VietnamDefence - Các xu hướng phát triển hải quân trên thế giới: tàu ngầm, tàu sân bay, tàu chiến mặt nước.
Trận đánh hải quân đích thực cuối cùng, trận hải chiến Philippines, đã diễn ra gần 68 năm trước. Hải quân Mỹ hồi đó đã đánh gục hẳn hạm đội Nhật Bản. Từ đó, các cuộc tấn công từ các tàu chiến hoàn toàn nhằm vào các mục tiêu trên bờ hay thực hiện các cuộc đổ bộ lên bờ biển. Còn từ bờ, các tàu chiến bị giáng trả bằng hỏa lực pháo binh, tên lửa hay các cuộc tập kích đường không như trong cuộc chiến Falklands.
Trên đại dương thế giới mênh mông chỉ xảy ra các cuộc đụng độ nhỏ, không hề ảnh hưởng đến kết cục các cuộc chiến liên quan (có lẽ chỉ ngoại trừ việc đánh đắm tàu tuần dương Tướng Belgrano bởi một tàu ngầm nguyên tử Anh, làm tê liệt hoàn toàn hạm đội Argentina). Hoàn toàn tự nhiên là hải quân các quốc gia hàng đầu thế giới đang bắt đầu được xây dựng theo xu hướng này, dĩ nhiên là mặc dù người ta vẫn tính đến cả khả năng tác chiến trên biển.
Tàu ngầm và tàu sân bay - Hai thành tố chủ yếuPhương tiện quan trọng nhất để tiến hành chiến tranh trên biển tất nhiên là các tàu ngầm. Bất chấp tiến bộ lớn trong lĩnh vực phòng thủ chống ngầm, tàu ngầm vẫn là lớp tàu chiến độc đáo và không thể thay thế, điều đó được giải thích bởi hai đặc điểm cơ bản của chúng - đó là tính bí mật và khả năng di chuyển trong không gian ba chiều. Ngoài ra, tàu ngầm sẽ luôn phát hiện được tàu nổi trước khi tàu nổi phát hiện ra nó. Còn sự phát triển nhanh chóng của tên lửa hành trình phóng từ biển làm cho tàu ngầm còn trở thành phương tiện tác chiến đối bờ đích thực.
Trên đại dương thế giới mênh mông chỉ xảy ra các cuộc đụng độ nhỏ, không hề ảnh hưởng đến kết cục các cuộc chiến liên quan (có lẽ chỉ ngoại trừ việc đánh đắm tàu tuần dương Tướng Belgrano bởi một tàu ngầm nguyên tử Anh, làm tê liệt hoàn toàn hạm đội Argentina). Hoàn toàn tự nhiên là hải quân các quốc gia hàng đầu thế giới đang bắt đầu được xây dựng theo xu hướng này, dĩ nhiên là mặc dù người ta vẫn tính đến cả khả năng tác chiến trên biển.
Tàu ngầm và tàu sân bay - Hai thành tố chủ yếuPhương tiện quan trọng nhất để tiến hành chiến tranh trên biển tất nhiên là các tàu ngầm. Bất chấp tiến bộ lớn trong lĩnh vực phòng thủ chống ngầm, tàu ngầm vẫn là lớp tàu chiến độc đáo và không thể thay thế, điều đó được giải thích bởi hai đặc điểm cơ bản của chúng - đó là tính bí mật và khả năng di chuyển trong không gian ba chiều. Ngoài ra, tàu ngầm sẽ luôn phát hiện được tàu nổi trước khi tàu nổi phát hiện ra nó. Còn sự phát triển nhanh chóng của tên lửa hành trình phóng từ biển làm cho tàu ngầm còn trở thành phương tiện tác chiến đối bờ đích thực.
Những khả năng mới của tàu ngầm xuất hiện cùng với việc chế tạo các động cơ không cần không khí, nhờ chúng mà các tàu ngầm thông thường có thể liên tục lặn dưới nước mà không cần nổi lên. Ngoài ra, đóng và khai thác tàu ngầm thông thường lại đơn giản và rẻ tiền hơn, chúng có tính sinh thái tốt hơn và ít ồn hơn, hợp túi tiền hơn với nhiều quốc gia hơn so với các tàu ngầm nguyên tử.
Xu hướng chủ yếu trong phát triển tàu ngầm sẽ là tiếp tục nâng cao tính bí mật. Tuy nhiên, ở đây, người ta hầu như đã đạt đến giới hạn bởi vì không thể giảm độ bộc lộ của các vật thể khá lớn như tàu ngầm xuống đến mức bằng không. Thậm chí nếu như bằng cách nào đó có thể triệt tiêu hoàn toàn độ bộc lộ âm thanh và từ tính của tàu ngầm thì cũng không thể loại bỏ được trường trọng lực và vệt nước của chúng.
Tiềm năng để tăng tốc độ tàu ngầm cũng hầu như đã hết. Quả thực là còn rất lâu mới đạt đến giới hạn độ sâu lặn của tàu ngầm. Mục tiêu cuối cùng có thể là cái mốc 1 km.
Đồng thời, định hướng “đối bờ” của hải quân cũng làm giảm tỷ lệ tàu ngầm trong hải quân và dịch chuyển trọng tâm sang các tàu mặt nước.
Việc Mỹ có trong tay 11 tàu sân bay hạt nhân khiến các quốc gia khác hầu như không thể ganh đua với người Mỹ về mặt đóng “sân bay nổi”. Tuy nhiên, lợi dụng những khó khăn kinh tế của Washington, Trung Quốc sẽ cố tìm cách lao vào cuộc đua này (ít ra là ở Thái Bình Dương). Nếu không có ý định đó thì Trung Quốc đã không tiến hành các thử nghiệm với tàu sân bay Varyag, vốn chẳng phải là một tàu sân bay thực thụ và chỉ có khả năng làm tàu chở máy bay huấn luyện-thử nghiệm cho hải quân Trung Quốc. Nếu như Trung Quốc bỏ công sức ra với nó, nghĩa là sau đó họ sẽ bắt đầu đóng các tàu sân bay thực sự và dĩ nhiên họ sẽ tậu lấy không chỉ 1-2 tàu sân bay.
Việc tiếp tục gia tăng kích thước các tàu sân bay và cải tiến cơ bản chúng khó lòng mà thực hiện được. Rõ ràng là người ta đã đạt được sự hoàn thiện với sự xuất huận của tàu sân bay lớp Nimitz. Từ nay, chỉ có thể có những cải tiến không đáng kể ở những bộ phận đơn lẻ. Liên quan đến các tàu sân bay kiểu Anh, tức là các tàu sân bay nhỏ với các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng, thì đây có thể là nhánh phát triển bế tắc, hơn nữa các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng Harrier đang bị loại khỏi trang bị, còn việc thay thế chúng bằng các máy bay F-35В là chưa rõ ràng do những khó khăn lớn của máy bay tiêm kích đa năng này.
Phương án duy nhất để đem lại cho các tàu sân bay một chất lượng mới là chế tạo các máy bay không người lái (UAV) chiến đấu trên hạm. Bởi lẽ, chúng hiển nhiên sẽ có kích thước nhỏ hơn (và không đắt như thế) so với các máy bay có người lái, điều đó sẽ cho phép triển khai trên tàu sân bay nhiều UAV hơn so với các máy bay có người lái hiện nay. Ngoài ra, việc đào tạo nhân viên điều khiển UAV đơn giản và rẻ hơn nhiều đào tạo phi công tàu sân bay. Phương án hiện thực nhất là lập ra các phi đoàn trên hạm hỗn hợp, bao gồm các máy bay (tiêm kích) có người lái và các UAV (trinh sát và tiến công).
Tàu chiến mặt nước - Những lựa chọn của phương Tây và phương Đông
Các tàu mặt nước cỡ lớn - không chỉ là các tàu tuần dương mà cả các tàu khu trục - đã từ “những con ngựa ô” biến hẳn thành “đồ xa xỉ”. Hơn nữa, hiện nay, lớp tàu tuần dương, lặp lại số phận chủ lực hạm, đang kết thúc sự tồn tại của mình. Có thể dự đoán rằng, vào năm 2040, trên thế giới sẽ không còn lấy một tàu tuần dương.
Bên cạnh đó, chính các tàu tuần dương lớp Ticonderoga (kể từ chiếc thứ 6 trong loạt 27 chiếc) của Mỹ được coi là người đặt nền móng cho một xu hướng mới trong phát triển tàu mặt nước phi tàu sân bay. Hệ thống Aegis và các bệ phóng thẳng đứng Mk41 đã đem lại cho chúng những khả năng hoàn toàn mới khi cho phép gần như phóng đồng thời 122 tên lửa thuộc ba loại và nhiều biến thể.
Tiếp sau các tàu Ticonderoga, các tàu khu trục Arleigh Burke mà Mỹ đã đưa vào sử dụng 60 chiếc (tổng cộng sẽ có 65-99 chiếc) đã biến các lớp tàu này từ “các tàu hộ vệ cho các tàu sân bay” trở thành một lực lượng chiến đấu đa năng độc lập cực mạnh. Người Mỹ đang định phát huy xu hướng này bằng các tàu khu trục tương lai lớp Zumwalt vốn định hướng hầu như chỉ để tác chiến đối bờ, nhưng chúng lại quá đắt, vì vậy họ sẽ chỉ đóng 3 tàu, chứ không phải 32 chiếc như dự định ban đầu.
Cũng đi theo con đường của Mỹ là các quốc gia ở Đông Á (và cả Ấn Độ “ở sát đó”), khu vực mà sức mạnh quân sự chủ yếu của Mỹ đang dịch chuyển đến từ không gian châu Âu. Kết quả là tàu mặt nước không phải là tàu sân bay đáng sợ nhất nay hoàn toàn không phải là tuần dương hạm Ticonderoga của Mỹ, cũng như không phải tuần dương hạm Piotr Đại đế của Nga mà là khu trục hạm Sejon Đại đế của Hàn Quốc.
Hàn Quốc trong một khoảng thời gian rất ngắn đã đóng được cho hải quân của họ 12 tàu khu trục tối tân mà mạnh nhất trong đó là 3 tàu lớp KDX-3 (Sejon Đại đế là tàu đầu tiên). Chúng được trang bị hệ thống Aegis, các bệ phóng tên lửa thẳng đứng với 80 tên lửa phòng không có điều khiển Standart, 32 tên lửa hành trình Hyunmoo-3 (có tính năng tương đương Tomahawk, nhưng tầm bắn ngắn hơn) và 16 tên lửa chống tàu ngầm có điều khiển Red Shark, cũng như 4 bệ phóng (mỗi bệ) mang 4 tên lửa hành trình chống hạm Hae Sung.
Cần lưu ý rằng, tất cả những tên lửa này, trừ Standart, đều là tên lửa do Hàn Quốc phát triển (tuy có ảnh hưởng của các loại tên lửa tương tự của Mỹ). Như vậy, trên bệ phóng thẳng đứng vạn năng của tàu bố trí 128 tên lửa cộng với 16 tên lửa chống hạm trong các bệ phóng dạng container.
Nhật Bản sở hữu một đội tàu khu trục lớn (hơn 40 chiếc). Hiện đại nhất trong số đó là 4 tàu lớp Kongo và 2 tàu lớp Asago được trang bị hệ thống Aegis và hệ thống phóng thẳng đứng Мк41, cũng như 9 tàu lớp Murasame và 5 tàu lớp Takanami.
Tuy nhiên, trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ vượt Nhật về số lượng tàu khu trục. Trung Quốc đã hoàn thành các thử nghiệm với các phương án tàu khu trục khác nhau. Hiện nay, Trung Quốc có 25 tàu khu trục thuộc 7 lớp khác nhau và đã chuyển sang đóng ồ ạt các tàu chiến theo thiết kế cải tiến của lớp 052С (có thể nó sẽ được gọi là 052D).
Hiện có ít nhất 6 tàu khu trục lớp này đang nằm trên triền đà, còn sẽ có tổng cộng bao nhiều tàu sẽ đưa vào sử dụng chỉ có thể đoán. Các tàu này được trang bị tên lửa hành trình HN-2 và С-805, tên lửa chống hạm YJ-62, cũng như hệ thống tên lửa phòng không HНQ-9.
Đáng chý ý là 2 tàu khu trục lớp 052С đầu tiên được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Fort (S-300F) của Nga có các bệ phóng dạng ổ quay đặc trưng cho các tàu của Hải quân Nga (vì thế, tại mỗi thời điểm, chỉ có 1 trong 8 quả tên lửa phòng không ở mỗi bệ phóng trong 6 bệ phóng ở tư thế sẵn sàng phóng). Tất cả các tàu khu trục sau đó được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Trung Quốc với các tên lửa được bố trí trong bệ phóng thẳng đứng thông thường (nghĩa là toàn bộ 48 tên lửa đồng thời ở tư thế sẵn sàng phóng).
Cuối cùng, Ấn Độ cũng đang tăng cường khả năng cho các tàu khu trục của họ, ngoài ra, các tên lửa hành trình Nga-Ấn BrahMos còn được lắp cho cả 5 tàu khu trục cũ lớp Rajput. Các tàu lớp Delhi chỉ được trang bị tên lửa chống hạm Uran, nhưng biến thể cải tiến của các tàu này là các tàu khu trục lớp Calcuta (dự kiến đóng 7-11 chiếc) sẽ được trang bị BrahMos bố trí trong hệ thống phóng thẳng đứng.
Như vậy, 4 quốc gia châu Á này hiện có tổng cộng gần 90 tàu khu trục, đồng thời, số lượng tàu khu trục trong tương lai gần sẽ còn tăng hơn nữa.
Còn châu Âu hiện chỉ còn vẻn vẹn 25 tàu khu trục, hơn nữa 12 chiếc trong số đó sẽ bị loại bỏ. Thay thế cho các tàu đang bị giải nhiệm sẽ chỉ là 3 tàu khu trục.
Nhưng thậm chí trên các tàu khu trục được coi là hiện đại như các tàu khu trục lớp Horizon của Pháp-Italia (Pháp và Italia mỗi nước có 2 chiếc), De Zeven Provinciën của Hà Lan (4 chiếc), Daring của Anh (có 3 chiếc, đang đóng 3 chiếc) thì thấy rất rõ khuynh hướng phòng thủ trong vũ khí trang bị.
Điều đó đặc biệt nổi bật ở các tàu lớp Daring khi chỉ được trang bị tên lửa phòng không mà không có tên lửa hành trình và tên lửa chống hạm (tuy có dự phòng vị trí lắp đặt chúng). Nghĩa là, hiện tại, các tàu khu trục này có khả năng đánh chặn các cuộc tấn công từ bờ bằng hệ thống tên lửa phòng không, nhưng chẳng có gì để thực hiện đòn đánh trả.
Các tàu frigate đang nổi lên thay thế cho các tàu khu trục ở vai trò “ngựa ô” trong các hạm đội tàu mặt nước của đa số các quốc gia. Cần lưu ý rằng, các tàu khu trục của châu Á (các tàu lớp Giang Khải 054A của Trung Quốc, lớp Incheon tương lai của Hàn Quốc, Talwar và Shivalik của Ấn Độ) đang được đóng như “các tàu khu trục thu nhỏ”, nghĩa là các tàu chiến đa nhiệm dành cho chiến tranh quy mô lớn. Cụ thể là để tác chiến đối bờ bằng tên lửa hành trình (HN-2 trên lớp 054, Hyunmoo trên lớp Incheon, BrahMos trên các tàu của Ấn Độ).
Cũng như khu trục hạm, trên các frigate của châu Âu, người ta ưu tiên cho các phương tiện phòng không. Theo triết lý đó, người ta đã đóng thậm chí những frigate tốt nhất trang bị hệ thống Aegis như các tàu lớp Álvaro de Bazán của Tây Ban Nha và Fridtjof Nansen của Nauy.
Vũ khí tấn công hoàn toàn mới duy nhất của các lực lượng hải quân châu Âu sẽ là tên lửa hành trình SCALP Navale, có thể triển khai trên các frigate lớp Aquitaine và tàu ngầm tấn công lớp Barracuda của Hải quân Pháp.
Ngoài ra, đang trở nên khá phổ biến ở cựu lục địa là việc đóng tàu tuần tra viễn dương (đang tiến hành ở Hà Lan, Đan Mạch, Pháp). Với kích thước và lượng giãn nước như một frigate, chúng chỉ được trang bị mấy khẩu pháo, mà thường là cỡ nòng nhỏ, và khi đóng có ứng dụng nhiều công nghệ dân sự.
Trong thập niên 1960-1980, lớp tàu corvette và xuồng (trước hết là xuồng tên lửa) đã phát triển rất nhanh. Nhưng nay thì rõ ràng là chúng chỉ phù hợp với hải quân các nước nhỏ hoặc các nước có bờ biển rất phức tạp (ví dụ như khu vực Scandinavia hay biển Aegea). Các tàu corvette và xuồng chiến đấu có hệ thống phòng không rất yếu và hầu như không có năng lực chống ngầm, điều này làm giảm giá trị khả năng tấn công của chúng.
Cực kỳ không thành công là cả hai biến thể tàu chiến ven bờ LCS của Mỹ mặc dù Mỹ đang tiếp tục đóng các tàu này.
Các xuồng tên lửa (tàu tên lửa nhỏ) tuyệt đại đa số đã bị các nước châu Âu loại bỏ. Tuy nhiên, xuồng tên lửa vẫn được sử dụng ở các nước có khả năng kinh tế eo hẹp. Sở hữu hạm đội “tàu muỗi” đông đảo nhất vẫn là Trung Quốc. Sau khi loại bỏ một số lượng lớn các xuồng tên lửa cũ, Trung Quốc đang đóng 60-80 xuồng tên lửa 022 dựa trên thiết kế tàu hai thân cao tốc của hãng Austal (Australia).
Xu hướng chủ yếu trong phát triển tàu ngầm sẽ là tiếp tục nâng cao tính bí mật. Tuy nhiên, ở đây, người ta hầu như đã đạt đến giới hạn bởi vì không thể giảm độ bộc lộ của các vật thể khá lớn như tàu ngầm xuống đến mức bằng không. Thậm chí nếu như bằng cách nào đó có thể triệt tiêu hoàn toàn độ bộc lộ âm thanh và từ tính của tàu ngầm thì cũng không thể loại bỏ được trường trọng lực và vệt nước của chúng.
Tiềm năng để tăng tốc độ tàu ngầm cũng hầu như đã hết. Quả thực là còn rất lâu mới đạt đến giới hạn độ sâu lặn của tàu ngầm. Mục tiêu cuối cùng có thể là cái mốc 1 km.
Đồng thời, định hướng “đối bờ” của hải quân cũng làm giảm tỷ lệ tàu ngầm trong hải quân và dịch chuyển trọng tâm sang các tàu mặt nước.
Việc Mỹ có trong tay 11 tàu sân bay hạt nhân khiến các quốc gia khác hầu như không thể ganh đua với người Mỹ về mặt đóng “sân bay nổi”. Tuy nhiên, lợi dụng những khó khăn kinh tế của Washington, Trung Quốc sẽ cố tìm cách lao vào cuộc đua này (ít ra là ở Thái Bình Dương). Nếu không có ý định đó thì Trung Quốc đã không tiến hành các thử nghiệm với tàu sân bay Varyag, vốn chẳng phải là một tàu sân bay thực thụ và chỉ có khả năng làm tàu chở máy bay huấn luyện-thử nghiệm cho hải quân Trung Quốc. Nếu như Trung Quốc bỏ công sức ra với nó, nghĩa là sau đó họ sẽ bắt đầu đóng các tàu sân bay thực sự và dĩ nhiên họ sẽ tậu lấy không chỉ 1-2 tàu sân bay.
Việc tiếp tục gia tăng kích thước các tàu sân bay và cải tiến cơ bản chúng khó lòng mà thực hiện được. Rõ ràng là người ta đã đạt được sự hoàn thiện với sự xuất huận của tàu sân bay lớp Nimitz. Từ nay, chỉ có thể có những cải tiến không đáng kể ở những bộ phận đơn lẻ. Liên quan đến các tàu sân bay kiểu Anh, tức là các tàu sân bay nhỏ với các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng, thì đây có thể là nhánh phát triển bế tắc, hơn nữa các máy bay cất/hạ cánh thẳng đứng Harrier đang bị loại khỏi trang bị, còn việc thay thế chúng bằng các máy bay F-35В là chưa rõ ràng do những khó khăn lớn của máy bay tiêm kích đa năng này.
Phương án duy nhất để đem lại cho các tàu sân bay một chất lượng mới là chế tạo các máy bay không người lái (UAV) chiến đấu trên hạm. Bởi lẽ, chúng hiển nhiên sẽ có kích thước nhỏ hơn (và không đắt như thế) so với các máy bay có người lái, điều đó sẽ cho phép triển khai trên tàu sân bay nhiều UAV hơn so với các máy bay có người lái hiện nay. Ngoài ra, việc đào tạo nhân viên điều khiển UAV đơn giản và rẻ hơn nhiều đào tạo phi công tàu sân bay. Phương án hiện thực nhất là lập ra các phi đoàn trên hạm hỗn hợp, bao gồm các máy bay (tiêm kích) có người lái và các UAV (trinh sát và tiến công).
Tàu chiến mặt nước - Những lựa chọn của phương Tây và phương Đông
Các tàu mặt nước cỡ lớn - không chỉ là các tàu tuần dương mà cả các tàu khu trục - đã từ “những con ngựa ô” biến hẳn thành “đồ xa xỉ”. Hơn nữa, hiện nay, lớp tàu tuần dương, lặp lại số phận chủ lực hạm, đang kết thúc sự tồn tại của mình. Có thể dự đoán rằng, vào năm 2040, trên thế giới sẽ không còn lấy một tàu tuần dương.
Bên cạnh đó, chính các tàu tuần dương lớp Ticonderoga (kể từ chiếc thứ 6 trong loạt 27 chiếc) của Mỹ được coi là người đặt nền móng cho một xu hướng mới trong phát triển tàu mặt nước phi tàu sân bay. Hệ thống Aegis và các bệ phóng thẳng đứng Mk41 đã đem lại cho chúng những khả năng hoàn toàn mới khi cho phép gần như phóng đồng thời 122 tên lửa thuộc ba loại và nhiều biến thể.
Tiếp sau các tàu Ticonderoga, các tàu khu trục Arleigh Burke mà Mỹ đã đưa vào sử dụng 60 chiếc (tổng cộng sẽ có 65-99 chiếc) đã biến các lớp tàu này từ “các tàu hộ vệ cho các tàu sân bay” trở thành một lực lượng chiến đấu đa năng độc lập cực mạnh. Người Mỹ đang định phát huy xu hướng này bằng các tàu khu trục tương lai lớp Zumwalt vốn định hướng hầu như chỉ để tác chiến đối bờ, nhưng chúng lại quá đắt, vì vậy họ sẽ chỉ đóng 3 tàu, chứ không phải 32 chiếc như dự định ban đầu.
Cũng đi theo con đường của Mỹ là các quốc gia ở Đông Á (và cả Ấn Độ “ở sát đó”), khu vực mà sức mạnh quân sự chủ yếu của Mỹ đang dịch chuyển đến từ không gian châu Âu. Kết quả là tàu mặt nước không phải là tàu sân bay đáng sợ nhất nay hoàn toàn không phải là tuần dương hạm Ticonderoga của Mỹ, cũng như không phải tuần dương hạm Piotr Đại đế của Nga mà là khu trục hạm Sejon Đại đế của Hàn Quốc.
Hàn Quốc trong một khoảng thời gian rất ngắn đã đóng được cho hải quân của họ 12 tàu khu trục tối tân mà mạnh nhất trong đó là 3 tàu lớp KDX-3 (Sejon Đại đế là tàu đầu tiên). Chúng được trang bị hệ thống Aegis, các bệ phóng tên lửa thẳng đứng với 80 tên lửa phòng không có điều khiển Standart, 32 tên lửa hành trình Hyunmoo-3 (có tính năng tương đương Tomahawk, nhưng tầm bắn ngắn hơn) và 16 tên lửa chống tàu ngầm có điều khiển Red Shark, cũng như 4 bệ phóng (mỗi bệ) mang 4 tên lửa hành trình chống hạm Hae Sung.
Cần lưu ý rằng, tất cả những tên lửa này, trừ Standart, đều là tên lửa do Hàn Quốc phát triển (tuy có ảnh hưởng của các loại tên lửa tương tự của Mỹ). Như vậy, trên bệ phóng thẳng đứng vạn năng của tàu bố trí 128 tên lửa cộng với 16 tên lửa chống hạm trong các bệ phóng dạng container.
Nhật Bản sở hữu một đội tàu khu trục lớn (hơn 40 chiếc). Hiện đại nhất trong số đó là 4 tàu lớp Kongo và 2 tàu lớp Asago được trang bị hệ thống Aegis và hệ thống phóng thẳng đứng Мк41, cũng như 9 tàu lớp Murasame và 5 tàu lớp Takanami.
Tuy nhiên, trong tương lai gần, Trung Quốc sẽ vượt Nhật về số lượng tàu khu trục. Trung Quốc đã hoàn thành các thử nghiệm với các phương án tàu khu trục khác nhau. Hiện nay, Trung Quốc có 25 tàu khu trục thuộc 7 lớp khác nhau và đã chuyển sang đóng ồ ạt các tàu chiến theo thiết kế cải tiến của lớp 052С (có thể nó sẽ được gọi là 052D).
Hiện có ít nhất 6 tàu khu trục lớp này đang nằm trên triền đà, còn sẽ có tổng cộng bao nhiều tàu sẽ đưa vào sử dụng chỉ có thể đoán. Các tàu này được trang bị tên lửa hành trình HN-2 và С-805, tên lửa chống hạm YJ-62, cũng như hệ thống tên lửa phòng không HНQ-9.
Đáng chý ý là 2 tàu khu trục lớp 052С đầu tiên được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Fort (S-300F) của Nga có các bệ phóng dạng ổ quay đặc trưng cho các tàu của Hải quân Nga (vì thế, tại mỗi thời điểm, chỉ có 1 trong 8 quả tên lửa phòng không ở mỗi bệ phóng trong 6 bệ phóng ở tư thế sẵn sàng phóng). Tất cả các tàu khu trục sau đó được trang bị hệ thống tên lửa phòng không Trung Quốc với các tên lửa được bố trí trong bệ phóng thẳng đứng thông thường (nghĩa là toàn bộ 48 tên lửa đồng thời ở tư thế sẵn sàng phóng).
Cuối cùng, Ấn Độ cũng đang tăng cường khả năng cho các tàu khu trục của họ, ngoài ra, các tên lửa hành trình Nga-Ấn BrahMos còn được lắp cho cả 5 tàu khu trục cũ lớp Rajput. Các tàu lớp Delhi chỉ được trang bị tên lửa chống hạm Uran, nhưng biến thể cải tiến của các tàu này là các tàu khu trục lớp Calcuta (dự kiến đóng 7-11 chiếc) sẽ được trang bị BrahMos bố trí trong hệ thống phóng thẳng đứng.
Như vậy, 4 quốc gia châu Á này hiện có tổng cộng gần 90 tàu khu trục, đồng thời, số lượng tàu khu trục trong tương lai gần sẽ còn tăng hơn nữa.
Còn châu Âu hiện chỉ còn vẻn vẹn 25 tàu khu trục, hơn nữa 12 chiếc trong số đó sẽ bị loại bỏ. Thay thế cho các tàu đang bị giải nhiệm sẽ chỉ là 3 tàu khu trục.
Nhưng thậm chí trên các tàu khu trục được coi là hiện đại như các tàu khu trục lớp Horizon của Pháp-Italia (Pháp và Italia mỗi nước có 2 chiếc), De Zeven Provinciën của Hà Lan (4 chiếc), Daring của Anh (có 3 chiếc, đang đóng 3 chiếc) thì thấy rất rõ khuynh hướng phòng thủ trong vũ khí trang bị.
Điều đó đặc biệt nổi bật ở các tàu lớp Daring khi chỉ được trang bị tên lửa phòng không mà không có tên lửa hành trình và tên lửa chống hạm (tuy có dự phòng vị trí lắp đặt chúng). Nghĩa là, hiện tại, các tàu khu trục này có khả năng đánh chặn các cuộc tấn công từ bờ bằng hệ thống tên lửa phòng không, nhưng chẳng có gì để thực hiện đòn đánh trả.
Các tàu frigate đang nổi lên thay thế cho các tàu khu trục ở vai trò “ngựa ô” trong các hạm đội tàu mặt nước của đa số các quốc gia. Cần lưu ý rằng, các tàu khu trục của châu Á (các tàu lớp Giang Khải 054A của Trung Quốc, lớp Incheon tương lai của Hàn Quốc, Talwar và Shivalik của Ấn Độ) đang được đóng như “các tàu khu trục thu nhỏ”, nghĩa là các tàu chiến đa nhiệm dành cho chiến tranh quy mô lớn. Cụ thể là để tác chiến đối bờ bằng tên lửa hành trình (HN-2 trên lớp 054, Hyunmoo trên lớp Incheon, BrahMos trên các tàu của Ấn Độ).
Cũng như khu trục hạm, trên các frigate của châu Âu, người ta ưu tiên cho các phương tiện phòng không. Theo triết lý đó, người ta đã đóng thậm chí những frigate tốt nhất trang bị hệ thống Aegis như các tàu lớp Álvaro de Bazán của Tây Ban Nha và Fridtjof Nansen của Nauy.
Vũ khí tấn công hoàn toàn mới duy nhất của các lực lượng hải quân châu Âu sẽ là tên lửa hành trình SCALP Navale, có thể triển khai trên các frigate lớp Aquitaine và tàu ngầm tấn công lớp Barracuda của Hải quân Pháp.
Ngoài ra, đang trở nên khá phổ biến ở cựu lục địa là việc đóng tàu tuần tra viễn dương (đang tiến hành ở Hà Lan, Đan Mạch, Pháp). Với kích thước và lượng giãn nước như một frigate, chúng chỉ được trang bị mấy khẩu pháo, mà thường là cỡ nòng nhỏ, và khi đóng có ứng dụng nhiều công nghệ dân sự.
Trong thập niên 1960-1980, lớp tàu corvette và xuồng (trước hết là xuồng tên lửa) đã phát triển rất nhanh. Nhưng nay thì rõ ràng là chúng chỉ phù hợp với hải quân các nước nhỏ hoặc các nước có bờ biển rất phức tạp (ví dụ như khu vực Scandinavia hay biển Aegea). Các tàu corvette và xuồng chiến đấu có hệ thống phòng không rất yếu và hầu như không có năng lực chống ngầm, điều này làm giảm giá trị khả năng tấn công của chúng.
Cực kỳ không thành công là cả hai biến thể tàu chiến ven bờ LCS của Mỹ mặc dù Mỹ đang tiếp tục đóng các tàu này.
Các xuồng tên lửa (tàu tên lửa nhỏ) tuyệt đại đa số đã bị các nước châu Âu loại bỏ. Tuy nhiên, xuồng tên lửa vẫn được sử dụng ở các nước có khả năng kinh tế eo hẹp. Sở hữu hạm đội “tàu muỗi” đông đảo nhất vẫn là Trung Quốc. Sau khi loại bỏ một số lượng lớn các xuồng tên lửa cũ, Trung Quốc đang đóng 60-80 xuồng tên lửa 022 dựa trên thiết kế tàu hai thân cao tốc của hãng Austal (Australia).
Các xu hướng phát triển hải quân trên thế giới: tàu đổ bộ và vũ khí hạm tàu:
Tàu đổ bộ
Trong 20 năm gần đây, ở các nước châu Âu có sự gia tăng đáng kể số lượng tàu đổ bộ.
Anh đã đóng 1 tàu đổ bộ vạn năng HMS Ocean, 2 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp Albion và 4 tàu đốc vận tải-đổ bộ lớp Bay.
Italia đã đóng nốt loạt tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp San Giorgio (đến 3 chiếc) vốn bắt đầu được đóng 1980, ngoài ra còn tàu sân bay hạng nhẹ Cavour mà về thực chất là tàu đổ bộ vạn năng.
Còn Tây Ban Nha thì đã đóng các tàu đổ bộ vạn năng lớp Juan Carlos và 2 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp Galicia để thay thế các tàu đổ bộ cũ lạc hậu của Mỹ.
Hà Lan, quốc gia trong thời chiến tranh lạnh không hề có các tàu đổ bộ thì trong những năm 2000 đã mua sắm 2 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng Rotterdam và Johan de Witt.
Pháp hiện có 2 tàu đổ bộ vạn năng lớp Mistral và dự kiến sẽ đóng thêm 1 chiếc nữa.
Dự đoán, Đức sẽ đóng 2-3 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng hoặc tàu đổ bộ vạn năng cho hải quân của họ.
Nếu như vào đầu thập niên 1990, cứ hơn 13 tàu hộ tống (tàu tuần dương, tàu khu trục, frigate) mới có 1 tàu đổ bộ cỡ lớn, thì này chỉ là hơn 5 tàu khu trục và frigate một chút.
Các tàu đổ bộ lớn của châu Âu có vũ khí cực yếu, thuần túy có tính tượng trưng và cũng có khả năng bảo vệ kết cấu tượng trưng như vậy.
Kết hợp với việc giảm số lượng tàu hộ tống, điều đó có nghĩa là người ta dự định sử dụng các tàu đổ bộ không phải trong các chiến dịch quân sự truyền thống mà là trong các chiến dịch cảnh sát-kiến tạo hòa bình, khi mà người ta trù tính là không hề có sự kháng cự thực sự nào của đối phương. Trong trường hợp đó, các tàu đổ bộ không phải đóng vai trò như các tàu “xung kích” mà là các căn cứ nổi (trong đó có căn cứ nổi để nghỉ ngơi) cho các lực lượng mặt đất và các sở chỉ huy tiềm năng cho toàn bộ chiến dịch kiến tạo hòa bình.
Dẫu sao, người ta cũng trù tính lực lượng bảo vệ với một số lượng nhỏ các tàu frigate có thiên hướng phòng không. Đan Mạch đã đưa khái niệm này đến mức hoàn thiện mà minh chứng là tàu HDMS Absalon, một loại tàu lai frigate và tàu đổ bộ.
Sự phát triển của lớp tàu đổ bộ ở Mỹ đi theo khái niệm “xung kích” truyền thống hơn. Tuy nhiên, ranh giới giữa các tàu sân bay và tàu đổ bộ vạn năng đang trở nên mờ nhạt, nhất là trong bối cảnh sự phát triển của máy bay không người lái trên hạm. Các tàu đó rõ ràng là sẽ được bổ trợ bằng các tàu đổ bộ cao tốc dạng hai thân (các tàu này sẽ thay thế cho các tàu đổ bộ tăng trước đây).
Các quốc gia châu Á tất nhiên cũng sẽ đi theo xu hướng này. Các tàu đổ bộ cỡ lớn đang được đóng ở Trung Quốc (4 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp 071), Nhật Bản (3 tàu đốc vận tải đổ bộ lớp Osumi) và Hàn Quốc (4 tàu đốc đổ bộ chở trực thăng lớp Dokdo). Ấn Độ cũng đã mua từ Mỹ đốc đổ bộ chở trực thăng đầu tiên và hiện là duy nhất của họ.
Vũ khí hạm tàu
Các dạng hệ thống vũ khí hải quân khá khác thường đang xuất hiện ở các nước châu Á. Ví dụ, tên lửa chiến dịch-chiến thuật Dhanush của Ấn Độ vốn là biến thể của tên lửa đường đạn Prithvi II, là tên lửa đường đạn duy nhất trên thế giới phóng từ tàu nổi, hơn nữa lại chỉ là tàu tuần tra. Hoàn toàn có khả năng Ấn Độ sẽ triển khai tên lửa đường đạn có tầm bắn khác nhau (từ tên lửa chiến thuật cho đến tên lửa tầm trung) trên cả các tàu ngầm lẫn tàu mặt nước.
Tên lửa hành trình, như đã nói ở trên, đang là “chủ lưu”. Các tên lửa chống hạm dưới âm truyền thống sẽ ngày càng bị thay thế bởi các tên lửa siêu âm và sau đó là siêu vượt âm, chính các tên lửa này sẽ trở thành khó khăn chủ yếu đối với hệ thống phòng không hạm tàu.
Cũng giống như trường hợp với phòng không mặt đất, một trong những phương án giải quyết nhiệm vụ này có thể là phát triển vũ khí laser.
Do tính không thể thay thế của tàu ngầm, nên cũng không có gì thay thế được ngư lôi, kể cả với tư cách vũ khí chống ngầm, các xu hướng phát triển chính của ngư lôi vẫn sẽ là tăng tốc độ và nâng cao uy lực chiến đấu của đầu đạn.
Pháo sẽ vẫn được duy trì trên tàu chiến với tư cách vũ khí phòng vệ. Nhưng cũng không thể loại trừ khả năng, trong bối cảnh tiếp tục tăng tầm bắn, pháo sẽ lại trở thành vũ khí chủ lực trong hải chiến trong trường hợp tên lửa hành trình phóng từ hạm tàu dùng để tấn công mục tiêu mặt đất sẽ ngày càng đẩy tên lửa chống hạm khỏi trang bị của tàu chiến.
Ngoài ra, ta cũng không được phủ nhận khả năng pháo tàu lại được tăng cỡ nòng. Khi đó, đạn pháo (có thể là có điều khiển) sẽ là vũ khí thay thế rẻ hơn, nhưng rất hiệu quả cho tên lửa chống hạm, mà lại khó bị phòng không đối phương chặn đánh (nếu như không chế tạo vũ khí laser).
Liên quan các hệ thống không người lái thì chúng hiện đã được sử dụng làm phương tiện quét lôi và hiển nhiên là sẽ được hoàn thiện.
Một xu hướng phát triển khác của chúng là phát triển các tàu ngầm tự hoạt để tác chiến chống tàu ngầm. Các phương tiện như thế có khả năng hoạt động nhiều tháng trời và sẽ trở thành phương tiện chống ngầm thực sự hiệu quả trong lịch sử. Tuy nhiên, ở đây, cần giải quyết vấn đề nhận dạng tin cậy tàu ngầm vốn là một vấn đề cực kỳ phức tạp.
Sự khốn khó của Hải quân NgaHải quân Nga đáng tiếc là không hề ăn nhập vào xu hướng nào khi trở thành một tập hợp các đơn vị chiến đấu phân tán trên 5 chiến trường biển và đại dương (thậm chí là 6 nếu tính đến yếu tố các phân hạm đội Kamchatka và Primorie của Hạm đội Thái Bình Dương sẽ buộc phải tác chiến tách rời nhau một khi chiến tranh thực sự nổ ra).
Quyết định quay lại với các thiết kế tàu chiến cũ (frigate lớp Projekt 11356, tàu ngầm Projekt 636) thật kỳ lạ lại là biện pháp nửa vời duy nhất hợp lý trong tình hình này, nếu không thì chỉ trong những năm sắp tới, Nga sẽ hoàn toàn không còn hải quân. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp nửa vời.
Vấn đề chủ yếu thậm chí không phải là ở chỗ các tàu thuộc các thiết kế mới có những vấn đề kỹ thuật nghiêm trọng mà là ở tính không hệ thống trong phát triển Hải quân Nga. Ví dụ, hoàn toàn không thể hiểu, Nga cần các corvette lớp Projekt 20380 (hay thậm chí lớp cải tiến Projekt 20385) để làm gì, đó là chưa nói đến các tàu sân bay trực thăng Mistral.
Đáng tiếc là trong phần lớn lịch sử nước Nga, hạm đội luôn ở tình trạng “bị bỏ rơi” khi được cấp kinh phí và phát triển theo lối được chăng hay chớ. Và nay quá trình này đã đi đến kết cục logic của nó. Nếu như các quân chủng khác của quân đội dẫu sao vẫn còn cơ cơ may để hồi phục thì sự sụp đổ của hải quân lại là không tránh khỏi.
Dĩ nhiên, nó không biến mất hoàn toàn, nhưng nó sẽ không thể đối phó được bất kỳ đối phương thực sự nào ở bất kỳ chiến trường nào (có chăng là ở biển Caspie) ít nhất trong một thời gian rất dài.
Các dạng hệ thống vũ khí hải quân khá khác thường đang xuất hiện ở các nước châu Á. Ví dụ, tên lửa chiến dịch-chiến thuật Dhanush của Ấn Độ vốn là biến thể của tên lửa đường đạn Prithvi II, là tên lửa đường đạn duy nhất trên thế giới phóng từ tàu nổi, hơn nữa lại chỉ là tàu tuần tra. Hoàn toàn có khả năng Ấn Độ sẽ triển khai tên lửa đường đạn có tầm bắn khác nhau (từ tên lửa chiến thuật cho đến tên lửa tầm trung) trên cả các tàu ngầm lẫn tàu mặt nước.
Tên lửa hành trình, như đã nói ở trên, đang là “chủ lưu”. Các tên lửa chống hạm dưới âm truyền thống sẽ ngày càng bị thay thế bởi các tên lửa siêu âm và sau đó là siêu vượt âm, chính các tên lửa này sẽ trở thành khó khăn chủ yếu đối với hệ thống phòng không hạm tàu.
Cũng giống như trường hợp với phòng không mặt đất, một trong những phương án giải quyết nhiệm vụ này có thể là phát triển vũ khí laser.
Do tính không thể thay thế của tàu ngầm, nên cũng không có gì thay thế được ngư lôi, kể cả với tư cách vũ khí chống ngầm, các xu hướng phát triển chính của ngư lôi vẫn sẽ là tăng tốc độ và nâng cao uy lực chiến đấu của đầu đạn.
Pháo sẽ vẫn được duy trì trên tàu chiến với tư cách vũ khí phòng vệ. Nhưng cũng không thể loại trừ khả năng, trong bối cảnh tiếp tục tăng tầm bắn, pháo sẽ lại trở thành vũ khí chủ lực trong hải chiến trong trường hợp tên lửa hành trình phóng từ hạm tàu dùng để tấn công mục tiêu mặt đất sẽ ngày càng đẩy tên lửa chống hạm khỏi trang bị của tàu chiến.
Ngoài ra, ta cũng không được phủ nhận khả năng pháo tàu lại được tăng cỡ nòng. Khi đó, đạn pháo (có thể là có điều khiển) sẽ là vũ khí thay thế rẻ hơn, nhưng rất hiệu quả cho tên lửa chống hạm, mà lại khó bị phòng không đối phương chặn đánh (nếu như không chế tạo vũ khí laser).
Liên quan các hệ thống không người lái thì chúng hiện đã được sử dụng làm phương tiện quét lôi và hiển nhiên là sẽ được hoàn thiện.
Một xu hướng phát triển khác của chúng là phát triển các tàu ngầm tự hoạt để tác chiến chống tàu ngầm. Các phương tiện như thế có khả năng hoạt động nhiều tháng trời và sẽ trở thành phương tiện chống ngầm thực sự hiệu quả trong lịch sử. Tuy nhiên, ở đây, cần giải quyết vấn đề nhận dạng tin cậy tàu ngầm vốn là một vấn đề cực kỳ phức tạp.
Sự khốn khó của Hải quân NgaHải quân Nga đáng tiếc là không hề ăn nhập vào xu hướng nào khi trở thành một tập hợp các đơn vị chiến đấu phân tán trên 5 chiến trường biển và đại dương (thậm chí là 6 nếu tính đến yếu tố các phân hạm đội Kamchatka và Primorie của Hạm đội Thái Bình Dương sẽ buộc phải tác chiến tách rời nhau một khi chiến tranh thực sự nổ ra).
Quyết định quay lại với các thiết kế tàu chiến cũ (frigate lớp Projekt 11356, tàu ngầm Projekt 636) thật kỳ lạ lại là biện pháp nửa vời duy nhất hợp lý trong tình hình này, nếu không thì chỉ trong những năm sắp tới, Nga sẽ hoàn toàn không còn hải quân. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp nửa vời.
Vấn đề chủ yếu thậm chí không phải là ở chỗ các tàu thuộc các thiết kế mới có những vấn đề kỹ thuật nghiêm trọng mà là ở tính không hệ thống trong phát triển Hải quân Nga. Ví dụ, hoàn toàn không thể hiểu, Nga cần các corvette lớp Projekt 20380 (hay thậm chí lớp cải tiến Projekt 20385) để làm gì, đó là chưa nói đến các tàu sân bay trực thăng Mistral.
Đáng tiếc là trong phần lớn lịch sử nước Nga, hạm đội luôn ở tình trạng “bị bỏ rơi” khi được cấp kinh phí và phát triển theo lối được chăng hay chớ. Và nay quá trình này đã đi đến kết cục logic của nó. Nếu như các quân chủng khác của quân đội dẫu sao vẫn còn cơ cơ may để hồi phục thì sự sụp đổ của hải quân lại là không tránh khỏi.
Dĩ nhiên, nó không biến mất hoàn toàn, nhưng nó sẽ không thể đối phó được bất kỳ đối phương thực sự nào ở bất kỳ chiến trường nào (có chăng là ở biển Caspie) ít nhất trong một thời gian rất dài.
Nguồn: Aleksandr Khramchikhin, Phó Giám đốc Viện Phân tích Chính trị và Quân sự (Nga) // VPK, N.23 (440), 13/6/2012.
http://vietnamdefence.com/Home/ktqs/tongquan/Xu-huong-phat-trien-hai-quan-the-gioi-1/20129/51968.vnd
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét