự trên 20 ngày. Tháng 11 viên đội tân quân Hùng Thành Cơ nỗi dậy tại An Khánh [Anqing, An Huy], hơn 200 người chết.

Trong vòng hơn một năm, quân cách mệnh càng bị đánh càng dấy lên ; ra sức đả kích lập hiến của Mãn Thanh. Hội bảo hoàng theo con đường khác, sau khi Chiếu dự bị lập hiến ban bố, Lương Khải Siêu tỏ ra lạc quan, cho rằng “ từ đây chính trị cách mệnh tiến đến một giai đoạn ”. Đến lúc triều đình sửa quy chế quan lại, các đồng chí tỏ ra thất vọng, Lương bảo rằng không nên hy vọng triều Thanh tiến quá xa, hãy tự mình làm lấy. Cho rằng tên Hội bảo hoàng quá hẹp, cần phải tổ chức thành chính đảng, đốc thúc chính phủ tái cải cách. Những người được nghe việc này có Dương Độ, Tưởng Trí Do, Hùng Hy Linh, Từ Phật Tô ; ngoài ra còn ngầm liên lạc với Viên Thế Khải, Đoan Phương, Triệu Nhĩ Tốn. Khang Hữu Vi tạm không nêu tên, nhưng Khang đã ra tay trước, vào tháng 10/1906 tuyên bố đổi Hội bảo hoàng thành “ Quốc dân hiến chính hội ”. Lương bèn lập riêng một hội lấy tên là “ Chính văn xã ”, muốn chiêu tập hào kiệt Trung Quốc, thống nhất lực lượng, phỏng theo Đồng minh hội của Tôn Trung Sơn. Lương không muốn Khang tham gia, vì số người chống đối Khang quá nhiều, sợ chính phủ Thanh và đảng cách mệnh dựa vào đó vùi dập Chính văn xã. Trịnh Thọ Tư, Trương Tái, Thang Thọ Tiềm tại Thượng Hải cũng vui mừng về việc triều Thanh dự bị lập hiến, vào tháng 12 thành lập “ Dự bị lập hiến công hội ”. Lương Khải Siêu mong muốn Dương Độ tham gia Chính văn xã, nhưng Dương không chịu đứng dưới người, vào tháng 5/1907 tự lập “ Hiến chính công hội ” tại Đông Kinh.

Triều đình nhà Thanh chấn động bởi việc Tuần phủ An Huy bị giết, vào tháng 7 ban chiếu hỏi các nơi về phương cách lập hiến, cùng trình tự thi hành. Viên Thế Khải tâu rằng cần làm rõ đại tín, lập nội các chế, thiết Tư chính viện, đặt Tư nghị cục tại các tỉnh, dự trù Nghị sự hội. Tháng 9 tuyên bố đặt Tư chính viện, tháng 10 lập Tư nghị cục, dự trù Nghị sự hội ; phái lập hiến lại cho rằng cơ hội đã đến. Ngày 17/10 Chính văn xã thành lập tại Đông Kinh, tuyên ngôn muốn cứu quốc phải cải tạo chính phủ, muốn cải tạo chính phủ cần thành lập chính trị lập hiến ; “ Hành động một cách có trật tự, theo yêu cầu chính đáng. Đối với Hoàng thất tuyệt đối không có tâm địa can phạm sự tôn nghiêm, đối với quốc gia không có hành động quấy nhiễu trị an ”. Bọn họ mưu hoà hợp với Túc thân vương Thiện Kỳ, cùng dâng thư phỏng vấn Tổng tài Tư chính viện Nhật Bản Phổ Luân ; lại liên lạc Viên Thế Khải, tìm cách lôi kéo Viên cùng Sầm Xuân Huyên, kẻ tình địch chính trị của Khánh thân vương Dịch Khuông. Riêng Từ Hy vẫn không quên mối hận với Khang, Lương. Cũng vào năm này, thân sĩ tỉnh Hồ Nam, Chiết Giang xin lập nghị viện do dân tuyển, học sinh khai hội diễn thuyết ; bèn xuống chiếu cấm chỉ. Hoạt dộng của phái lập hiến gặp kết quả tương phản.

Chính văn xã mới thành lập, khiếm khuyết nhân sự, riêng Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu không thể xuất hiện, nên đem Mã Lương, một ông lão 79, đứng đầu. Năm 1708, Tổng xã tại Thượng Hải công khai hoạt động, cùng với Dự bị lập hiến công hội kẻ hô người ứng, đại biểu tại các tỉnh cùng Hoa kiều dâng thư, yêu cầu mở quốc hội trong vòng 2, 3 năm. Triều Thanh đả kích, lại đem một thành viên Chính văn xã ra xét xử.

Dương Độ, muốn tranh sủng ái của triều đình, tuyên bố rằng Chính văn xã bài xích Viên Thế Khải, cũng không có ích cho Trương Chi Đổng. Viên tâu với Từ Hy rằng Chính văn xã do Khang, Lương lập sẽ làm điều có hại cho triều đình ; lại có Hoa kiều gửi thư thỉnh nguyện các việc như yêu cầu Từ Hy từ bỏ chính trị, dời đô xuống Giang Nam, cải quốc hiệu Trung Hoa, càng làm cho Từ Hy tức giận. Ngày 30/8 tra cấm Chính văn xã. Ngày 28/8 phát hành Hiến pháp cương yếu, và Nghị viên tuyển cử pháp cương yếu ; tuyên bố rằng tiếp tục trù bị trong thời gian 9 năm mới xong, đến lúc đó sẽ ban bố hiến pháp, triệu tập nghị viên. Hiến pháp cương yếu ghi rõ vĩnh viễn tôn trọng Đại Thanh hoàng đế, quân thượng thần thánh trang nghiêm không thể xâm phạm ; có quyền : định pháp luật, triệu tập và giải tán nghị viên, đặt quan lại, thăng, truất ; thống suất hải, lục quân cùng biên định quân chế, tuyên chiến, giới nghiêm, nắm tổng quát về tư pháp. Trong phạm vi pháp luật, thần dân có quan lại, Nghị viên đại diện ; được kết hội, ngôn luận tự do ; có nghĩa vụ đóng thuế, đi lính. Nói tóm lại Hiến pháp cương yếu này không ngoài việc bảo vệ quyền lợi của vua, cực độ đề cao quyền lực quân chủ.

Hồ Bạch Thảo




1 Lãnh sự tài phán quyền [consular jurisdiction] : quyền này ban cho người ngoại quốc tại quốc gia phạm tội, không do quốc gia đó xử, mà do Lãnh sự phán xử.
2 Hiệp tương đương với lữ đoàn.
3 Chương Đức : nay là An Dương thị [Anyang] thuộc tỉnh Hà Nam.
4 Thư viện : trước kia thư viện có nghĩa là học đường, tại Trung Quốc sau năm 1901 đổi thành học đường.
5 Bát cổ : lối văn đối ngẫu xưa, văn bài chia làm 8 vế gồm : phá đề, thừa đề, khởi giảng, khởi cổ, trung cổ, hậu cổ, thúc cổ, đại kết.
6 Tử : tước vị thời xưa gồm : công, hầu, bá, tử, nam.
http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/trung-quoc-tinh-the-trong-va-ngoai-nuoc-truoc-khi-nha-thanh-sup-do-2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét