Thứ Năm, 6 tháng 2, 2014

Hải quân Trung Quốc: Tham vọng và thực lực

VietnamDefence - Tham vọng bá chủ đại dương thế giới của Trung Quốc hiện thực đến đâu?

Cơ sở của chiến lược hải quân Trung Quốc hiện nay vốn bắt đầu được xây dựng vào cuối thập niên 1980 và được công bố chính thức vào năm 1995 là Chiến lược Phòng thủ tích cực xác định xây dựng hải quân có khả năng đánh lui cuộc xâm lược từ hướng biển, đồng thời không loại trừ khả năng thực hiện các đòn tấn công phủ đầu vào đối phương.

Khái niệm phát triển

Trong các bài báo viết về chủ đề quân sự đang xuất hiện trên báo chí Trung Quốc thường có những yêu sách đối với hơn 5 triệu km2 “lãnh thổ Trung Quốc bị nước ngoài xâm chiếm”, khu vực an ninh biển được tuyên bố của Trung Quốc trải rộng 2000 hải lý vào sâu không gian rộng lớn của Thái Bình Dương, mà có thể còn hơn nữa.

Chính ủy Viện Nghiên cứu Khoa học quân sự Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa, tướng Wen Zongren trong một báo cáo về sức mạnh quân sự của Trung Quốc đã tuyên bố: “Trung Quốc phải chọc thủng sự bao vây phong tỏa từ phía các thế lực quốc tế chống lại an ninh biển của mình. Chỉ khi chúng ta chọc thủng được nó thì chúng ta mới có thể nói về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Để sự trỗi dậy được nhanh chóng, Trung Quốc cần phải đi qua các đại dương và vượt ra khỏi chúng trong tương lai phát triển của mình”.

Các thành tố chính sử dụng hải quân trong tác chiến trong khuôn khổ chiến lược hiện hành là các khái niệm sau đây: tác động tích cực đối với đối phương ở cự ly tối đa với việc chuẩn bị cho hải quân tác chiến ở toàn bộ chiều sâu chiến trường đại dương (biển), phản kích hạt nhân hạn chế nhằm tự vệ với sự tham gia của hải quân trong việc giáng đòn hạt nhân vào đối phương bằng các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn trong thành phần các lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc.

Theo chiến lược hải quân hiện đại Trung Quốc, trong cuộc chiến tranh tương lai, hải quân sẽ được giao giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: tiêu diệt tàu chiến và tàu vận tải của đối phương, quấy rối các tuyến giao thông trên biển của đối phương, thực hiện các đòn tấn công bất ngờ vào các căn cứ hải quân, hải cảng và các mục tiêu quan trọng trên bờ của đối phương nhằm làm suy yếu tiềm lực quân sự đối phương, tiến hành các chiến dịch đổ bộ đường biển với sự tham gia của lục quân và không quân, cũng như đối phó với đổ bộ đường biển của đối phương, bảo đảm an ninh cho các tuyến giao thông trên biển, nghề cá, khai thác khoáng sản và nghiên cứu khoa học, và nhiều nhiệm vụ khác.

Chiến lược hải quân Trung Quốc xác định 3 giai đoạn phát triển hải quân.

Ở giai đoạn đầu, Trung Quốc đã xác định xây dựng các cụm lực lượng có khả năng duy trì hình thế tác chiến đã định ở trong phạm vi khu vực được giới hạn bởi “chuỗi đảo thứ nhất” (quần đảo Ryukyu và quần đảo Philippines), bao gồm các vùng biển thuộc Hoàng hải, biển Hoa Đông, Biển Đông và đồng thời đóng vai trò một “Vạn lý trường thành trên biển”. Hiện nay, giai đoạn này đã hoàn thành.

Ở giai đoạn 2 (đến năm 2020) dự định có những hoạt động tích cực của hải quân trong phạm vi khu vực được giới hạn bởi “chuỗi đảo thứ hai” (quần đảo Kurils, Hokkaido, quần đảo Nanpō, các quần đảo Mariana và Caroline, New Guinea) và bao gồm các vùng biển Nhật Bản và biển Philippines, các biển thuộc quần đảo Indonesia.

Ở giai đoạn 3 (đến năm 2050) dự kiến xây dựng một hạm đội đại dương hùng mạnh, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ đặt ra hầu như ở mọi khu vực của đại dương thế giới. Bởi vậy, xây dựng các lực lượng tàu sân bay và tàu ngầm hạt nhân thực thụ ngay vào đầu thế kỷ XXI được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong phát triển hải quân Trung Quốc.

Tổng số tàu xuồng chiến đấu trong hạm đội Trung Quốc trong 4 năm gần đây đã tăng khoảng từ 570 đến 700 chiếc. Tuy nhiên, điều đó đã diễn ra không chỉ nhờ việc đóng mới mà cả nhờ việc đưa nhiều tàu xuồng khỏi lực lượng dự bị vốn đang quản lý một số lượng lớn tàu ngầm, xuồng chiến đấu và xuồng đổ bộ. Còn việc cắt giảm số lượng tàu xuồng vào năm 2015-2020 có thể thực hiện bằng cách chuyển một phần các tàu ngầm, xuồng chiến đấu và xuồng đổ bộ vào lực lượng dự bị.

Các chương trình đóng tàu quân sự
Trong 10 năm qua, Trung Quốc đã tăng mạnh khối lượng đóng tàu quân sự. Trọng tâm chú ý trong đó đã dịch chuyển từ các tàu có lượng giãn nước hạn chế sang các tàu thuộc các lớp cơ bản (tàu ngầm nguyên tử, tàu sân bay, tàu frigate). Đồng thời, họ tiếp tục đóng các xuồng tên lửa [tàu tên lửa nhỏ]).

Lực lượng tàu ngầm 
Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn
Trong biên chế chiến đấu của hải quân Trung Quốc có 1 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn Trường Chinh-6, lớp Hạ 092 (năm 1995-2001, đã được hiện đại hóa và được trang bị lại bằng tên lửa đường đạn xuyên lục địa JL-1A) và 2 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn 094. 

Trung Quốc bắt tay vào đóng serie tàu ngầm lớp 094 vào năm 2001. Tàu đầu tiên Tấn gia nhập chính thức biên chế hải quân từ năm 2007, còn tàu ngầm sản xuất loạt đầu tiên - vào năm 2009, nhưng việc thử nghiệm các tên lửa đường đạn xuyên lục địa mới dành cho nó vẫn tiếp tục trong năm 2011. 

Sự chậm trễ của chương trình chế tạo vũ khí tiến công cho các tàu ngầm này là tất yếu. Ví dụ, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 092 Chang Zheng-6 được đưa vào biên chế hải quân Trung Quốc vào tháng 8/1983, nhưng mãi đến ngày 15/9/1987 mới phóng thử thành công lần đầu tiên tên lửa đường đạn xuyên lục địa dành cho nó. 

Việc thực sự đưa vào biên chế chiến đấu hạm đội Trung Quốc 2 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn rõ ràng sẽ xảy ra trong năm nay. 

Theo giới lãnh đạo Trung Quốc, việc đóng loạt tàu ngầm mang tên lửa đường đạn này là nhằm bảo đảm khả năng kiềm chế chiến lược đối với lực lượng hạt nhân trên biển của Mỹ. 

Lần đầu tiên, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 bị vệ tinh Quickbird chụp ảnh vào cuối năm 2006 khi đang đậu tại căn cứ Xiaopindao gần thành phố Đại Liên. Các chuyên gia lập tức xác định được rằng, tàu ngầm này giống các tàu lớp Projekt 667BDRM của Nga. 

Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới này của Trung Quốc được trang bị 12 tên lửa đường đạn xuyên lục địa JL-2 mang đầu đạn tách (MIRV). Tên lửa này là biến thể thu nhỏ của tên lửa đường đạn xuyên lục địa triển khai trên mặt đất DF-31 vốn đã được thử nghiệm từ năm 1999. Tầm bắn tối đa đến 8.000 km khi mang đầu đạn đơn khối có đương lượng nổ 0,35 МT. tên lửa đường đạn xuyên lục địa nhiên liệu rắn này có trọng lượng 42 tấn, chiều dài gần 12 m, đường kính 2 m, sử dụng hệ dẫn quán tính. Tên lửa có thể mang đầu đạn MIRV. 

Hiện nay, Trung Quốc đang đóng 3 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 và dự định đóng thêm 1 tàu ngầm nữa loại này. Tuy nhiên, theo thông tin hiện có, các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn đang đóng đã là tàu thuộc lớp 096 và sẽ được trang bị mỗi tàu 24 tên lửa đường đạn xuyên lục địa. Ngoài ra, CIA Mỹ vào giữa năm 2011 đã nhận được một bức ảnh vệ tinh chụp một trong các tàu ngầm này đang chạy thử trên biển. 

Theo các chuyên gia, các kích thước được công bố của tàu ngầm này (dài 150 m, rộng 20 m) là không đáng tin. Trước hết là chiều rộng của tàu bởi vì điều đó phụ thuộc vào chất lượng thép và độ dày vỏ chính của tàu. Ít có khả năng Trung Quốc đã làm chủ được công nghệ sản xuất và luyện loại thép đó và có thể vượt qua được Mỹ, Nga, Anh và Pháp trong lĩnh vực luyện kim. Tuy nhiên, kiểu gì thì sau năm 2016, Trung Quốc có lẽ sẽ sở hữu 6 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới và 1 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn cũ. Hơn nữa, vũ khí trang bị trên 4 tàu sẽ không kém các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn của Mỹ.

Một số báo chí khẳng định, Trung Quốc đã sử dụng các công nghệ Nga khi thiết kế và đóng các tàu ngầm lớp Tấn. Tuy nhiên, đa số các chuyên gia cho rằng, về phần động lực hạt nhân và tên lửa đường đạn xuyên lục địa thì ít có khả năng vì các lý do chính trị. Bởi lẽ, tại thời điểm bắt đầu thiết kế các tàu này (cuối thập niên 1980), quan hệ của Moskva với Washington tốt hơn là với Bắc Kinh. Ngoài ra, các công nghệ được ứng dụng ở hệ thống động lực hạt nhân và trong sản xuất tên lửa đường đạn xuyên lục địa có đặc điểm là việc từ bỏ các quá trình công nghệ đã làm chủ và chuyển sang các quá trình công nghệ khác đòi hỏi mất nhiều thời gian và tốn phí khổng lồ. 

Các chuyên gia cho rằng, nhiều khả năng nhất là Trung Quốc vẫn sử dụng các công nghệ của Pháp để chế tạo hệ thống động lực hạt nhân cho tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 94. Do đó, không loại trừ khả năng, hệ thống động lực hạt nhân với 2 lò phản ứng cải tiến từ thiết kế thời thập niên 1970-1980 của Pháp vẫn được sử dụng làm hệ thống động lực chính. Trong khi đó, một số chuyên gia cho rằng, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới của Trung Quốc được trang bị hệ thống động lực hạt nhân bình thường. 

Không loại trừ, 2 tàu ngầm thông thường lớp Projekt 877EKM nhận được từ Nga vào giữa thập niên 1990 chắc chắn đã cho phép Trung Quốc ứng dụng một số công nghệ Nga ở lĩnh vực giảm độ bộc lộ thủy âm và các loại vũ khí trang bị tối tân (thủy âm, ngư lôi, tên lửa chống hạm) vào các tàu ngầm lớp Tấn (ở mức độ đầy đủ hơn cả ở tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 096). Tuy nhiên, sự hiện diện của một số lượng lớn các lỗ xả thoát nước nhỏ ở phần thượng tầng các tàu ngầm lớp 094 cho thấy, các chuyên gia Trung Quốc vẫn chưa hiểu và ứng dụng được hết tất cả các công nghệ giảm độ bộc lộ cho tàu ngầm. 

Các bài báo nêu mức ồn của các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn các lớp 094 (115 dB) và 096 (95-100 dB) chẳng nói lên điều gì vì không dẫn ra tốc độ chạy của tàu ngầm.

Lượng giãn nước của lớp 094 nêu trên báo chí là 9.000 tấn rõ ràng là bị giảm bớt. Với 2 lò phản ứng và 12 tên lửa đường đạn xuyên lục địa (với trọng lượng phóng 42 tấn mỗi tên lửa), lượng giãn nước không thể dưới 11.000-12.000 tấn. Thậm chí lượng giãn nước khi nổi cũng lớn hơn và theo các chuyên gia là 9.500 tấn. Đánh giá lượng giãn nước của tàu ngầm lớp 096 thực tế hơn và là gần 16.000 tấn.

Tàu ngầm hạt nhân tấn công

Trong biên chế hải quân Trung Quốc có 5 tàu ngầm hạt nhân tấn công: 3 chiếc lớp Hán 091 đóng năm 1980-1990 (2 tàu đầu tiên của lớp này đã bị loại bỏ) và 2 chiếc lớp Thương 093. Xét đến việc tiến hành sửa chữa tại nhà máy, các tàu ngầm lớp 091 sẽ bị rút dần khỏi biên chế hạm đội Trung Quốc vào năm 2012-2020. Hiện nay, Trung Quốc đang đóng tàu ngầm hạt nhân tấn công đa năng lớp 093, có tính năng tương đương tàu ngầm hạt nhân lớp Projekt 671RTM của Nga. Đến năm 2020, Trung Quốc dự định đóng đến 8 tàu ngầm hạt nhân lớp này.

Toàn bộ thông tin nêu trên về tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 liên quan đến các công nghệ động lực hạt nhân của Nga, theo khẳng định của các chuyên gia, cũng đúng với các tàu ngầm lớp 093. Ngoài ra, các chuyên gia còn cho rằng, lượng giãn nước của tàu ngầm này được nêu trên báo chí sát với thực tế hơn. Việc tàu đầu tiên lớp 093 đã đóng trong 13 năm trời gián tiếp nói lên rằng: các công nghệ Nga đã được sử dụng khi chế tạo tàu ngầm này (thiết kế đã bị sửa đổi lại sau khi Trung Quốc có tàu ngầm thông thường Projekt 877EKM). 

Trên 6 tàu ngầm hạt nhân tấn công tiếp theo, việc ứng dụng đầy đủ các công nghệ mới đã dẫn đến những thay đổi trong thiết kế đến mức số hiệu của lớp cũng thay đổi thành 095. Ngoài ra, chương trình đóng tàu bị tạm thời ngắt quãng sau khi đóng 2 tàu đầu tiên theo thiết kế 093. Chắc chắn, việc nối lại chương trình đóng các tàu ngầm hạt nhân tấn công sẽ thực hiện theo thiết kế 095 và chỉ sau khi làm chủ được các công nghệ giảm độ bộc lộ mới nhất. 

Các công nghệ về giảm độ bộc lộ âm thanh và các loại vũ khí trang bị tối tân (thủy âm, ngư lôi, tên lửa chống hạm) đã cho phép giảm mức ồn đi hơn 3 lần do với tàu ngầm nguyên tử tấn công lớp 091. Tuy vậy, các chuyên gia Trung Quốc vẫn còn khuya mới đạt được trình độ mức ồn của các tàu ngầm nguyên tử tấn công mới của các nước hàng đầu thế giới. 

Ngoài ra, có thể thấy việc hệ thống động lực hạt nhân của tàu ngầm Trung Quốc có độ tin cậy tương đối thấp chứng tỏ rằng, ngay cả các công nghệ của Pháp ở mức độ nhất định hiện vẫn nằm ngoài tầm với đối với công nghiệp Trung Quốc.
Các đánh giá nêu trong bảng về mức ồn dải rộng được dẫn kèm với tốc độ chạy không quá 15 hải lý/h. Bởi vậy, những so sánh này không thể cho là hoàn toàn đáng tin cậy.

So sánh khả năng chiến đấu của tàu ngầm nguyên tử tấn công của Trung Quốc và các nước hàng đầu thế giới
Năm
Lớp tàu ngầm
Tốc độ toàn phần (hải lý) 
Hệ thống động lực chính
Số lượng ống phóng lôi
Số lượng đơn vị vũ khí
Đánh giá mức ồn dải rộng tương đối
Độ sâu lặn hoạt động (m)
 Trung Quốc
 1974/1980  
091
25 
Turbo điện hạt nhân
6
20
340
300
 2007
093 
>30 
Turbo điện hạt nhân/Hạt nhân
6
24
110
-
 Mỹ
 1988 
San Juan 
32-33 
Hạt nhân 
 26+12 trong bệ phóng thẳng đứng 
100 
450
 1997 
Seawolf
>35 
Hạt nhân
8
52 
20-25
500
 Liên Xô/Nga
 1989 
Projekt 671RTMK
>30 
Hạt nhân 
6  
24 
105 
400
 1992  
Projekt 971 cải tiến
33 
Hạt nhân 
40 
35 
450
 Anh
 1983 
Trafalgar 
32 
Hạt nhân 
20 
114 
>300
 2009 
Astute 
>30 
Hạt nhân  
6
38-48 
30-40 
400
 Pháp
 1983 
Rubis 
25 
Hạt nhân 
14 
104 
>300
 2016 
Suffren 
>30 
Hạt nhân 
24 
40 
350
* Đánh giá mức ồn dải rộng tương đối được tính bằng phần trăm so với chỉ số này ở tàu ngầm nguyên tử tấn công San Juan lớp Los Angeles

Tuy nhiên, các chuyên gia từ lâu hiểu rằng, để hoàn toàn khắc phục được sự lạc hậu trong lĩnh vực đóng tàu ngầm, Trung Quốc sẽ cần không chỉ kỹ năng sao chép các mẫu tàu ngầm nước ngoài, mà còn nắm vững nhiều nghiên cứu lý thuyết có liên quan đến các ngành khoa học cơ bản. Nhưng để làm thế cần có những khoản tiền lớn và kinh nghiệm mà các cường quốc hải quân hàng đầu tích lũy được trong 100 năm gần đây. 

Ít có khả năng các nước đó sẽ chia sẻ kinh nghiệm này với Trung Quốc. Khả năng chuyển giao (bán) một vài tàu ngầm nguyên tử tấn công các lớp Projekt 949А và Projekt 971 cũng khó lòng giúp Trung Quốc đạt đến trình độ đóng tàu ngầm cần thiết trong thời gian sắp tới. 

Ban lãnh đạo mới của hải quân Trung Quốc nhận thức được điều đó và đã hãm bớt phần nào tốc độ phát triển chính các tàu ngầm hạt nhân tiến công để có thời gian nắm vững, làm chủ các công nghệ mới, còn các nỗ lực chính hiện tập trung vào việc đóng hay mua các tàu ngầm thông thường của nước ngoài.

Tàu ngầm thông thường

Tính đến đầu năm 2012, trong biên chế hải quân Trung Quốc còn 48 tàu ngầm thông thường (các lớp 041, 039/039G, 035, 877EKM/636). Trung Quốc hiện chỉ tiếp tục đóng tàu ngầm lớp 041. Hiện nay, trong biên chế có 4 tàu ngầm lớp 041, 1 tàu đang ở giai đoạn đóng và 3 tàu dự định đóng. 

Tàu ngầm lớp 041 thực tế là bản sao chép đầy đủ tàu ngầm thông thường lơp Projekt 636 chỉ có sự thay đổi ở cách bố trí các cánh lái mũi và đuôi. Các cánh lái ngang ở mũi gắn vào phần thượng tầng, còn ở các cánh lái đứng ở đuôi có thêm phần trên. Ngoài ra, hệ thống động lực chính cũng có những thay đổi, nay chuyển thành động cơ điện-diesel và động cơ không cần không khí (AIP). AIP được chế tạo dựa trên động cơ Stirling, có lẽ được mua từ Thụy Điển cho các tàu ngầm này.

Đa số các chuyên gia cho rằng, Trung Quốc sẽ khó lòng làm chủ được công nghệ sản xuất AIP dựa trên công nghệ hydro (các máy phát điện-hóa đang được sản xuất ở Nga và Đức). Nhưng việc chế tạo AIP dựa trê động cơ Stirling (công nghệ do Thụy Điển và Nhật Bản làm chủ) là hoàn toàn có khả năng vì trong những năm gần đây, Trung Quốc tăng cường hợp tác kỹ thuật với Thụy Điển.

Cần lưu ý rằng, việc Trung Quốc mua sắm ồ ạt tàu ngầm thông thường của Nga (đã mua 12 tàu ngầm các lớp Projekt 877EKM và Projekt 636 trong khi số tàu ngầm đóng theo thiết kế nội địa 039 chỉ là 13) chứng tỏ lãnh đạo hải quân Trung Quốc không hài lòng với chất lượng của không chỉ các tàu ngầm nguyên tử nội địa mà cả tàu ngầm hạt nhân thông thường nội địa. 

Đa số các chuyên gia cũng hoàn toàn nhất trí rằng, tàu ngầm lớp 041 (sao chép tàu ngầm thông thường của Nga) kể cả được trang bị AIP cũng sẽ không thể sánh nổi các tàu ngầm mới của Nga hay của Pháp về khả năng chiến đấu vì Trung Quốc không có khả năng sao chép nhiều công nghệ. 

Tình thế đó sẽ thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục mua các tàu ngầm thông thường tối tân của Nga hay của Pháp.
Lực lượng tàu sân bay
Sau khi lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố, bất cứ đại cường nào cũng phải có tàu sân bay thì việc chương trình xây dựng lực lượng tàu sân bay của hải quân Trung Quốc chuyển sang giai đoạn thực hiện đã trở nên hoàn toàn rõ ràng.
Tuy vậy, đến cuối năm 2007, Bắc Kinh không thông báo gì về việc bắt đầu đóng tàu sân bay. Cho đến tháng 3/2007, một tờ báo Hongkong thân Trung Quốc đã đăng tải thông tin cho biết, Trung Quốc sẽ có “sân bay nổi” đầu tiên của mình vào năm 2010.
Không lâu sau, có tin, Trung Quốc sẽ đóng hoàn thiện tàu tuần dương chở máy bay hạng nặng lớp Projekt 11436 mua từ Ukraine thông qua các công ty ma thành tàu sân bay hạng trung thực sự. Năm 2007, tàu này chính thức được đổi tên thành Thi Lang, tên vị đô đốc đã chỉ huy hạm đội Trung Quốc đánh chiếm Đài Loan vào năm 1681.
Thực tế, Trung Quốc từ lâu đã nghiên cứu công nghệ tàu sân bay thông qua việc mua lại các tàu sân bay bị loại bỏ làm sắt vụn của nước ngoài. Thương vụ thành công đầu tiên là mua tàu tuần dương chở máy bay hạng nặng Minsk Projekt 1143 của Hải quân Liên Xô. Bị loại khỏi biên chế Hạm đội Thái Bình Dương của Nga và bán làm sắt vụn cho một công ty Hàn Quốc, tàu sân bay này được đưa đến một cảng của Hàn Quốc và năm 1997 được bán lại cho Trung Quốc với giá 5 triệu USD nói là để làm trung tâm giải trí nổi. Sau 18 tháng sửa chữa tốn khoảng 45 triệu USD, tàu sân bay Minsk đã biến thành trung tâm giải trí, bỏ neo trong một vịnh nhỏ của đặc khu kinh tế Thâm Quyến, cách không xa Hongkong.
Sau đó, vào năm 2000, Trung Quốc mua tàu sân bay Kiev, tàu đầu tiên của lớp Projekt 1143, bị loại bỏ với giá 8,5 triệu USD.

Trung Quốc đã trả 20 triệu USD cho tàu Varyag, nói là để làm khách sạn nổi 5 sao. Dưới áp lực của Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ đã không cho tàu sân bay Varyag đi qua các eo biển của Biển Đen mà Thổ Nhĩ Kỳ có quyền kiểm soát việc qua lại của tàu thuyền theo Công ước Montreux.
Mỹ nghi ngờ, Trung Quốc đang muốn đóng hoàn thiện Varyag thành một tàu sân bay thực sự và qua đó nghiên cứu làm chủ công nghệ tàu sân bay vốn có tầm quan trọng thứ hai trong ngành đóng tàu quân sự sau tàu ngầm hạt nhân.
Vấn đề chỉ được giải quyết trong chuyến thăm Thổ Nhĩ Kỳ của ngoại trưởng Trung Quốc Đường Gia Triền và tàu Varyag đã được kéo về nhà máy đóng tàu Đại Liên ở thành phố Đại Liên vào tháng 3/2002 và bắt đầu được đóng hoàn thiện.
Tại thời điểm ngừng đóng tàu Varyag, tàu này đã hoàn thành ở mức 68-70% với tất cả các phương tiện chiến đấu và kỹ thuật bố trí trong thân tàu đã được lắp đặt, hầu như tất cả các đường ống dẫn và đường cáp đã được chạy và đấu nối với các cơ cấu, các cơ cấu nhỏ đã tiến hành chạy thử. Ta nên nhớ rằng, tàu sân bay hạng trung Đô đốc Kuznetsov Projekt 11435 của Hải quân Nga hiện nay vào mùa hè năm 1989, tức là 4 tháng trước khi chạy thử tại nhà máy mới chỉ sẵn sàng ở mức 71%.
Như vậy, Trung Quốc đã nhận được một con tàu gần như hoàn chỉnh, nhưng thiếu các thành phần vũ khí trang bị lắp đặt bên trên (các cáp hãm đà, các tấm chắn khí phụt, radar, các hệ thống tên lửa phòng không, pháo-tên lửa phòng không...).
Trong một thời gian khá dài, các chuyên gia Trung Quốc đã không thể bắt tay vào đóng hoàn thiện tàu Varyag mà chỉ nghiên cứu nó, bởi vì có lẽ Trung Quốc đã không nhận được một phần tài liệu kỹ thuật, mà thiếu chúng thì không thể đóng hoàn thiện tàu và tiến hành thử nghiệm các cơ cấu đã lắp đặt.
Tuy nhiên, từ cuối năm 2005, công việc đóng hoàn thiện bắt đầu trở nên sôi động. Trung Quốc đã tiến hành kiểm tra lại toàn bộ các cơ cấu, đường ống dẫn và đường cáp. Nhiều cơ cấu bị tháo ra và đưa đến các nhà máy chuyên ngành của Trung Quốc. Họ đã hoàn thành công việc với hệ thống động lực chính vì đến lúc đó Trung Quốc đã có đủ bộ tài liệu về tàu khu trục Sovremenny Projekt 956E của Nga với các cơ cấu hệ thống động lực chính giống với tàu Projekt 11436.
Nếu nói về trang bị cho tàu Varyag, Trung Quốc tự sản xuất được hầu như tất cả các loại vũ khí trang bị, ngoại trừ radar tiếp cận và hạ cánh máy bay, cũng như thiết bị hàng không như cáp hãm đà, các máy phóng máy bay bằng hơi nước và một số loại khí tài thông tin liên lạc. Điều đó cho thấy, họ đã đặt mua được hết ở nước ngoài bởi vì cũng trong năm 2007, báo chí đưa tin, Trung Quốc đã thỏa thuận mua 4 bộ cáp hãm đà, rào chắn khẩn cấp và các bộ phận thiết bị hàng không khác ở Nga.
Bộ cáp đầu tiên sẽ được dùng để nghiên cứu và sao chép, bộ thứ hai được lắp lên tàu sân bay Shi Lang, bộ thứ ba và thứ tư dùng cho hai tàu sân bay đầu tiên do Trung Quốc tự đóng. Song, cuối năm 2011, có tin Nga có lẽ dưới áp lực của Mỹ đã từ chối bán cáp hãm đà và tài liệu về máy phóng máy bay bằng hơi nước cho Trung Quốc.
Theo thông tin không chính thức, Trung Quốc đã đặt hàng mua được cáp hãm đà ở Thụy Điển và đang phát triển máy phóng máy bay điện từ thay cho máy phóng máy bay bằng hơi nước, với sự hỗ trợ kỹ thuật của nhiều nước phương Tây, trong đó có Thụy Điển.
Trung Quốc chắc sẽ không lặp lại những sai lầm của Hải quân Liên Xô khi chất đống đủ loại vũ khí trang bị lên tàu sân bay. Khi đóng hoàn thiện Thi Lang, Trung Quốc chắc chắn sẽ tận dụng kinh nghiệm của Mỹ, Pháp và tàu sân bay này sẽ chỉ được trang bị các hệ thống vũ khí trang bị tối thiểu phục vụ trước hết cho việc khai thác máy bay trên hạm.
Tàu sân bay Thi Lang đang trong giai đoạn thử nghiệm. Ảnh: jojo8228.blogspot.com
Tháng 8/2011, tàu Thi Lang đã tự chạy ra biển để thử nghiệm, song vẫn chưa có các máy bay trên hạm mà Trung Quốc đang gặp nhiều khó khăn khi chế tạo. Dự kiến, tuy chưa có máy bay trên hạm, tàu Thi Lang vẫn được đưa vào biên chế chiến đấu của hải quân Trung Quốc trong năm 2012.
Tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc bị báo chí, chuyên gia nước ngoài, trong đó có Nga, liên miên công kích về độ tin cậy kém của hệ thống động lực chính, sự yếu kém của hệ thống phòng không, không có các máy bay với các chức năng khác nhau như tác chiến điện tử, máy bay chỉ huy/báo động sớm, còn tiêm kích trên hạm J-15 (sao chép Su-33) thì tồi hơn F/A-18А của Mỹ... Tuy nhiên, tất cả những khẳng định này chưa chắc hoàn toàn đúng.
Trung Quốc đang phát triển các máy bay với tất cả các chức năng cho tàu sân bay. Cụ thể, một máy bay chỉ huy/báo động sớm đang được chế tạo dựa trên máy bay vận tải Y-7 (sao chép An-24). Với yêu cầu không quá cao, Trung Quốc chắc chắn sẽ phát triển được máy bay chỉ huy/báo động sớm.
Các kế hoạch đóng tàu sân bay nội địa đã được Trung Quốc thông qua từ năm 1992, song chỉ công bố vào năm 1993. Theo báo chí phương Tây, việc đóng tàu sân bay hạng trung lớp 9985 có lẽ đã bắt đầu vào năm 1999 tại nhà máy đóng tàu Shanghai Jiannan Zaochuanchang ở Thượng Hải.
Theo các chuyên gia, bằng chứng gián tiếp khẳng định điều đó có thể là việc các bến tàu tại các căn cứ hải quân ở Đại Liên, Thượng Hải và Trạm Giang đang được cải tạo để có thể tiếp nhận các tàu sân bay. Tuy nhiên, theo nhiều nhà phân tích, điều đó là ít có khả năng vì những lý do sau đây: Nhà máy đóng tàu Đại Liên ở Đại Liên đang đóng hoàn thiện tàu sân bay Varyag lớp Projekt 11436M nên chính nhà máy này mới có kinh nghiệm đóng tàu sân bay, chứ không phải nhà máy đóng tàu ở Thượng Hải; Trung Quốc hiện chưa triển khai sản xuất được các turbine hơi nước và turbine khí dùng cho quân sự có công suất đơn vị mỗi tổ máy là 50.000-70.000 mã lực, trong khi Trung Quốc không mua sắm các thiết bị này; Trung Quốc cũng không có cơ sở sản xuất nồi hơi hay lò phản ứng hạt nhân có công suất dùng được cho tàu sân bay.
Song, một số chuyên gia lại cho rằng. Trung Quốc có thể tháo gỡ các turbine hơi nước và các nồi hơi có công suất phù hợp từ các tàu sân bay Minsk và Kiev mà họ đã mua và điều này được cho là hoàn toàn có thể. Không loại trừ, các tổ máy này đã được sử dụng hoặc là ngay sau khi sửa chữa, hoặc là như các mẫu để sản xuất sao chép. Tuy nhiên, việc vận hành rất kém cỏi các thiết bị đó trên các tàu khu trục lớp Projekt 956E/EM cho thấy Trung Quốc sẽ rất khó làm việc đó.
Chắc chắn, Trung Quốc vẫn chưa bắt đầu đóng tàu sân bay nội địa mà họ mới chỉ đang tiến hành thiết kế loại tàu này. Họ chỉ có thể khởi đóng tàu sân bay khi đã chọn được hệ thống động lực chính và bảo đảm chắc chắn có nó tại nhà máy đóng tàu trước khi đóng boong dưới của tàu trên triền đà.
Theo các chuyên gia, Trung Quốc không thể hoàn thành đóng tàu sân bay hạng trung sẽ trước năm 2017-2020. Tàu sẽ có lượng giãn nước 45.000-50.000 tấn và các máy phóng máy bay. Chủng loại hệ thống động lực chính hiện chưa được tiết lộ. Rõ ràng là tàu sân bay này sẽ theo phương án tàu sân bay hạng trung với hệ thống động lực hạt nhân và 3 máy phóng máy bay.
Biên chế của không đoàn trên tàu sân bay Thi Lang và tàu sân bay hạng trung lớp mới có lẽ sẽ được chuẩn hóa và bao gồm 24-36 J-15 (sao chép Su-33М), 4 máy bay chỉ huy/báo động sớm (trên cơ sở Y-7 hay Yak-44), 6-18 trực thăng Ка-28PL, 2 trực thăng Ка-28PS và các máy bay khác (tổng cộng đến 50-55 chiếc).
J-15 được chọn làm tiêm kích đa năng chủ lực. Tháng 10/2008, các nguồn tin Nga cho biết, Trung Quốc đã tỏ ý muốn mua 14 chiếc Su-33М. Đồng thời, Trung Quốc có lẽ sẽ tổ chức lắp ráp lô bổ sung các máy bay này hay biến thể Trung Quốc sao chép trên cơ sở tích hợp khung thân máy bay của Su-33 hiện nay với radar và thiết bị avionics lắp trên Su-30МK2. Không loại trừ khả năng, sau đó Trung Quốc sẽ nâng cấp các tiêm kích này để có khả năng phóng bằng máy phóng.
Tuy vậy, năm 2011, Nga đã đình chỉ việc đàm phán ký kết hợp đồng bán Su-33 có thể lại vì áp lực của Mỹ. Lý do chính thức mà Nga đưa ra khi từ chối ký hợp đồng là việc sản xuất lô máy bay nhỏ như thế sẽ không có lợi cho Nga.
Cần lưu ý rằng, theo chỉ đạo của lãnh đạo Hải quân Liên Xô, các công trình sư đã dự phòng không gian cho 2 máy phóng máy bay bằng hơi nước trên các tàu sân bay hạng trung lớp Projekt 11435 và Projekt 11436 và để ngụy trang, chúng được gọi là “các khu vực dành cho lực lượng đổ bộ”. Việc này được giấu kín với lãnh đạo Liên Xô.
Nhiều khả năng Trung Quốc thừa biết tất cả những chuyện này nên họ mới có ý đồ đóng các tàu sân bay với máy phóng máy bay. Bởi vậy, trong lần sửa chữa tiếp theo cho Thi Lang, Trung Quốc có thể tháo bỏ cầu bật để lắp các máy phóng máy bay bằng hơi nước bình thường thay vào đó.
Đối với phi công tàu sân bay thì cất cánh từ tàu sân bay là việc đơn giản nhất, còn hạ cánh là việc phức tạp nhất. Bởi vậy, quan trọng nhất đối với Trung Quốc lúc này là huấn luyện phi công phương pháp hạ cánh lên boong tàu sân bay, còn phương pháp cất cánh chỉ có vai trò thứ yếu. Do đó, cho đến năm 2015, có lẽ Trung Quốc sẽ không hiện đại hóa tàu sân bay Shi Lang để lắp các máy phóng máy bay.
Lực lượng đổ bộ
Tàu đổ bộ
Trong biên chế chiến đấu của hải quân Trung Quốc có gần 100 tàu đổ bộ, trong đó có 2 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp 071 (1 chiếc đang đóng). Việc tự lực chế tạo tàu đốc đổ bộ chở trực thăng là một thành tựu hiển nhiên của Trung Quốc. Người ta dự đoán, tàu này được đóng sao chép tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp San Antonio (LPD-17) của Hải quân Mỹ, bởi các hình ảnh thiết kế ban đầu của nó rất giống San Antonio.
Ngoài ra, việc lực lượng đổ bộ được mở rộng nhanh chóng trong 4 năm qua (đóng gần 70 tàu đổ bộ chở tăng) cho thấy, công nghiệp Trung Quốc trong thời bình có khả năng đóng các tàu đơn giản (công nghệ của những năm 1950-1960) với nhịp độ cao.
Rõ ràng, Trung Quốc xây dựng hạm đội tàu đổ bộ chở tăng hùng mạnh này trước hết là để gây áp lực chính trị đối với các nước nằm trong phạm vi của “chuỗi đảo thứ nhất” (Ryukyu và Philippines) là Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Hàn Quốc.
Tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp 071. Ảnh: sinodefence.com


Xuồng đổ bộ

Ngoài các tàu đổ bộ, trong biên chế chiến đấu của hải quân Trung Quốc còn có hơn 150 xuồng đổ bộ, trong đó có 10 xuồng đổ bộ đệm khí trọng tải đến 15 tấn. Trung Quốc hiện đang nghiên cứu chế tạo xuồng đổ bộ đệm khí trọng tải 50-60 tấn để sử dụng trong tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp 071 làm phương tiện đổ bộ. Trung Quốc thực tế có thể có tới 500 xuồng đổ bộ, nhưng chúng được phân bổ giữa các bộ ngành nên không thể thống kê chính xác.
Hải quân Trung Quốc tỏ ra quan tâm tới tàu đổ bộ đệm khí đa năng lớp Projekt 1232.2 của Nga. Một số nguồn tin dự đoán, Trung Quốc đã đặt hàng 6-8 tàu này ở Ukraine, nhưng thực tế họ chỉ đặt hàng 4 chiếc (2 chiếc đóng ở Trung Quốc).
Lực lượng tàu chiến đa năng
Tàu khu trục
Đến cuối năm 2011, trong biên chế chiến đấu của hải quân Trung Quốc có 27 tàu khu trục thuộc các lớp khác nhau. Nét nổi bật của chương trình đóng tàu tàu khu trục Trung Quốc là việc đóng 2 tàu thuộc cùng một serie nhưng với các hệ thống vũ khí và sơ đồ hệ thống động lực chính khác nhau. Hiện đại nhất trong đó là 2 tàu khu trục lớp 052C Lan Châu đóng tại các xưởng đóng tàu Trung Quốc, nhưng có sử dụng các công nghệ và linh kiện nước ngoài (radar, trạm thủy âm, ụ pháo 100 mm của Pháp, hệ thống tên lửa phòng không Rif của Nga, các động cơ turbine khí của Ukraine…).
Các tàu khu trục lớp 956E và 956EМ mua của Nga thua kém các tàu 052C về vũ khí phòng không, nhưng vượt trội về khả năng tấn công.
Tàu khu trục lớp 052С được trang bị radar đa năng với 4 anten mạng pha cố định Type 382 được chế tạo bằng công nghệ Nga.
Do giá cả một tàu khu trục như vậy là rất đắt nên Trung Quốc quyết định đóng 2 tàu khu trục lớp 051С Thẩm Dương. Khác với tàu khu trục lớp 052С, các tàu lớp 051C được lắp một đài anten quay của hệ thống tên lửa phòng không Fort-M thay cho các anten mạng pha cố định.
Khi xây dựng hạm đội tàu khu trục khá đa dạng về chủng loại, Hải quân Trung Quốc rõ ràng đang cố tìm ra loại tàu khu trục tối ưu và có được tối đa các công nghệ tối tân.
Các chuyên gia châu Âu có mặt trên tàu khu trục Quảng Châu (lớp 052B) vào năm 2007 đã đưa ra các kết luận sau đây. Thoạt nhìn, tàu này tương ứng với trình độ của thế kỷ XXI. Tàu cũng có phần thượng tầng đơn khối, bề ngoài cũng sử dụng nhiều công nghệ giảm độ bộc lộ (tàng hình). Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ hơn thì thấy, tàu này sử dụng một số lượng lớn công nghệ của những năm 1950-1960 đến mức đáng ngạc nhiên. Đó vẫn là các hệ thống chung của tàu kiểu cũ, có từ thời Liên Xô, hệ thống quạt thông gió các hành lang chạy suốt chạy dọc theo hai bên mạn tàu qua phần thượng tầng từ mũi đến đuôi rất thô sơ.
Theo các chuyên gia, với cách thông gió như thế, một khi hệ thống thông gió bị hư hỏng, tàu sẽ bị ô nhiễm khí độc hoàn toàn vì khói từ đám cháy hoặc các chất độc hại trước khi thủy thủ đoàn kịp mang mặc các phương tiện phòng hộ cá nhân.
Điều khiến người ta kinh ngạc không ít là các cánh cửa không thấm khí/nước có kết cấu có thể làm chúng biến dạng và kẹt hóc khi có hư hỏng trong chiến đấu hoặc khi có bão mạnh. Nhiều hệ thống vũ khí (ống phóng lôi 324 mm, bệ phóng bom phản lực và nhiều hệ thống khác) chỉ có cơ cấu dẫn động bằng tay, đây là điều đặc biệt đáng ngạc nhiên đối với một con tàu được trang bị khá nhiều thiết bị vô tuyến điện tử rất hiện đại. Khi xem xét kỹ hơn trang bị radar, thấy rằng các đường cáp của đa số các hệ thống không hề được bảo vệ trước khả năng bị tác động điện tử vì thế chúng rất nhỏ gọn và đơn giản.
Sau khi xem xét, một chuyên gia đưa ra đánh giá về hoạt động của các nhà đóng tàu khu trục của hải quân Trung Quốc như sau: “Đối với họ thì ngay cả các tàu khu trục lớp Projekt 956E cũng vẫn sẽ là các tàu vũ trụ trong một thời gian dài nữa…”.
Bởi vậy, đa số các chuyên gia cho rằng, hiện thời, Trung Quốc vẫn chưa thể đóng được một chiến hạm thực sự hiện đại và cân đối về các hệ thống chiến đấu và kỹ thuật.
Frigate
Trong biên chế chiến đấu hải quân Trung Quốc hiện có 51 frigate, một phần trong số đó, theo xếp loại của phương Tây, có thể liệt vào nhóm tàu corvette. Ngoài 6 frigate (lớp 054А), tất cả số còn lại có vũ khí phòng không yếu, may lắm là chỉ có hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn (Crotale). Một số lượng đáng kể các frigate lạc hậu thuộc các lớp 053 và 053Н đã được bán sang nhiều nước thế giới thứ ba.
Để thay thế các frigate cũ và bổ sung cho các tàu tàu khu trục mới tương đối đắt tiền, Trung Quốc đang đóng các frigate rẻ tiền hơn. Đến cuối năm 2011, họ đã đóng xong 2 frigate lớp 054 với hệ thống phòng không đơn giản hóa, có các tính năng và thành phần trang bị kỹ thuật giống với frigate La Fayette của Pháp.
Sau đó, các frigate bắt đầu được đóng (đã đóng được 6 tàu) theo thiết kế được sửa đổi 054А, theo đó, hệ thống tên lửa phòng không HQ-7 (Crotale) được thay bằng hệ thống tên lửa phòng không HQ-16 (Shtil) với 1 bệ phóng thẳng đứng х 32 ngăn phóng. Ngoài ra, 4 hệ thống pháo phòng không АK-630 được thay bằng 2 hệ thống pháo phòng không 7 nòng 30 mm Type 730 (Goalkeeper). Trung Quốc đang tiếp tục đóng 2 frigate loại này.
Do thành phần vũ khí thay đổi mà toàn bộ khái niệm đóng frigate của Trung Quốc cũng thay đổi theo. Trước đó, họ cho rằng, các tàu khu trục đắt tiền phải được bổ trợ bằng các frigate tương đối rẻ tiền. Nhưng khi các chỉ huy mới lên nắm quyền chỉ huy hải quân Trung Quốc, tàu frigate bắt đầu được xem như một chiến hạm đa năng khá mạnh với lượng giãn nước hạn chế, còn các tàu khu trục mới có thể được xem như các tàu bảo vệ cho các tàu sân bay tương lai.
Lực lượng tàu tuần tra
Đến năm 2003, Trung Quốc không hề có kế hoạch đóng mới các tàu chiến nhỏ cho hải quân của họ. Nhưng vào năm 2004, chương trình phát triển tàu chiến nhỏ bất ngờ có được xung lực phát triển mới. Trước hết, mối quan tâm giảm đi đối với tàu tuần tra và tăng lên đối với tàu tên lửa (tốc hạm tên lửa). Chẳng hạn, những chiếc tốt nhất trong các xuồng tuần tra lớp 037/1 (25 chiếc) đã được trang bị thêm tên lửa chống hạm С-802 và trở thành tàu tên lửa.
Đồng thời, Trung Quốc cũng bắt đầu đóng quy mô lớn theo công nghệ Australia các tốc hạm tên lửa lớp Houbei trang bị tên lửa chống hạm mới С-802. Đến cuối năm 2011, họ đã đóng được tổng cộng hơn 60 tàu tên lửa này. Chúng có tốc độ toàn phần vừa phải (36 hải lý/h), nhưng nhờ có kết cấu dạng hai thân và hình dáng thân thiết kế theo công nghệ tàng hình nên có khả năng đi biển cao và độ bộc lộ thấp.
Rõ ràng là Trung Quốc có thể chuyển nhiều tàu tên lửa đóng trong những năm trước đó sang lực lượng dự bị nên sắp tới tổng số tàu chiến nhỏ sẽ giảm đi.
Lực lượng tàu quét lôi
Lực lượng tàu quét lôi của hải quân Trung Quốc hiện chỉ có vài tàu quét lôi, còn hơn 100 tàu xuồng loại này được đưa vào lực lượng dự bị. Chẳng hạn, trong lực lượng dự bị của hải quân Trung Quốc đã có hơn 50 tàu quét lôi nhỏ Type 312. Theo đa số các chuyên gia, lực lượng tàu chống thủy lôi là thành phần yếu nhất của hải quân Trung Quốc và không hiểu vì lý do gì lực lượng này không được phát triển đủ mạnh.
Kết luận chung
Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc đã làm chủ được nhiều công nghệ, nhưng tất cả những công nghệ đó đều là thành tựu của quá khứ. Các chuyên gia đóng tàu Trung Quốc hiện hoàn toàn không thể sản xuất, kể cả theo giấy phép, các turbine khí tàu thủy, các turbine hơi nước cỡ lớn và các nồi hơi áp suất cao cho các tàu sân bay.
Nhưng điều khó chịu nhất đối với Trung Quốc là ngoài các tên lửa đường đạn, họ không có các loại vũ khí trang bị hải quân nội địa có chất lượng. Những gì họ đang có đều là hàng sao chép, được chế tạo lạc hậu 10-15 năm, có tính năng cực kỳ tồi tệ so với các mẫu nguyên bản. Chẳng hạn, hải quân Trung Quốc không có các loại pháo tự động tất cả các cỡ, các ngư lôi và thủy lôi do họ tự phát triển.
Điều đó cho thấy, công tác nghiên cứu của Trung Quốc trong lĩnh vực này là kém hiệu quả. Đa số chuyên gia cho rằng, trong điều kiện hiện nay, Trung Quốc thiết kế và chế tạo bom nguyên tử và tên lửa đẩy vũ trụ còn dễ hơn là phát triển một động cơ turbine phản lực tiết kiệm cao cho máy bay chở khách.
Nguồn:
Hải quân Trung Quốc: Hôm nay và ngày mai (1) / GS, TS KHKT Vladislav Nikolsky; PTS KHKT Nikolai Novichkov // VPK.20 (437), ngày 23/5/2012.
http://vietnamdefence.com/Home/quandoi/trungquoc/Hai-quan-Trung-Quoc-Tham-vong-va-thuc-luc-2/20126/51728.vnd

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét