(VTC News) - Đất nước Việt Nam nhỏ bé mà
anh hùng. Trải ngàn năm Bắc thuộc mà không quỳ gối. Những quốc gia hùng
mạnh nhất thế giới cũng bị đánh đuổi. Người Việt Nam hiền hậu, nhưng
hàng ngàn năm qua chẳng mấy khi được yên bình.
VTC News xin giới thiệu loạt bài viết của Nhà sử học Đặng Hùng, để chúng ta thêm tự hào về tổ tiên anh dũng của mình.
Bài 1: Nhà Tống muối mặt vì thất bại ê chề
Từ
khi có lịch sử dân tộc, mở đầu bằng quốc gia Văn Lang, dân tộc ta đã
kiên cường, bền bỉ chinh phục thiên nhiên, khai phá đất hoang, quai đê
lấn biển và chống sự xâm lược của ngoại bang để tiếp tục sống và phát
triển, bảo vệ quê hương đất nước.
Vua
Lê Thánh Tông xưa đã từng căn dặn quần thần: “Một thước núi, một tấc
sông của ta không nên vất bỏ... Nếu ngươi dám lấy một thước, một tấc đất
của Thái Tổ (Vua Lê Lợi) mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di...”
(ĐVSKTT-T2-NXBVHTT-Tr.344).
Thông
qua những trang ghi chép của thư tịch cổ, chúng ta có quyền tự hào về
truyền thống anh hùng bất khuất trong đấu tranh giành độc lập dân tộc,
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, xử lý khôn khéo, lúc cương lúc nhu trong chính
sách đối ngoại của tổ tiên xưa.
Tượng Lý Thường Kiệt trong Đại Nam Quốc Tự. |
Mỗi
khi đất nước có họa xâm lăng thì nhân dân ta lại đoàn kết một lòng với
tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” và “Không có gì quý hơn độc
lập tự do” (Hồ Chí Minh).
Tên
tuổi của các vị vua, các vương triều, các danh tướng gắn liền với các
trận đánh lịch sử oai hùng, với các địa danh: Bạch Đằng, Chương Dương,
Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa... đã khiến cho quân xâm lược tháo chạy về tới
cố quốc mà còn tim đập chân run, nghe tiếng trống đồng mà lòng khiếp sợ
đến bạc tóc trên đầu.
Vua
Quang Trung Nguyễn Huệ biểu dụ tướng sĩ trước khi ra Bắc đánh đuổi 20
vạn quân nhà Thanh vào năm 1788 – 1789: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho
để đen răng/ Đánh cho chúng chích luân bất phản/ Đánh cho chúng phiến
giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Đưa quân sang phương Bắc tập kích kẻ xâm lược
Năm
Kỷ Dậu (1009), Vương Triều Lý do Vua Lý Công Uẩn lãnh đạo đã thay nhà
tiền Lê mở đầu kỷ nguyên mới của Quốc gia Đại Việt, đánh dấu một thời kỳ
phát triển mới của nước ta với việc dời đô từ Hoa Lư về kinh thành
Thăng Long (1010).
Thời
kỳ đó nhà Tống đã làm chủ Trung Quốc, nhưng luôn bị các nước nhỏ là
Liêu, Hạ xâm lấn. Vua quan nhà Tống chủ trương đánh nước ta ở phía Nam
để gây thanh thế và sức mạnh, khiến có thể quay lại đánh thắng Liêu, Hạ ở
phía Bắc sau này.
Nhà Tống
mua chuộc chia rẽ các dân tộc miền núi với nhân dân miền xuôi, cắt quan
hệ buôn bán với Đại Việt, cho người đóng thuyền, tích trữ lương thực,
luyện tập thủy quân, gây rối biên giới, lôi kéo Chiêm Thành nhằm uy hiếp
và tấn công xâm chiếm nước ta.
Ngôi mộ ở Hưng Yên nghi của Lý Thường Kiệt. Ảnh: Phạm Ngọc Dương. |
Các
châu Ung – Khâm – Liêm (thuộc Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) trở thành
căn cứ quan trọng, nơi tập trung quân đội, lương thực, khí giới của
quân Tống chuẩn bị cho cuộc tấn công Đại Việt vào năm 1075.
Trước
âm mưu và hành động xâm lược ngày càng rõ rệt của giặc Tống, Phụ quốc
Thái úy Lý Thường Kiệt chủ trương: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem
quân ra trước chặn thế mạnh của giặc...”. Triều đình nhà Lý đồng ý với
chủ trương triệt phá âm mưu xâm lược của nhà Tống ngay khi còn trong
“trứng nước”. Vua Lý Nhân Tông “sai Lý Thường Kiệt và tướng Tôn Đản đem
hơn 10 vạn binh đi đánh; đường thuỷ, đường bộ đều tiến” (ĐVSKTT-Tr.328).
Trước tiên Lý Thường Kiệt
vạch ra kế hoạch dùng 4 vạn quân (phần lớn là thổ binh tấn công giặc ở
biên giới, nhằm thu hút lực lượng địch). Sau đó cho 6 vạn quân vượt
biển, bất ngờ đổ bộ đánh chiếm các cảng Khâm (Khâm Châu), Liêm (Hợp Phố)
rồi sau đó tiến về thành Ung Châu (Nam Ninh) hợp với đạo quân từ biên
giới theo hướng huyện Vĩnh Bình đánh sang.
Ngày
15/9 (20/6/1075) suốt dọc biên giới từ Quảng Yên (Cao Bằng) tới Vĩnh An
(Móng Cái) quân ta bất ngờ tấn công phá hủy tất cả đồn trại và tiêu
diệt nhiều binh lính, tướng lĩnh địch. Bị đánh đòn sấm sét phủ đầu, quân
Tống không kịp đối phó, phần thì bị quân ta tiêu diệt, phần thì buông
vũ khí đầu hàng hoặc bỏ chạy.
Ngày
20/10 (30/12/1075) đại quân ta đổ bộ lên Cảng Khâm (cánh quân thủy),
địch lại hoàn toàn bị bất ngờ, nhanh chóng bị tiêu diệt hoàn toàn. 4
ngày sau một cánh quân khác của ta đổ bộ bất ngờ vào cảng Liêm, hạ luôn
thành này. Từ Châu Liêm một bộ phận quân ta tiến về phía thành Ung Châu
nhằm ngăn chặn và tiêu diệt viện binh giặc từ phía Đông và phía Bắc kéo
tới.
Trên hai hướng, 10 vạn
quân Đại Việt tiến sâu vào đất Tống với mục tiêu chính là triệt phá căn
cứ thành Ung Châu với danh nghĩa chỉ đánh quân Tống để giữ nước và đồng
thời nhân đó giúp đỡ những người dân nghèo khổ (nhân dân Tống) bị triều
đình nhà Tống bóc lột, nên quân đội Đại Việt đã tranh thủ được sự cảm
tình và ủng hộ của nhân dân nước Tống ở các thành trên.
Ngày
10 tháng Chạp (18/1/1076), đại quân ta vây chặt thành Ung Châu. Đoán
chắc địch có thể từ phía Bắc cứu viện thành Ung Châu, trong lúc đang vây
thành, Lý Thường Kiệt đã bí mật phái một đạo quân tiến lên phía Côn Lôn
Quan (cách Ung Châu khoảng 40km về phía Bắc – nay là phủ Nam Ninh, tỉnh
Quảng Đông) để chặn địch từ Quế Lâm kéo xuống.
Đúng
như dự đoán, Đô giám Quảng Tây (Nhà Tống) là Trương Thủ Tiết đem quân
đến cứu, bị quân đội Đại Việt phục kích, bất ngờ tấn công, chém Thủ Tiết
chết tại trận, khiến quân giặc hoảng sợ tháo chạy tán loạn.
Ngày
4 tháng Giêng (sau 42 ngày vây hãm giặc – quân ta dùng bao đất chồng
lên cao ngang mặt thành – do đó đã tiến quân được vào thành và hạ thành
Ung Châu, tiêu diệt và bắt sống nhiều quân địch).
Sau
khi đã phá tan căn cứ hậu cần quan trọng của giặc, làm phá sản kế hoạch
đánh úp nước ta của nhà Tống, Lý Thường Kiệt chủ trương rút quân về
nước để củng cố các cứ điểm quan trọng, chuẩn bị chống quân Tống xâm
lược sau này.
Đập tan đội quân xâm lược nhà Tống trên đất Đại Việt
“Bính
Thìn, năm thứ 5 (1076) – Tống Hy Ninh năm thứ 9) mùa Xuân, tháng 3, nhà
Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo Sứ, Triệu
Tiết làm phó tướng, đem quân và 9 tướng hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp
sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đón đánh. Đến sông Như
Nguyệt đánh tan địch. Quân Tống bị chết hơn 1000 người. Quách Quỳ lui
quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta”.
“Tân
Dậu năm thứ 6 (1081) – Tống Nguyên Phong năm thứ 4 – trả lại cho nhà
Tống những binh lính bắt được ở 3 châu Ung - Khâm - Liêm vì cớ nhà Tống
trả lại ta các châu Quảng Nguyên” (ĐVSKTT – Tr.333).
Tháng
10/1076, Quách Quỳ được vua Tống cử làm thống soái chỉ huy 10 vạn quân
chiến đấu và 20 vạn quân tải lương tấn công Đại Việt. Đại quân tiến theo
hướng Lạng Sơn rồi vào thành Thăng Long. Thủy quân sẽ dọc theo ven biển
vào sông Bạch Đằng, tạo thế gọng kìm để tấn công Đại Việt. Sau khi đánh
tan các đạo quân thủy bộ của ta, chúng sẽ hội quân, dùng thuyền vượt
sông Hồng đánh chiếm Thăng Long.
Sau
chiến thắng Ung Châu quân ta đã rút về nước. Biết trước quân Tống sẽ
sang xâm lược, triều đình nhà Lý đã chủ động tích cực chuẩn bị đối phó
với quân Tống.
Tranh Lý Thường Kiệt. |
Ở
khu vực sát biên giới, thổ binh, hương binh bố trí ở các nơi hiểm yếu
để sẵn sàng tiêu hao, ngăn chặn địch. Quân đội triều đình do phò mã Thân
Cảnh Phúc chỉ huy phục kích ở ải Quyết Lý và giáp khẩu (Châu Ôn và Chi
Lăng). Ven biển có thủy quân đóng ở căn cứ Vân Đồn (thuộc Quảng Yên)
phối hợp với quân bộ đóng ở Ngọc Sơn (Móng Cái) có nhiệm vụ ngăn chặn
địch trên vùng biển Đông Kênh (Quảng Ninh).
Chiến
tuyến chính của ta là ở trung du, dựa vào bờ nam sông Như Nguyệt đắp đê
cao, rào cọc tre, phên dậu ken dày chạy dài từ sườn Đông Bắc dãy Tam
Đảo đến sườn Tây Nam dãy núi Nham Điền (Yên Dũng – Hà Bắc), khoảng
100km. Dưới sông, thủy quân ta tập trung trên 400 chiến thuyền đóng tại
vùng Vạn Xuân (Phả Lại) sẵn sàng cơ động đánh địch ở các hướng.
Cuối
tháng 11/1076, quân Tống đánh chiếm Quảng Yên. Ngày 1 tháng Chạp (1077)
đại quân Tống chia làm nhiều đường tấn công Lạng Sơn. Quân Tống chiếm
được các châu Ôn, Quyết Lý, Quang Lang, rồi theo đường tắt vượt qua dãy
Bắc Sơn tiến đến sông Phú Lương (sông Cầu thuộc địa phận Thái Nguyên
ngày nay).
Một cánh quân địch
tấn công lực lượng của phò mã Thân Cảnh Phúc. Quân ta phân tán vào rừng
núi, dùng lối đánh tỉa, đánh úp, phục kích tấn công vào các đoàn tải
lương của địch. Ngày 21 tháng Chạp (18/1/1077) quân Tống do Quách Quỳ và
Miêu Lý chỉ huy đóng ở trên đoạn bến sông Như Nguyệt và ở Thị Cầu.
Trên
biển, thủy quân ta phục kích chặn đánh tiêu diệt và đẩy lui thủy quân
Tống. Chờ mãi không thấy thủy quân đến, Quách Quỳ cho đóng thuyền bè chở
quân vượt sông Như Nguyệt tấn công chiến tuyến phòng thủ của ta.
Bị thất bại nhiều lần, Quách Quỳ phải rút quân cố thủ ở bờ Bắc sông Như Nguyệt và hạ lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém”.
Quân
địch bị tấn công cả ở phía trước và phía sau, lương thực bị thiếu trầm
trọng, lòng quân hoang mang dao động. Nằm chắc thời cơ Lý Thường Kiệt
chủ động cho quân chủ lực bộ binh và thủy binh phản công giặc.
Tục
truyền rằng, vào một đêm quân sĩ ta chợt nghe ở trong đền thờ Trương
tướng quân (Trương Hống, Trương Hát) có tiếng ngâm to rằng: “Nam quốc
sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. (Tạm dịch: Sông núi nước
Nam vua Nam ở/ Cõi bờ ngăn cách tự sách trời/ Cớ chi quân giặc sang xâm
lấn?/ Thất bại bay xem sẽ đến nơi” (ĐVSKTT-Tr.330).
Trên
đoạn từ Đông Nham Điền đến Tây Vạn Xuân, hoàng tử Hoằng Chân chỉ huy
400 chiến thuyền và hàng vạn quân đánh sâu vào nơi đóng quân của địch.
Nhân lúc địch tập trung đối phó ở cánh phải, Lý Thường Kiệt chỉ huy đại
quân vượt sông Phú Lương tấn công giặc ở cánh trái.
Theo
“Việt Sử Lược” trong trận này địch 10 phần bị tiêu diệt đến 5,6. Quân
địch bị đẩy vào thế cố thủ, trước mặt, sau lưng đều bị quân dân Đại Việt
tấn công. Lương thảo của giặc ngày càng cạn kiệt. Nắm rõ tình hình bất
lợi của giặc, Lý Thường Kiệt chủ động cho người sang gặp Quách Quỳ bàn
hòa với điều kiện: “Toàn bộ quân Tống phải rút khỏi đất nước Đại Việt”.
Không
còn con đường nào khác, như người sắp chết đuối vớ được cọc, Quách Quỳ
vội chấp nhận điều kiện trên và y không chờ lệnh của vua Tống mà lập tức
rút ngay quân đội về nước. Tháng 2/1077, 23.400 quân chiến đấu và 3.174
ngựa chiến của Quách Quỳ về tới đất Tống.
Trong
hơn 2 tháng chiến đấu anh dũng, quân dân Đại Việt đã tiêu diệt trên 19
vạn quân chiến đấu và quân tải lương, với gần 6.000 ngựa chiến của quân
Tống. Toàn bộ lãnh thổ của nhà nước Đại Việt đã sạch bóng quân xâm lược.
Sau chiến thắng, với chính
sách ngoại giao khôn khéo của vương triều Lý, triều đình nhà Tống phải
công nhận Đại Việt là Quốc gia riêng biệt có chủ quyền, chứ không phải
là một quận của nước Tống. Vua Lý là một quốc vương chứ không phải là
“Giao Chỉ Quận Vương” như các đời vua Tống trước đây thường “phong”.
http://vtc.vn/394-341879/phong-su-kham-pha/nhung-tran-danh-khien-nguoi-phuong-bac-kinh-hon-bat-via.htm
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(VTC
News) - Quân sĩ hừng hực dũng khí. Không một người lính nào không thấy
vinh dự khi được hy sinh cứu nước. Các chiến sỹ và nhiều người dân đã tự
chích vào tay hai chữ Sát Thát (Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm
của mình.
Bài 2: Ba lần đánh bại Nguyên Mông
Tháng
Chạp năm Ất Dậu (1225) Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần
Cảnh, chấm dứt giai đoạn nhà Lý cai trị Đại Việt và cũng là thời kỳ mở
đầu của vương triều Trần ở nước ta. Trần Cảnh lên làm vua (Trần Thái
Tông), phong cho Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc thành quân Chinh
Thảo Sự.
Sau khi thay thế nhà
Lý (ở giai đoạn này đã quá suy yếu về chính trị, quân sự, kinh tế) -
Triều đình nhà Trần tích cực đẩy mạnh việc phát triển kinh tế nông
nghiệp, quai đê lấn biển, tiêu diệt các thế lực chống đối, ổn định tình
hình chính trị trong nước, chính quyền trung ương tập quyền được củng cố
vững chắc hơn so với triều trước.
Ở
đất nước Mông Cổ, năm 1206 Thành Cát Tư Hãn lên làm vua. Nhà nước phong
kiến Mông Cổ được hình thành và phát triển, nhanh chóng trở thành một
đế quốc lớn mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới từ trước đến giờ.
Quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn đã xâm lược rất nhiều
nước Châu Âu và Châu Á.
Ở Châu Âu vó ngựa Mông Cổ đã tiến đến Ba Lan và Đức, Hungari và tới sát Ý vào năm 1242, khiến cả Châu Âu chấn động.
“Theo
sử biên niên của nước Pháp thì mối lo sợ trước quân Mông Cổ đã làm đình
trệ cả sự buôn bán”. Ở Đức xuất hiện bài kinh cầu nguyện “Chúa cứu vớt
chúng con khỏi cơn thịnh nộ của Tác-ta – Mông Cổ”.
Ở
phía Nam quân Mông Cổ chiếm Trung Quốc, Cao Ly, tấn công Nhật Bản...
Một đế quốc Mông Cổ rộng mênh mông được tạo lập từ bờ biển Hắc Hải đến
tận Thái Bình Dương.
Quân đội
Mông Cổ với lực lượng kỵ binh thiện chiến đánh đâu thắng đấy! Nhưng cả
ba lần xâm lược Đại Việt, với 1 triệu quân, thì bị đánh cho đại bại. Chủ
tướng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân lính “kéo” về Vân Nam.
Toa Đô, dũng tướng khét tiếng của Mông Cổ bị rơi đầu. Ô Mã Nhi, Phàn
Tiếp bị bắt, trở thành vật tế sống ở mộ các vua Trần...
Lịch
sử dân tộc đã ghi những chiến công oanh liệt của quân nhân thời Trần
vào thế kỉ thứ 13. Đúng như lời thơ hào sảng của Thượng tướng Thái sư
Trần Quang Khải sau chiến thắng chống Nguyên Mông: “Chương Dương cướp
giáo giặc/ Hàm Tử giết quân thù/ Thái Bình nên gắng sức/ Non nước ấy
ngàn thu”.
“Đầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo”
Năm 1257, chúa Mông Cổ là Mông Kha tế cờ trên bờ sông Kê-Ru-Len rồi xuất quân đánh nhà Tống (Trung Quốc).
Nguyên
sử (Trung Quốc) quyển 209 - phần An Nam truyện chép rằng: “Ngột Lương
Hợp Đài (Hốt Tất Liệt chiếm được nước Đại Lý để Ngột Lương Hợp Đài ở lại
toan đến đánh chiếm Giao Chỉ), đóng binh ở phía Bắc Giao Chỉ, sai hai
sứ giả sang trước để dụ” (SĐD –Tr.467). “Vua Trần Thái Tông không những
không chịu đầu hàng mà cho bắt giam sứ Mông Cổ” (VNSL-Tr.120).
Tháng
12, ngày 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài xâm lấn Bình Lệ.
Sách Nguyên sử - Q.209 chép: “Thấy sứ giả không trở về Ngột Lương Hợp
Đài bèn sai bọn Triệt Triệt Đô đem 1000 người chia đường mà tiến đến
trên sông Thao ở Kinh Bắc nước An Nam. Lại sai con là A Truật sang giúp
và nhòm ngó tình hình. Người Giao (Chỉ) cũng bày nhiều binh vệ. A Truật
trở về báo Ngột Lương Hợp Đài để tiến gấp. Sai Triệt Triệt Đô làm tiên
phong, A Truật đi sau. Tháng 12, hai quân hợp nhau” (SĐD-Tr.468).
Đền thờ nhà Trần ở Thái Bình. |
Khi
quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Đài tấn công Bình Lệ, vua Trần Thái
Tông tự làm tướng đốc chiến đi trước xông pha tên đạn. Tướng Lê Phụ Trần
một mình một ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt như thường.
Thế
giặc mạnh, quân ta lui về giữ ở sông Lô. Giặc bắn tên như mưa xuống
thuyền của vua, tướng Lê Phụ Trần liền lấy ván thuyền để chắn tên cho
vua. Trước sự hung hãn và mạnh mẽ của quân giặc, vua Trần dời thuyền đến
hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thái sư trả lời: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất
thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả” (ĐVSKTT-Tr.470).
Để
tránh sức mạnh ban đầu của giặc, quân ta chỉ để lại một bộ phận chặn
giặc và làm nghi binh, còn đại quân được lệnh rút về Hưng Yên, Thiên
Trường, Long Hưng...
Kinh
thành bỏ trống, nhân dân trong thành Thăng Long được lệnh làm theo kế
“Thanh Giã” (vườn không nhà trống). Quân Mông Cổ tiến vào thành Thăng
Long mới phát hiện cả thành trống rỗng, Ngột Lương Hợp Đài tức giận cho
quân cướp bóc, tàn phá kinh thành, giết cả những nam phụ lão ấu trong
thành do không sơ tán kịp.
Lương
thực của quân giặc mang theo đã cạn, kinh thành lại trống không, kẻ
địch đã cố gắng tiến hành những cuộc cướp phá ở những vùng xung quanh
thành Thăng Long, nhưng đến đâu chúng cũng gặp sức chống trả mãnh liệt
của nhân dân.
Khi quân Mông
Cổ tiến đến Cổ Sở (nay là Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội) nhân dân ở đây
đã đoàn kết chiến đấu, đánh cho chúng một trận tơi bời, xác giặc ngổn
ngang, ngựa chúng sập hầm, trúng chông què, lũ cướp nước tan tác bỏ
chạy. Không có lương thảo, binh sĩ mỏi mệt, lại thêm khí hậu khắc
nghiệt, quân xâm lược Mông Cổ lâm vào tình thế tiến lui đều gặp khó
khăn.
Nắm chắc thời cơ thuận
lợi, ngày 24, tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (29/01/1258), vua Trần
Thái Tông cùng thái tử Hoảng chỉ huy lâu thuyền ngược dòng Thiên Mạc phá
tan giặc ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại kinh thành.
Bị
đánh bật khỏi thành Thăng Long, quân Mông Cổ quay đầu rút chạy về Vân
Nam. Đang lúc chỉ mong thoát thân thì chúng lại bị đồng bào dân tộc vùng
núi ở trại Quy Hóa theo trại chủ là Hà Bổng đổ ra tập kích. Bị đánh bất
ngờ, quân giặc bỏ chạy tháo thân và bị thiệt hại nặng nề về người, vũ
khí, quân trang.
Tượng Trần Hưng Đạo. |
Khác
hẳn với thái độ nghênh ngang hung hãn khi tiến quân vượt biên giới vào
Đại Việt, bọn xâm lược Mông Cổ bị đánh cho tan tác, mạnh ai nấy chạy,
lén lút tìm đường vượt biên giới trốn chạy cho nhanh. Chúng không còn
dám nghĩ đến chuyện cướp bóc, đốt phá, tranh giành của cải như khi mới
sang.
Để chế giễu thái độ đó
của chúng, người thời bấy giờ đã gọi chúng bằng cái tên rất mỉa mai là
“Giặc Phật”. Cuối tháng Giêng (1258), địch hoàn toàn rút khỏi nước ta.
Thắng
lợi của quân dân Đại Việt trong chiến tranh lần thứ nhất chống Mông
Nguyên, không những đã bảo vệ được nền độc lập dân tộc mà còn bẻ gãy một
gọng kìm của quân Mông Cổ định chiếm xong nước ta thì tấn công vào miền
Nam Trung Quốc tiêu diệt triều đình nhà Nam Tống.
Cuộc
chiến đấu và chiến thắng năm Nguyên Phong thứ 7 do vua Trần Thái Tông
và tướng quốc Trần Thủ Độ chỉ huy mãi mãi là niềm tự hào được ghi trên
những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Vua
Trần Nhân Tông sau này trong bài thơ “Ngày Xuân yết bái Chiêu Lăng” đã
viết: “Bạch đầu quân sĩ tại .... Vãng vãng thuyết nguyên phong...”
(Người lính già đầu bạc ... Kể mãi chuyện nguyên phong).
“Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm tử bắt quân thù”
Sau
khi đánh đổ nhà Nam Tống (1279) chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, quân
Mông Cổ ngày càng trở nên hùng mạnh. Hốt Tất Liệt đổi quốc hiệu là Đại
Nguyên, chuẩn bị những cuộc viễn chinh mới để thực hiện mưu đồ thống trị
thế giới.
Ở phía Đông chúng chuẩn bị đánh Nhật Bản, phía Nam âm mưu chiếm các nước Đông Nam Châu Á rồi tiến đánh Ấn Độ...
Mục
tiêu đầu tiên để tràn xuống Đông Nam Á của quân Nguyên là phải san bằng
được Đại Việt. Hốt Tất Liệt huy động một đội quân tinh nhuệ, đông tới
60 vạn người do con trai của y là Trấn Nam Vương Thoát Hoan chỉ huy. Bên
cạnh Thoát Hoan còn có hàng chục viên tướng nổi tiếng khác đó là
A-Rích-Kha-A, Ô Mã Nhi, Lý Hằng, Lý Quan, Toa Đô...
Lăng mộ một vị vua Trần ở Quảng Ninh. |
Năm
1282 Hốt Tất Liệt cử Toa Đô dẫn 10 vạn quân tấn công Chiêm Thành,
sau đó Thoát Hoan đem quân tấn công nước Đại Việt ở phía Bắc, tạo thế
gọng kìm kẹp quân ta vào giữa hai đạo quân Mông Cổ để tiêu diệt.
Sau
chiến thắng năm 1258, nhà Trần chủ trương vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết
duy trì quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên. Nhưng mặt khác vẫn chủ động
tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược lần thứ hai của giặc.
Năm
1282 nhà Trần không đồng ý cho quân Nguyên mượn đường sang đánh Chiêm
Thành, vì biết đây là kế “Giả đò diệt quắc” của giặc. Trái lại quân ta
còn tích cực ủng hộ Chiêm Thành chống quân Nguyên xâm lược.
Trước
âm mưu xâm lược của Nhà Nguyên ngày càng lộ rõ, tháng 10 (1282) vua
Trần tổ chức hội nghị Bình Than cùng triều đình và các vương hầu bàn kế
chống giặc.
Vị tướng tài Trần
Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn quân. Hội nghị
vương hầu bách quan ở Bình Than có mục đích “bàn kế đánh phòng” và
“chia quân giữ nơi hiểm yếu”.
Trần
Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ, không được dự họp đã bóp nát quả cam cầm
trong tay mà không biết. Sau đó Quốc Toản trở về lập một đội quân hơn
nghìn người, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền chờ ngày giết giặc cứu nước.
Trên lá cờ của người thiếu niên anh dũng đó có 6 chữ: “Phá cường địch,
báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
Tháng
8, năm Giáp Thân (1284) quân ta hội quân tại bến Đông Bộ Đầu tổng cộng
có trên 20 vạn quân duyệt binh, sau đó các tướng Trần Bình Trọng, Trần
Khánh Dư, Trần Quang Khải... được lệnh đem quân trấn giữ các vùng xung
yếu trong nước để đề phòng quân Nguyên tràn sang.
Sau
đó vua Trần cho triệu tập hội nghị Diên Hồng lịch sử, nhằm động viên sự
nhất trí chống giặc trong nhân dân. Yến tiệc được mở ra tại thềm điện
Diên Hồng, Vua hỏi các bô lão: “Thế giặc mạnh, chúng ta nên hòa hay nên
đánh?”. Trả lời cho câu hỏi của vua Trần là tiếng hô vang của hàng vạn
phụ lão “Đánh, Đánh”, “vạn người cùng nói như từ một miệng” (Toàn thư).
Tiếng
hô “Đánh” của các phụ lão ở điện Diên Hồng biểu lộ tinh thần quyết
chiến của toàn dân Đại Việt. Đúng như người xưa nói: “Người chèo thuyền
là dân, người lật thuyền cũng là dân” (Sức dân mạnh như sóng biển).
Những bậc phụ lão, những đại biểu có uy tín của nhân dân đã nói lên
tiếng nói của cả dân tộc.
Hội
nghị Diên Hồng là một cuộc họp mặt đại biểu rộng khắp của toàn dân -
độc nhất vô nhị trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các bô lão đã mang
tới cho vua Trần và triều đình câu trả lời quyết chiến của nhân dân ở
các lộ trong cả nước, và cũng mang từ Thăng Long về mọi miền quê cái
không khí quyết tâm chống giặc giữ nước của hội nghị Diên Hồng và quyết
tâm của Triều đình.
Nhà sử
học Ngô Sỹ Liên sau này nhận xét: “Đó là Thánh Tông (chỉ vua Trần) muốn
xem sự ái hộ thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm
kích phát lên” (Toàn thư –Q.5-Tr.44b). Với lòng yêu nước nồng nàn, ở
khắp các lộ (thời Trần chia nước làm các phủ - lộ) trong nước có những
bảng treo dòng chữ: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài
đến phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn
tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” (Theo sách Nguyên sử của Trung
Quốc – Q.209-Tr.7).
Trong
không khí: “Quyết tử cho Tổ quốc quốc sinh” ấy thì lời hịch của Trần
Quốc Tuấn kích động lòng dân và quân háo hức quyết tâm bảo vệ Tổ quốc
của mình: “...Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân
chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc
mà không biết tức, nghe nhạc Thái thường đãi yến Ngụy sứ mà không biết
căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu
khiển... hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước...
nếu có giặc Mông Thát tràn sang... tiền của dẫu nhiều không mua được đầu
giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù... lúc bấy giờ chủ tôi
nhà ta cùng bị bắt đau xót biết chừng nào; chẳng những thái ấp của ta
không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia
quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị bắt đi, chẳng những thân
ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu
còn lưu... Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?
....Vì sao vậy? Giặc Mông
Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên
không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng
khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua
giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há
còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất phủ này nữa. Vậy ta viết bài
hịch này để các ngươi biết rõ lòng ta”.
Bài
hịch đã xoáy vào những nỗi uất ức căm thù của tướng sĩ trong bao nhiêu
năm, mà phấn kích tinh thần chiến đấu của họ. Quân sĩ hừng hực dũng khí.
Không một người lính nào không thấy vinh dự khi được hy sinh cứu nước.
Các chiến sỹ và nhiều người dân đã tự chích vào tay hai chữ Sát Thát
(Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm của mình.
Cuối
năm 1284 Thoát Hoan tiến quân vào nước ta, giặc chia quân làm 2 mũi
đánh vào Tuyên Quang và Lạng Sơn. Quân ta chủ động chặn giặc ở Lạng Sơn
rồi lui vào khu vực ở Lạng Giang và Vạn Kiếp.
Thoát
Hoan liền chia quân làm ba mũi ý dịnh vây chặt quân ta để tiêu diệt.
Với thế mạnh như chẻ tre, quân giặc tưởng chừng như đè bẹp ngay được
quân dân Đại Việt, nhưng với thiên tài quân sự của mình, Trần Quốc Tuấn
đã nhận định: “Nguyên binh khí nhuệ đang hưng, kíp đánh chẳng bằng kiên
thủ chờ suy”.
Sau đó quân ta
rút lui để bảo toàn lực lượng theo 2 hướng Thăng Long – Thiên Trường và
một bộ phận rút về hướng Quảng Yên để giặc lầm tưởng vua quan triều Trần
chạy ra biển.
Ngày 13 tháng
Giêng (19/2/1285), quân Nguyên tiến vào kinh thành Thăng Long đã bị bỏ
trống. Toa Đô lúc này được lệnh đem quân từ Chiêm Thành tiến ra, Thoát
Hoan cho Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển để tiếp ứng cho Toa Đô đánh từ
phía Nam đánh ra.
Tướng Trần
Quang Khải của ta dùng lối đánh chặn từng bước, đã chặn đứng được quân
Toa Đô ở giáp giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An, ngăn không cho chúng ra
Bắc.
Tháng 2 (1285) địch cho
quân tiến xuống Hưng Yên, Hà Nam, Thiên Trường, truy kích đại quân của
vua Trần. Tại bãi Đà Mạc (Hưng Yên) tướng Trần Bình Trọng được lệnh chặn
quân truy đuổi của giặc để vua và Đại quân di chuyển về Thiên Trường,
Thanh Hóa.
Khi đại quân
Nguyên tới, Trần Bình Trọng tả xung hữu đột chiến đấu, nhưng vì địch
đông ta ít nên cuối cùng ông bị sa vào tay giặc. Thoát Hoan muốn dụ hàng
nên hỏi ông rằng: “Có muốn làm vương đất Bắc không?” Trần Bình Trọng
quát lên: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất
Bắc”....
Thoát Hoan thấy
không dụ được ông liền sai quân đem chém. Vua, quan, quân triều đình nhà
Trần nghe tin Trần Bình Trọng tử tiết ai cũng tỏ lòng thương xót.
Đi
đôi với kế “Vườn không nhà trống”, khắp nơi dân binh kết hợp với quân
lính nhà Trần tổ chức đánh úp, đánh tỉa, đánh phục kích các toán quân
địch đi sục sạo cướp bóc lương thảo.
Do
chủ quan tưởng có thể thắng nhanh, quân Nguyên không tải theo nhiều
lương thực vì thế bị thiếu ăn, lòng quân ngày càng hoang mang dao động.
Hai mũi quân giặc do Thoát Hoan và Toa Đô chỉ huy lại không kết hợp được
với nhau.
Để gỡ thế bí,
Thoát Hoan thúc giục Toa Đô nhanh chóng tiến ra Bắc để hội quân với y
cho có thêm sức mạnh tiếp tục tấn công Đại Việt. Nắm được ý đồ của giặc,
thấy thời cơ đã đến. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn quyết định nhằm đạo
quân Toa Đô để đánh trận phủ đầu tiêu diệt địch.
Đạo
quân Toa Đô đánh nhau với Trần Quang Khải ở Thanh Hóa và Nghệ An mãi
không thắng được, lương thực ngày một kiệt quệ. Nhận lệnh của Thoát Hoan
phải ra Bắc hội quân nên y cùng Ô Mã Nhi xuống thuyền vượt biển để ra
Thăng Long.
Vua Trần và Trần
Quốc Tuấn chủ trương không để cho giặc hội quân vì thế đến tháng Tư
(1284) đã cử Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật làm tướng chỉ huy, Trần Quốc
Toản làm phó tướng cùng tướng quân Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân phục
kích ở khu vực bến Hàm Tử (thuộc Đông An, Hưng Yên). Quân ta dựa vào lau
sậy mọc um tùm hai bên bờ sông để đón đánh thuyền giặc.
Trận
địa mai phục vừa xong thì thuyền chiến của Toa Đô dẫn xác tới. Quân ta
từ nhiều phía bổ vây địch. Lúc đó, trong đội quân của tướng Trần Nhật
Duật còn có Triệu Trung là tướng nhà Tống (đầu quân trong đạo quân của
Trần Nhật Duật) mặc áo, đeo cung tên như quân Tống, cũng tham gia chiến
đấu rất dũng mãnh đánh đuổi quân Nguyên.
Bị
đánh úp bất ngờ quân Nguyên hoảng loạn nhảy xuống sông và bị thiệt hại
rất nặng. Số quân còn lại theo Toa Đô rút ra cửa biển Thiên Trường. Thời
cơ đã đến, Hưng Đạo Vương và vua Trần chủ động tấn công Thành Thăng
Long. Thực hiện sách lược đã được vạch ra, quân ra đã đánh một trận rất
lớn và rất tài tình, đó là trận: Chương Dương.
Lúc đó Đại quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long, chiến thuyền giặc đóng ở bến Chương Dương.
Sau
chiến thắng Hàm Tử, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hoài Văn Hầu Trần
Quốc Toản cùng các tướng khác được lệnh đem quân đánh Chương Dương và
thành Thăng Long.
Phối hợp
với quân chủ lực của triều đình còn có các đạo quân binh ở các lộ do
Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Tuyền chỉ huy. Đây là trận mà quân ta
đã phối hợp tốt giữa quân địa phương và dân binh với quân triều đình.
Quân
ta bí mật đánh úp, áp sát thủy trại giặc. Bị bất ngờ, quân giặc đạp lên
nhau mà chạy lên bờ để trốn về thành Thăng Long. Quân ta truy sát địch
tới sát chân thành. Thoát Hoan vội đem đại quân ra tấn công, quân ta giả
vờ thua chạy, địch đuổi theo liền bị phục binh của Trần Quang Khải đổ
ra đánh, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng Long chạy qua sông Hồng, rồi
đóng quân tại vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh).
Tài
liệu thời Nguyên (Trung Quốc) chép: “Thủy lục đến đánh vào đại doanh,
vây thành mấy vòng, quan quân (chỉ quân Nguyên) sớm tối đánh khốn đốn,
thiếu thốn lương thực, khí giới đều hết”.
Trần
Quang Khải đem quân vào thành Thăng Long, cảm khái trước sự dũng mãnh
của dũng sĩ và nhân dân, ông đã viết: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm
Tử giết quân thù/ Thái Binh nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”.
Toa
Đô đóng quân ở Thiên Trường, cách Thoát Hoan hơn 200 dặm (không biết
Thoát Hoan đã thua trận, thoát chạy về Bắc Giang rồi), cho quân tiến về
sông Thiên Mạc với ý đồ hợp quân với Thoát Hoan. Khi được tin Thoát Hoan
đã bại trận, Toa Đô liền rút quân về đóng ở Tây Kết, rồi cho người đi
dò tin tức của Thoát Hoan.
Sau
chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Trần Hưng Đạo cho các tướng Trần Nhật
Duật, Trần Quang Khải chia quân chặn các ngả đường không cho Thoát Hoan
và Toa Đô thông tin được với nhau. Tiếp đó Hưng Đạo Vương đem binh đến
Tây Kết chia quân đánh trại quân Nguyên và đặt phục binh để bắt Toa Đô.
Quân
ta càng đánh càng hăng, quân Nguyên địch không nổi, Toa Đô và Ô Mã Nhi
đem tàn quân chạy lên bờ tìm đường bộ ra biển, nhưng bị phục binh của ta
vây đánh.
Tương truyền tướng
quân Nguyễn Khoái đã bắn chết Toa Đô tại trận, còn Ô Mã Nhi tìm đường
chạy vào Thanh Hóa. Khi bị quân ta truy đuổi y đã vội vàng xuống thuyền,
một mình liều chết chạy ra biển trốn về Trung Quốc.
Trận
Tây Kết diễn ra vào tháng 5/1285, quân ta tiêu diệt toàn bộ 8 vạn quân
của Toa Đô (bắt sống hơn 5 vạn quân Nguyên và hàng trăm chiến thuyền
cùng nhiều khí giới không kể xiết. Viên tướng Toa Đô bị chém rơi đầu,
nhưng với tấm lòng nhân đạo của mình, vua Trần Nhân Tông đã sai khâm
liệm và làm lễ mai táng cho y rất chu đáo).
Tin Toa Đô bị chém, Ô Mã Nhi bỏ chạy ra biển làm cho Thoát Hoan và tướng sĩ Nguyên đều hoảng sợ, bàn cách chuồn về nước.
Hưng
Đạo Vương đoán biết ý đồ tháo chạy của Thoát Hoan liền sai tướng Nguyễn
Khoái và Phạm Ngũ Lão dẫn 3 vạn quân phục sẵn ở bên sông Vạn Kiếp. Hai
con ông là Hưng Võ Nhẫn Nhẫn và Hưng Hiếu Vương Úy dẫn 3 vạn quân theo
đường Hải Dương ra Quảng Yên, mục đích không cho địch chạy về châu Tư
Minh (Trung Quốc).
Hưng Đạo
Vương tự mình dẫn đại quân tấn công Thoát Hoan ở Bắc Giang, tiêu diệt
một bộ phận lớn quân giặc. Thoát Hoan cố sống cố chết chạy về Vạn Kiếp,
tưởng đã thoát thân nào ngờ y chưa kịp hoàn hồn thì bị phục binh của ta
đổ ra đánh.
Quân giặc vội vã
bắc cầu phao vượt sông Sách (tức sông Thương đoạn chảy qua vùng Vạn
Kiếp). Cánh quân của Viên tả thừa Tang-Gu-Tai chưa kịp chạy thì bị quân
mai phục của ta từ trong rừng đổ ra đánh, khiến chúng xô đạp nhau chạy
làm đứt cả cầu phao, ngã xuống sông chết đuối rất nhiều.
Quân
ta do tướng Nguyễn Khoái chỉ huy liên tiếp truy kích giặc. Tướng Nguyên
là Lý Hằng bị bắn chết. Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A-Bát-Xích, Lý Quán cố
sức đánh mở đường máu mà chạy.
Bị
quân ra đuổi riết, không còn cách nào khác để thoát thân vì thế Thoát
Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên trên xe bắt quân lính kéo chạy về
phía biên giới. Đến gần châu Tư Minh, tưởng đã thoát thân, quân giặc
định nghỉ ngơi rồi đi tiếp nào ngờ lại bị Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng
Hiếu Vương Úy “giăng rọ” chờ sẵn từ trước, đổ ra đánh.
Lý
Quán bị tên bắn chết ngay tại trận, còn Thoát Hoan nhờ có A-Bát-Xích cố
chết bảo vệ nên chạy thoát thân về bên kia biên giới.
Với
đội quân 60 vạn người, lúc đầu hùng hổ vượt biên giới kéo sang, khí thế
oai phong lừng lẫy bao nhiêu thì khi về như con “Cẩu” cụp đuôi, luồn
lách, chui lủi tìm đường thoát chạy về nước. Chỉ trong vòng 6 tháng
(tháng Chạp, 1284 đến tháng 6-1285, quân dân Đại Việt đã đánh đuổi hơn
nửa triệu quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Đó là nhờ vua tôi đồng lòng,
toàn dân quyết chí đồng tâm, đồng sức đánh đuổi quân thù để bảo vệ quê
hương đất nước.
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông ngàn thuở vững âu vàng”
Nhà
sử học Ba Tư Ra-xít-út-đin ở thế kỉ 13 đã viết về cuộc kháng chiến oai
hùng của người Giao Chỉ (Đại Việt) trong cuộc kháng chiến chống Nguyên
Mông với những từ sau: “Nước đó có vương quốc riêng, không thần phục Hãn
(Vua Mông Cổ), Tu Gan (Thoát Hoan) con trai của Hãn chỉ huy đội quân để
ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần Tu Gan đem
quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đấy,
nhưng bỗng nhiên xuất hiện những đội quân (Giao Chỉ) từ biển, từ rừng,
từ núi, đánh tan quân Tu Gan (Thoát Hoan) đang cướp bóc, Tu Gan
trốn thoát”.
Trong lúc quân
dân Đại Việt hân hoan mừng chiến thắng thì ở bên kia biên giới Hốt Tất
Liệt nổi giận vì Thoát Hoan bị thất trận nặng nề. Nóng lòng cần một căn
cứ để làm bàn đạp tiến hành xâm lược Đông Nam Á nên vua nhà Nguyên gấp
rút cho ngừng việc tấn công Nhật Bản và sai đóng trên 300 chiến thuyền,
lệnh cho ba tỉnh Giao Hải - Hồ Quảng – Giang Tây tụ tập quân sĩ định đến
tháng 8/1285 thì đem quân theo đường Châu Khâm, Châu Liêm tiến đánh Đại
Việt để báo thù.
Rút kinh
nghiệm hai lần thất bại trước vì thiếu lương thực, lần này vua Nguyên
đặc biệt chú trọng đến việc cho thuyền tải lương đi theo và vạch sách
lược tấn công theo lối: “tằm ăn dần dà”.
Lăng mộ như gò núi của vua Trần ở Thái Bình. |
Biết
tin quân Nguyên chuẩn bị lực lượng tấn công Đại Việt, vua Trần hỏi Hưng
Đạo Vương: “Thế giặc năm nay thế nào?” Trần Hưng Đạo trả lời: “Năm nay
đánh giặc nhàn”. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chia quân chặn địch ở các
hướng Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Yên, Vạn Kiếp (Hải Dương) và Long Hưng
(Thái Bình).
“Nhà Nguyên phát
quân ở 3 sảnh Giao Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng. Quân Mông Cổ, quân Hán
Nam cùng quân Vân Nam và quân người Lê ở 4 châu ngoài biển chia đường
vào cướp. Sai bọn Vạn Hộ Trương Văn Hổ chở 70 vạn hộc lương theo đường
biển, lại đặt Chinh Giao Chỉ hành thượng Thư sảnh, cho Áo-lỗ-xích làm
Bình Chương Sự, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp làm tham tri chính sự phụ trách,
đều sự tiết chế của Trấn Nam Vương” (ĐVSKTT-Tr.517).
Quân
Nguyên chiếm núi Phả Lại và núi Chí Linh để lập căn cứ; Trình Bằng Phi
đem 2 vạn binh đánh đồn Vạn Kiếp của ta. Ô Mã Nhi và A-bát-Xích dẫn quân
từ sông Lục Đầu đánh xuống Hồng Hà.
Hưng
Đạo Vương liền rút quân về giữ Thăng Long, nhưng sau bị Ô Mã Nhi bám
riết, thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông xuống thuyền đi ra cửa biển
Thiên Trường. Ô Mã Nhi đem quân đuổi theo nhưng không kịp, liền kéo quân
về Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình nơi có mộ tổ tiên nhà Trần ở
đó). Y cho người đào phá lăng mộ của nhà Trần.
Thoát
Hoan đem binh mã vây đánh Thăng Long, chiếm được thành nhưng sau lại
phải rút về căn cứ Vạn Kiếp, Chí Linh, Phả Lại. Hưng Đạo Vương cũng tiến
quân tới lập trại để chống chọi với giặc.
Ngày
Mậu Tuất, 12/12 (17/12/1287) chiến thuyền của bọn Ô Mã Nhi (xuất phát
từ cảng Khâm Châu) tiến vào nước ta. Đoàn thuyền vận tải lương thực của
Trương Hổ vì chở quá nặng nên bị tụt lại phía sau. Mấy ngày sau thuyền
giặc qua cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái), đến Ngọc Sơn chúng gặp tướng Nhân
Đức Hầu Trần Gia phục binh trên núi phục đánh. Chiến thuyền giặc liền
vây bọc lại đánh nhau với quân ta và qua được cửa Ngọc Sơn.
Thuyền
của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp tiến vào cửa An Bang (Quảng Yên) giao chiến
với thủy quân của tướng Trần Khánh Dư, quân ta bị tổn thất phải rút lui.
Ô Mã Nhi sau khi qua được cửa An Bang đã theo sông Bạch Đằng tiến về
Vạn Kiếp. Hắn tưởng rằng quân ta bị đánh tan không thể ngăn cản nổi đoàn
thuyền lương đi sau nên hắn cứ tiến thẳng không chú ý đến việc bảo vệ
cho Trương Văn Hổ.
Khi thủy
quân nhà Nguyên đánh Vân Đồn, Hưng Đạo Vương đã trao quyền chỉ huy giải
biên thùy cho phó tướng là Trần Khánh Dư. Nghe tin Trần Khánh Dư thua
trận, vua Trần liền sai trung sứ đến bắt Khánh Dư đưa về cửa khuyết để
trị tội. Khánh Dư nói với Trung sứ rằng: “Lấy quân luật mà xử, tôi xin
chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày, để tôi lập công chuộc tội rồi
hãy chịu búa rìu của hoàng thượng cũng chưa muộn”.
Trung
sứ nghe theo lời khuyên, Khánh Dư đoán biết quân chủ lực giặc đi rồi,
thuyền lương tất phải theo sau, bèn tập hợp số quân còn lại bố trí phục
kích chờ giặc tới. Quả nhiên mọi việc diễn ra đúng như dự đoán của vị
tướng mưu trí đó.
Tháng 12 âm
lịch (2/2/1288) đoàn thuyền chở lương của Trương Hổ kéo vào vùng biển
Vân Đồn. Vì chủ quan cho rằng Ô Mã Nhi đi trước đã dọn đường cho mình
rồi nên Trương Hổ không đề phòng, bị lọt vào trận địa phục kích của thủy
quân ta.
Khi giặc tới, bất
giờ thủy quân ta do Trần Khánh Dư ập tới đánh, giặc Nguyên bị thua,
Trương Văn Hổ cố gắng tiến về phía đất liền, nhưng đến biển Lục Thủy
(Cửa Lục, Hòn Gai) thì thủy quân ta đổ ra đánh càng đông. Trương Văn Hổ
đại bại đổ cả lương thực xuống biển, trốn chạy về Quỳnh Châu (Hải Nam).
Quân ta “bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù
binh cũng rất đông” (Toàn thư- Q.5.Tr-53a).
Theo
sách Nguyên sử (Trung Quốc – Q.209 – An Nam Truyện – Tr.10a) thì số
lương thực mất hơn 14.300 thạch. Con số đó chắc còn xa thực tế vì Trương
Văn Hổ chỉ chạy thoát trên một chiếc thuyền nhỏ về Quỳnh Châu. Triều
đình đã tha tội cho Trần Khánh Dư.
Trần
Quốc Tuấn cho rằng để làm cho quân sĩ địch chóng “ngã lòng, bấy giờ mới
dễ phá”. Vì thế quân ta đã thả tù binh, báo tin thuyền lương của Trương
Hổ đã bị tiêu diệt cho Thoát Hoan biết. Trước tình hình ở không yên,
lương thực lại bị mất, lòng quân dao động, Thoát Hoan buộc phải cố thủ ở
Vạn Kiếp”.
Quân Nguyên sau
khi đại bại ở Vân Đồn lương thảo ngày càng kiệt quệ, Thoát Hoan muốn cho
người về Trung Quốc cầu viện và lấy thêm lương, nhưng Hưng Đạo Vương đã
sai người giữ núi Kỳ Cấp và ải Nữ Nhi ở Lạng Sơn chặn bắt những tên
thám tử được phái về Trung Quốc.
Cuối
cùng biết rằng ở lại chỉ chuốc lấy thất bại, Thoát Hoan quyết định rút
quân về nước. Quân Nguyên chia làm hai đường thủy bộ để rút. Đạo quân
thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy theo đường sông Bạch Đằng đi trước.
Đạo quân bộ gồm có Trịnh Bằng Phi, Trương Quân được giao chặn hậu để
Thoát Hoan cùng A-bát-xích, Áo-lỗi-xích, Trương Ngọc tìm đường rút chạy.
Hưng Đạo Vương đoán biết
được âm mưu của giặc, bèn sai tướng Nguyễn Khoái dẫn quân lẻn qua đường
tắt lên mé thượng lưu sông Bạch Đằng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu, bịt sắt,
đóng trên sông rồi đặt phục binh chờ đợi đến lúc thủy triều lên thì đem
thuyền ra khiêu chiến.
Tướng
quân Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thế Nghĩa được lệnh dẫn quân lên mai phục ở ải
Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn) chờ cho quân bộ của Thoát Hoan chạy đến đó
thì đổ ra đánh.
Kế hoạch
chiến đấu đã được vạch ra, khi được tin Ô Mã Nhi đã kéo quân sắp về đến
Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương từ căn cứ A Sào (nay thuộc xã An Đồng và An
Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) kéo quân về sông Hóa đi đánh
giặc. Con voi chiến của người bị sa lầy khi vượt sông, ứa nước mắt nhìn
theo chủ tướng. Hưng Đạo Vương chỉ gươm xuống dòng sông Hóa mà thề rằng:
“Trận này chưa phá xong giặc Nguyên thì không về bến sông này nữa”.
Quân
sĩ ai nấy đều xin quyết chiến. Đoàn quân nhằm hướng Bạch Đằng Giang
thẳng tiến. Khi chiến thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp theo dòng Bạch Đằng
rút chạy thì bất ngờ tướng Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền từ bờ sông lao
ra khiêu chiến.
Ô Mã Nhi tức
giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy
giờ đang lúc thủy triều lên cao, mặt sông rộng mênh mang, Ô Mã Nhi cứ
việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử cho quân Nguyên qua khỏi
chỗ đóng cọc, rồi mới hô quân quay thuyền lại quyết chiến với giặc.
Trận
chiến trên sông diễn ra ác liệt, đúng lúc đó đại quân của Hưng Đạo
Vương kéo tới tiếp viện cho Nguyễn Khoái. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quân
tiếp viện rất đông, liền quay thuyền chạy trở lại.
Khi
chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy triều đã rút xuống, cọc
nhọn nhô lên, thuyền của quân Nguyên húc vào cọc đổ nghiêng, đổ ngửa,
phần nhiều bị vỡ và đắm.
Quân
ta càng đánh càng hăng quân Nguyên phần bị chết đuối rất nhiều, phần bị
trúng tên, giáo mác, máu chảy loang đỏ cả khúc sông. Quân ta bắt được
hơn 400 chiến thuyền giặc. Nội Minh Tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, Tích
Lệ Cơ Ngọc. Các tướng khác như Phàn Tiếp cũng bị bắt sống tại trận.
Trận
Bạch Đằng Giang diễn ra vào tháng 3 năm Mậu Tý (1288), mãi mãi là niềm
tự hào về tài dùng binh và tinh thần chiến đấu dũng cảm của tướng lĩnh
và binh sĩ cùng nhân dân thời Trần trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân
tộc.
Tin thủy quân bị đánh
tan, Ô Mã Nhi cùng các tướng bị bắt đã nhanh chóng được chuyển cho Thoát
Hoan. Quá hoảng sợ, toán quân đi đường bộ theo lệnh của Thoát Hoan vội
rút chạy. Khi về đến ải Nội Bàng, bỗng bị quân phục của Phạm Ngũ Lão đổ
ra đánh. Các tướng nguyên liều chết bảo vệ Thoát Hoan, chúng vừa đánh
vừa chạy.
Tướng Nguyên là
Trương Quân dẫn 3000 lính đi đoạn hậu cố sức chặn quân truy đuổi của
ta, nhưng y đã bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Thoát Hoan chạy thoát được ra
cửa ải, quân sĩ 10 phần chỉ còn lại 5, 6 phần.
Đại
quân của Thoát Hoan đang đi, bỗng có tin báo từ cửa ải Nữ Nhi đến núi
Kỳ Cấp (hơn 100 dặm), chỗ nào cũng có đồn ải của quân Đại Việt. Nghe tin
ấy, quân sĩ nhà Nguyên đều xôn xao sợ hãi, ở phía sau lại nghe tiếng ầm
ầm của quan quân đuổi theo.
Thoát
Hoan vội sai A-bát-xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường,
Áo-lỗi-xích đi đoạn hậu. Trên đường tháo chạy về nước hai viên tướng
Nguyên là A-bát-xích và Trương Ngọc đã bị quân phục kích của ta bắn
chết. Trình Bằng Phi liều mạng sống đưa Thoát Hoan chạy ra Đan Kỳ, qua
Lộc Châu rồi lén lút theo đường rừng chui lủi chạy thoát về châu Tư Minh
(Trung Quốc).
Đất nước sạch
bóng quân xâm luợc: “Hai vua trở về phủ Long Hưng (Thái Bình) đem các
bại tướng của giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc và Ô Mã Nhi, Tham Chính Sầm
Đoại, Phàn Tiếp... cùng với các viên tướng vạn hộ, thiên hộ làm lễ dâng
mừng thắng trận ở Chiêu Lăng (Tiến Đức – Hưng Hà – Thái Bình).
Trước
đó quân Nguyên đã đào Chiêu Lăng, muốn phá đi nhưng không xâm phạm được
đến quan tài. Đến khi giặc bị thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn.
Đó là do thần linh ngầm giúp vậy.
Vua
làm lễ yết có câu thơ rằng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/ Sơn hà
thiên cổ điện kim âu, (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông nghìn thuở
vững âu vàng).
Không đầy 5
tháng, quân dân ta đã tiêu diệt 30 vạn quân Nguyên, đánh bại cuộc xâm
lược lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng của chúng đối với Đại Việt.
Không những thế, còn ngăn chặn được âm mưu bành trướng của đế quốc
Nguyên Mông định tấn công xuống Đông Nam Châu Á và tấn công cả Nhật Bản.
Vì bị hao binh tổn tướng,
lại không chiếm được Đại Việt nên âm mưu trên đã bị hủy bỏ. Chiến công
ba lần thắng Nguyên Mông của dân tộc ta mãi mãi là niềm tự hào của các
thế hệ con dân nước Đại Việt xưa và nước Việt Nam ngày nay trong sự
nghiệp bảo vệ non sông gấm vóc của tổ tiên để lại.
Năm Canh Thìn
(1400) Hồ Quý Ly phế bỏ vua Trần Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, thoán
ngôi nhà Trần. Năm 1407 lấy cớ sang đánh nhà Hồ để lập dòng dõi nhà
Trần, cứu cho dân khỏi khổ sở, Minh Thành Tổ huy động 80 vạn quân, sai
Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, chia binh làm 2 đạo sang đánh
Đại Việt. Khi quân Minh đến Long Châu thì Chu Năng chết, phó tướng
Trương Phụ được cử lên thay.
Tuy vua tôi nhà Hồ đã phòng bị, nhưng trước sức mạnh của binh tướng nhà Minh, lại thêm lòng dân dao động vì tin theo lời hứa ủng hộ dòng dõi nhà Trần (của người Minh) nên nhà Hồ liên tiếp bị thất bại phải rút vào Thanh Hóa.
Tháng 4/1407 sau trận đánh ở cửa biển Kỳ La (cửa Nhượng) huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, quân nhà Hồ hoàn toàn tan vỡ. Cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều quần thần và tướng sĩ bị giặc Minh bắt đem về Trung Quốc.
Cuộc kháng chiến của vương triều nhà Hồ chấm dứt, nhưng ở nhiều nơi nhân dân ta vẫn tiếp tục nổi dậy chống quân xâm lược Minh, dưới lá cờ Cần Vương của Giản Địch Đế Trần Ngỗi và của Trần Quý Khoáng. Đến năm 1413 các cuộc khởi nghĩa trên đều bị tướng nhà Minh là Trương Phụ đè bẹp.
Sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh thực hiện âm mưu đồng hóa người Việt. Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết: “... Bọn Hoàng Phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”. (SĐD – Tr.192).
Bị áp bức bóc lột nặng nề, nhân dân ta kiên quyết đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra trong suốt những năm chiếm đóng của giặc Minh. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Mùa xuân năm 1418, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... phất cờ nghĩa Lam Sơn, dấy lên phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhằm “tiêu diệt giặc Minh để đem lại cái phúc thái bình muôn thuở”.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân Đại Việt, dưới lá cờ nghĩa của Bình định vương Lê Lợi diễn ra trong 10 năm (1418-1427).
Mới đầu khởi nghĩa, toàn bộ nghĩa quân chỉ có hơn 600 người và 14 thớt voi. Cờ nghĩa vừa dương lên, quân nhà Minh do Mã Kỳ chỉ huy đã kéo đến đàn áp, tấn công nghĩa quân Lam Sơn. Quân ta phục binh ở Lạc Thủy đánh thắng trận đầu tiên.
Năm Kỷ Hợi (1419) quân ta tấn công vào đồn Nga Lạc (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa), giết tướng Minh là Nguyễn Sao. Sau đó đại quân Minh tới vây ráp căn cứ Chí Linh.
Lương thảo ngày càng cạn kiệt, quân lính hy sinh nhiều, giặc bao vây tứ phía, để giữ cho bộ chỉ huy và đặc biệt là minh chủ Lê Lợi được an toàn, Lê Lai đã liều mình giả làm Lê Lợi, mặc áo ngự bào, cưỡi voi xông ra trận, đánh với giặc Minh. Lê Lai đã hy sinh anh dũng, nhưng toàn bộ bộ chỉ huy quân khởi nghĩa đã được bảo vệ an toàn.
Với tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi liên tiếp vạch ra những sách lược thông minh, linh hoạt để tấn công giặc và bẻ gẫy các cuộc tấn công của quân Minh, phá tan đạo quân của tướng giặc là Trần Trí. Do bị địch vây hãm, lương thực cạn kiệt, Lê Lợi chủ trương giảng hòa với giặc Minh để củng cố lực lượng, tích luỹ lương thực, mộ thêm quân nghĩa.
Để phá thế bao vây của giặc, năm 1424, với sự tham mưu của các tướng lĩnh, Lê Lợi quyết định tấn công Nghệ An để giải phóng vùng Thanh - Nghệ và Tân Bình - Thuận Hóa nhằm mở rộng căn cứ của nghĩa quân.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Năm 1424, theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, Bình Định Vương quyết tâm hạ thành Nghệ An để mở rộng căn cứ, tạo binh lực tiến đánh thành Đông Quan sau này.
Quân ta theo đường rừng, qua núi Bồ Lạp (có sách chép là Bồ Cứ) thuộc huyện Quỳnh Châu. Bình Định Vương cho phục quân và voi ở trong rừng để chờ giặc. Khi quân Minh kéo tới, bất ngờ hàng ngàn mũi tên từ trong rừng bắn ra, đá từ trên núi văng xuống, chiêng chống vang trời, quân ta như từ trên trời bay xuống, từ dưới đất mọc lên, ào ạt xung trận, quân giặc hoảng sợ kéo nhau chạy.
Quân ta chém đầu Đô tướng nhà Minh là Trần Trung, tiêu diệt hàng ngàn quân giặc, bắt được hàng trăm ngựa chiến. Tàn quân Minh vội vã trốn chạy theo lũ bại tướng Phương Chính.
Đánh tan giặc ở phía sau, quân ra tiếp tục hành quân và phục kích ở trang Trịnh Sơn – Châu Trà Lân, đánh tan đạo quân của Cầm Bành và Sư Hựu, buộc chúng phải kéo quân chạy lên núi cắm trại để chờ quân tiếp viện. Quân ta vây chặt núi, khiến giặc vô cùng khốn đốn, cuối cùng Cầm Bành phải hạ giáp quy hàng. Toàn bộ vùng Trà Lân sạch bóng quân thù. Phương Chính, Sơn Thọ phải chạy về Nghệ An cố thủ.
Để dụ giặc ra khỏi hang, quân ta tung tin rút quân và đốt doanh trại. Sau khi do thám thấy quả nhiên doanh trại đã bị đốt, giặc Minh liền đem quân đuổi theo, bất ngờ quân ta phục kích sẵn ở Bồ Ải (phía Tây huyện Thanh Chương, Nghệ An), khi giặc đến các tướng của Bình Địch Vương là Lê Sát, Lê Lễ... ào ạt xông ra chặn giặc, đánh tan quân Minh, bắt sống Chu Kiệt cùng hàng nghìn quân, chém tướng tiên phong là Hoành Thành. Trần Trí, Sơn Thọ vội vã kéo tàn quân rút về thành Nghệ An để chờ viện binh tới cứu.
Tháng 4/1425, tham tướng nhà Minh là Lý An, đem quân thủy từ thành Đông Quan (Thăng Long) đến cứu viện. Bình Định Vương dự đoán thấy viện binh đến, nhất định giặc trong thành sẽ kéo quân ra tiếp ứng. Quân ta liền lui về đóng ở huyện Đỗ La, đào cửa sông La, phục quân trên bờ sông để chờ giặc tới.
Quả nhiên khi Trần Trí mở cửa thành dẫn quân vượt sông La, bị quân phục của ta đánh úp tiêu diệt nhiều tên giặc. Trần Trí càng sợ hãi vội rút quân vào thành, đóng chặt cửa thành cố thủ.
Tháng 5/1425, được tin thuyền lương của giặc do Trương Hùng chỉ huy với 300 chiến thuyền chở lương từ Đông Quan đến. Đoán trước giặc nhất định phải mở cửa thành để đón lương thảo, Lê Lợi sai Lê Lễ đem phục binh áp sát thành chờ sẵn.
Khi thuyền lương đến, giặc trong thành kéo ra, phục binh của ta đổ ra đánh, chém đầu thiên hộ Tưởng. Trương Hùng thấy vậy vội cho thuyền tháo lui. Lê Lễ hô quân đuổi theo, thuyền giặc quay đầu chạy, bất ngờ bị quân ta chặn ở trước mặt, sau lưng lại có quân đuổi. Quân giặc bị đánh bất ngờ, nhiều tên bị giết hoặc nhảy xuống sông bị chết đuối. Quân ta thu được nhiều thuyền lương của giặc.
Sau chiến thắng, nhận thấy thành Tây Đô còn ít quân, Bình định Vương sai Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân, Lê Bí đi đường tắt đánh úp thành Tây Đô, tiêu diệt và bắt sống hàng ngàn quân giặc. Nhân dân Thanh Hóa nô nức xin tòng quân cứu nước và tham gia cùng nghĩa quân vây chặt thành Tây Đô.
Trong khi vây thành Tây Đô và thành nghệ An, Lê Lợi cử tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Lễ đem quân giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa. Với việc vận dụng mưu trí sách lược “nhử người tới, chứ không để người nhử tới”, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng một vùng rộng lớn từ Tam Điệp đến đèo Hải Vân. Vây chặt quân Minh ở thành Tây Đô, ở thành Nghệ An.
Nhận thấy thế và lực của quân ta ngày càng vững mạnh, Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương tấn công ra Bắc tiêu diệt quân giặc và đánh chặn viện binh của chúng.
Trận Tốt Động - Vương Thông bạt vía kinh hồn
Sau khi đem quân đến tiếp viện cho thành Đông Quan, ngày 16/10/1426, Tổng binh Vương Thông chia quân Minh làm 3 đạo để tiến đánh quân ta. Vương Thông đóng quân ở bến đò Cổ Sở (đò Phùng - thuộc xã Yên Sở, Thạch Thất, Hà Nội), cho làm cầu phao để đưa quân qua sông. Phương Chính đóng quân ở cầu Sa Đôi, Sơn Thọ. Mã Kỳ đóng quân ở gần cầu Thanh Oai.
Quân giặc hạ trại liền nhau, kéo dài vài chục dặm, cờ xí rợp trời. Chúng hí hửng tin rằng với hàng chục vạn quân chỉ cần đánh một trận là bắt được Bình Định Vương Lê Lợi.
Mặc dù đội quân tiên phong của ta do tướng Lê Triện, Lê Bí chỉ huy ít hơn địch rất nhiều, nhưng nhận thấy không thể ngồi chờ địch tới, hai tướng liền chủ trương nhằm vào mũi đóng quân của Sơn Thọ và Mã Kỳ ở Thanh Oai để tấn công trước vì thực lực của đạo quân này yếu hơn hai đạo quân kia.
Quân ta bày kế nghi binh, nhử địch tới cầu Ba La (nơi đây có địa hình lầy lội, cây cối um tùm). Quân ta lại cho du binh đánh vào doanh trại của Mã Kỳ, Sơn Thọ rồi giả thua bỏ chạy.
Quân Minh đuổi theo, khi qua cầu Ba La, quân phục nổi dậy đánh ngang sườn đội hình giặc. Giặc bị bất ngờ, sa vào bùn lầy và bị tiêu diệt hàng ngàn tên. Số sống sót chạy về cầu Nhân Mục. Vương Thông vô cùng tức tối, y lên kế hoạch tấn công quân ta với ý đồ đặt pháo ở phía sau, chờ súng nổ. Thấy quân ta di động là địch xông vào tấn công.
Nắm được âm mưu của giặc, Lê Lễ được lệnh đem phục binh chờ giặc ở Thanh Đàm, mặt khác truyền lệnh cho ba quân, nếu nghe tiếng súng trận nổ thì ẩn náu, không đuợc manh động, chờ khi giặc tới gần, có hiệu lệnh mới được tấn công.
Quân giặc nổ pháo về phía quân ta, chúng thấy không có động tĩnh gì, tướng giặc liền xua quân tiến sâu vào. Khi chúng vào đến gần sông Yên Duyệt thì quân phục của ta ở ba phía đều nổi dậy, xông vào tấn công địch ở Chúc Động, Tốt Động phá tan quân giặc.
Thượng Thư Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng cùng hàng vạn lính giặc bị tiêu diệt hoặc rơi xuống sông chết đuối. “Nước sông Ninh Kiều không chảy được, bắt sống được hơn 1 vạn người, thu giữ ngựa, khí giới, quân trang và xe cộ không kể xiết. Phương Chính theo đò khổ sở trốn về, bọn Vương Thông, Mã Kỳ chỉ thoát được thân chạy về thành Đông Quan” (ĐVSKTT).
Sau chiến thắng Tốt Động, làm bạt vía kinh hồn quân giặc, Bình Định Vương cho quân trấn giữ các đạo, bao vây thành Đông Đô (Đông Quan). Vương Thông cho người đưa thư xin hòa và xin cho đem tàn quân về nước.
Bình Định Vương thuận cho, nhưng Vương Thông bên ngoài thì cầu hòa, bên trong lại cho quân lính đào hào, đặt chông và cho người đem thư về nước xin viện binh. Quân ta bắt được người đưa thư của giặc, Bình Định Vương liền cắt quan hệ hòa hoãn với Vương Thông.
Để chặn đánh quân Minh ở các thành xung quanh Đông Quan, vua sai các tướng đi đánh thành Điêu Diêu và thành Thụy Cầu. Tướng Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang. Tướng Lê Sát đánh thành Xương Giang. Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu các thành trên đều rơi vào tay nghĩa quân. Bình Định Vương cho ổn định chính quyền ở các vùng đất đã được giải phóng, tuyển thêm quân, chuyển bị vũ khí sẵn sàng tiêu diệt viện binh của giặc đến giải vây cho thành Đông Quan.
Trận Chi Lăng - Liễu Thăng rơi đầu
Đầu năm 1427, vua Minh sai An viên hầu Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy 15 vạn quân, chia làm hai đường tiến vào nước ta. Trước tình hình trong nước vẫn còn giặc, ngoài biên ải thì giặc đang kéo vào, Lê Lợi để lại một số quân vây thành Đông Quan, sau đó cho tướng đem một vạn quân chặn Mộc Thạch ở ải Lê Hoa (Hà Giang). Một vạn quân được lệnh kéo lên mai phục ở ải Chi Lăng, hai vạn quân được lệnh sẵn sàng tiếp ứng cho mặt trận Chi Lăng. Đại quân thuỷ được lệnh tập trung ở sông Thương để chuẩn bị đánh địch.
Ngày 18, tổng binh nhà Minh là Chinh Lỗ tướng quân thái tử thái phó An Viễn Hầu Liễu Thăng đem 10 vạn binh và 2 vạn ngựa đánh vào cửa ải Pha Lũy. Lê Lợi chủ trương: “Đem quân nhàn rỗi, địch quân mỏi mệt, nhất định là thắng”.
Các tướng Lê Sát, Lê Nhân Trú, Lê Liệt... được lệnh nhử giặc vào sâu trong trận địa phục binh. Khi Liễu Thăng đánh ải Pha Lũy, Lê Lựu chống cự yếu ớt rồi lui quân về giữ cửa Ải Lưu.
Giặc đánh cửa Ải Lưu, quân ta lại lui về đóng ở Chi Lăng. Liễu Thăng hí hửng tưởng thắng liền thúc quân kỵ đuổi nhanh. Khi đến ải Chi Lăng, Lê Sát, Lê Nhân Chú lại sai Lê Lựu xông ra đánh. Đang đánh nhau Lê Lựu lại bỏ chạy, giặc đắc thắng ào đuổi theo.
Ngày 20 Liễu Thăng đánh quân ta ở Chi Lăng, Lê Lựu cho quân lui về đến núi Mã Yên. Khi giặc rơi vào trận địa phục kích, quân phục của ta từ các phía đổ ra. Quân giặc rối trận, bị đánh tơi bời. Liễu Thăng bị chém ở sườn núi Mã Yên cùng hàng vạn quân lính.
Chỉ trong 27 ngày, với tài dùng binh thao lược, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt 10 vạn viện binh của địch do Liễu Thăng chỉ huy, làm thất bại âm mưu giải cứu thành Đông Quan của chúng.
Đạo quân thứ 2 của giặc Minh do Mộc Thạch chỉ huy, đến cửa ải Lê Hoa đã bị quân dân ta dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Sảo và Trịnh Khải kìm chân. Vua (Lê Lợi) đoán biết Mộc Thạch là viên tướng tuổi cao, từng trải chiến trận, tất sẽ đợi xem Liễu Thăng thành bại ra sao, chứ không dám liều lĩnh tấn công.
Quả đúng như dự đoán, Mộc Thạch đã không dám mạo hiểm tung quân chiến đấu với quân ta ở ải Lê Hoa. Khi diệt được Liễu Thăng, Lê Lợi sai một viên tướng nhà Minh cùng ba viên thiên hộ bại trận – đem các sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến quân của Mộc Thạch. Mặt khác, ta cho quân áp sát trại giặc. Quân tướng nhà Minh thấy vậy hoảng sợ, không kịp đánh nhau đã vội vàng rút chạy, mạnh tên nào tên ấy đi, đội hình rối loạn.
Quân ta thừa thắng đuổi đánh, diệt được hàng ngàn quân giặc ở ngòi Nước Lạnh và Đan Xá, thu giữ nhiều vũ khí và ngựa chiến, bắt được hàng nghìn tù binh. Mộc Thạch hết hồn, chỉ còn một mình một ngựa chạy thoát về bên kia biên giới.
Vương Thông đầu hàng - Cấp ngựa cho về cố quốc mà tay rụng, chân rời
Vua (Lê Lợi) sai người đem Phù song hổ và ấn tín của Liễu Thăng đến thành Đông Quan cho Vương Thông. Quan quân giặc hoảng sợ. Quân ta lại sắp rào gỗ và đồ đánh trận để vây thành Đông Quan, khiến tổng binh nhà Minh là Vương Thông phải sai người mang thư đến giảng hòa, xin mở cho đường về nước.
Vua đồng ý, nhưng Vương Thông ngoài mặt xin giảng hòa mà trong lòng vẫn do dự chưa quyết. Thấy quân ta đắp lũy, Vương Thông liền đem hết quân trong thành ra đánh.
Quân ta mai phục sẵn, khi đánh giả thua bỏ chạy. Giặc Minh đuổi theo, quân phục đổ ra dốc sức đánh, phá tan quân giặc. Vương Thông ngã ngựa, suýt bị bắt, vội vã chạy về thành.
Vì quá hoảng sợ, Vương Thông vội viết tấu thư gửi về nước cho vua Minh, trình bày lý do xin giảng hòa với quân ta. Trong tấu có đoạn: “Chớ tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được...” (ĐVSKTT-Tập2-Tr.72).
Các tướng xin đánh thành, Hành khiển Nguyễn Trãi vì xem được tấu thư của Vương Thông gửi về nước (do quân ta bắt được người đưa thư) nên khuyên vua (Lê Lợi) cần chuyên chú giải hòa. Vua nghe theo lời liền cho quân đang bao vây lùi ra xa ngoài thành.
Vương Thông xin hòa và cho Vương Thọ, Mã Kỳ ra làm con tin ở dinh Bồ Đề. Bấy giờ các tướng sĩ và nhân dân trong nước rất oán giặc Minh vì chúng đã giết hại bố mẹ, họ hàng, vợ con của họ, nên rủ nhau đến xin vua giết giặc đi.
Vua dụ rằng: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, mà không thích giết người là bản tâm của người nhân. Vả lại người ta hàng rồi mà giết thì việc bất tường, không gì lo bằng. Để thỏa lòng giận trong một buổi mà mang tiếng giết người đầu hàng mãi mãi muôn năm, chi bằng tha mạng cho ức vạn người mà tuyệt mối chiến tranh sau này, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn sao.” (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.74).
Sau khi có hòa ước, nhiều quan lại quân lính nhà Minh đã xin ở lại phương Nam, Vương Thông đều đồng ý.
Tháng 12, ngày 12 năm 1427 được quân ta cấp cho ngựa, cỏ, lương thực, lại có người dẫn đường nên Vương Thông đã sai quân bộ vượt sông Lô đi trước về nước (Trung Quốc).
Quân thủy gồm 8600 người do Mã Kỳ, Phương Chính theo đường thủy rút về nước với 500 chiếc thuyền được quân ta cấp phát và lương thực đầy đủ.
Minh sử Q.31 chép: “Tháng 11 (Vua Minh) dụ cho Thông và quan tam ti triệt hết quân dân về Bắc. Chiếu (chỉ) chưa đến thì Thông đã bỏ Giao Chỉ do đường bộ về Quảng Tây. Trung quân Sơn Thọ và Mã Kỳ cùng các quan tam ti là Thú Lệnh thì do đường thuỷ về Khâm Châu. Được về chỉ có 8 vạn 6 nghìn người. Bị giặc giết và giữ lại không xiết kể.” (SĐD)
“Trước khi về nước các tướng giặc đều đến dinh Bồ Đề lạy tạ (vua) mà về. Bọn Phương Chính, Mã Kỳ... vừa cảm ơn vừa xấu hổ đến chảy nước mắt”. (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.75).
Sau chiến thắng chống quân xâm lược Minh, vua (Lê Lợi) sai Nguyễn Trãi soạn bố cáo (Bình ngô đại cáo) khắp thiên hạ. Đoạn kết của bài Bố cáo viết: “Oai thần không giết, ta thề lòng trời cao mà tỏ hiếu sinh/ Bọn tham chính Phương chính, nội quan Mã Kỳ, trước cấp cho 500 thuyền, đã qua sông mà hồn xiêu phách lạc/ Bọn tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cấp cho mấy trăm ngựa, đã về nước mà còn tay rụng chân rời/ Ôi! Một gươm cả định rốt cuộc lên nghiệp khôn bì/ Xã tắc do đó vững bền/ Non sông do đó tươi đẹp/ Càn khôn đã bĩ mà thái lai/ Nhật nguyệt đã mờ mà sáng ra/ Để cho dựng thành nền muôn thuở thái bình…”.
Dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, với sự tham mưu tài tình của Nguyễn Trãi, sự trí dũng của các tướng, sự dũng mãnh, tinh luyện của binh lính, cuộc chiến tranh giải phóng của đất nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi.
Từ trận Lạc Thủy đầu tiên năm 1414 đến chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang (1427), toàn dân ta đã trải qua 10 năm “nếm mật nằm gai” đấu tranh cực kỳ anh dũng đánh đuổi quân xâm lược, viết lên những trang sử chói lọi vinh quang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ non sông đất nước.
Nhà sử học Đặng Hùng
http://vtc.vn/394-343130/phong-su-kham-pha/tran-danh-khien-quan-tuong-phuong-bac-tay-rung-chan-roi.htm
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- |
Tuy vua tôi nhà Hồ đã phòng bị, nhưng trước sức mạnh của binh tướng nhà Minh, lại thêm lòng dân dao động vì tin theo lời hứa ủng hộ dòng dõi nhà Trần (của người Minh) nên nhà Hồ liên tiếp bị thất bại phải rút vào Thanh Hóa.
Tháng 4/1407 sau trận đánh ở cửa biển Kỳ La (cửa Nhượng) huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, quân nhà Hồ hoàn toàn tan vỡ. Cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều quần thần và tướng sĩ bị giặc Minh bắt đem về Trung Quốc.
Vua Lê Lợi chỉ huy đánh giặc. |
Cuộc kháng chiến của vương triều nhà Hồ chấm dứt, nhưng ở nhiều nơi nhân dân ta vẫn tiếp tục nổi dậy chống quân xâm lược Minh, dưới lá cờ Cần Vương của Giản Địch Đế Trần Ngỗi và của Trần Quý Khoáng. Đến năm 1413 các cuộc khởi nghĩa trên đều bị tướng nhà Minh là Trương Phụ đè bẹp.
Sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh thực hiện âm mưu đồng hóa người Việt. Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết: “... Bọn Hoàng Phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”. (SĐD – Tr.192).
Bị áp bức bóc lột nặng nề, nhân dân ta kiên quyết đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra trong suốt những năm chiếm đóng của giặc Minh. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Mùa xuân năm 1418, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... phất cờ nghĩa Lam Sơn, dấy lên phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhằm “tiêu diệt giặc Minh để đem lại cái phúc thái bình muôn thuở”.
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân Đại Việt, dưới lá cờ nghĩa của Bình định vương Lê Lợi diễn ra trong 10 năm (1418-1427).
Mới đầu khởi nghĩa, toàn bộ nghĩa quân chỉ có hơn 600 người và 14 thớt voi. Cờ nghĩa vừa dương lên, quân nhà Minh do Mã Kỳ chỉ huy đã kéo đến đàn áp, tấn công nghĩa quân Lam Sơn. Quân ta phục binh ở Lạc Thủy đánh thắng trận đầu tiên.
Năm Kỷ Hợi (1419) quân ta tấn công vào đồn Nga Lạc (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa), giết tướng Minh là Nguyễn Sao. Sau đó đại quân Minh tới vây ráp căn cứ Chí Linh.
Vua Lê Lợi. |
Lương thảo ngày càng cạn kiệt, quân lính hy sinh nhiều, giặc bao vây tứ phía, để giữ cho bộ chỉ huy và đặc biệt là minh chủ Lê Lợi được an toàn, Lê Lai đã liều mình giả làm Lê Lợi, mặc áo ngự bào, cưỡi voi xông ra trận, đánh với giặc Minh. Lê Lai đã hy sinh anh dũng, nhưng toàn bộ bộ chỉ huy quân khởi nghĩa đã được bảo vệ an toàn.
Với tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi liên tiếp vạch ra những sách lược thông minh, linh hoạt để tấn công giặc và bẻ gẫy các cuộc tấn công của quân Minh, phá tan đạo quân của tướng giặc là Trần Trí. Do bị địch vây hãm, lương thực cạn kiệt, Lê Lợi chủ trương giảng hòa với giặc Minh để củng cố lực lượng, tích luỹ lương thực, mộ thêm quân nghĩa.
Để phá thế bao vây của giặc, năm 1424, với sự tham mưu của các tướng lĩnh, Lê Lợi quyết định tấn công Nghệ An để giải phóng vùng Thanh - Nghệ và Tân Bình - Thuận Hóa nhằm mở rộng căn cứ của nghĩa quân.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Năm 1424, theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, Bình Định Vương quyết tâm hạ thành Nghệ An để mở rộng căn cứ, tạo binh lực tiến đánh thành Đông Quan sau này.
Quân ta theo đường rừng, qua núi Bồ Lạp (có sách chép là Bồ Cứ) thuộc huyện Quỳnh Châu. Bình Định Vương cho phục quân và voi ở trong rừng để chờ giặc. Khi quân Minh kéo tới, bất ngờ hàng ngàn mũi tên từ trong rừng bắn ra, đá từ trên núi văng xuống, chiêng chống vang trời, quân ta như từ trên trời bay xuống, từ dưới đất mọc lên, ào ạt xung trận, quân giặc hoảng sợ kéo nhau chạy.
Quân ta chém đầu Đô tướng nhà Minh là Trần Trung, tiêu diệt hàng ngàn quân giặc, bắt được hàng trăm ngựa chiến. Tàn quân Minh vội vã trốn chạy theo lũ bại tướng Phương Chính.
Đánh tan giặc ở phía sau, quân ra tiếp tục hành quân và phục kích ở trang Trịnh Sơn – Châu Trà Lân, đánh tan đạo quân của Cầm Bành và Sư Hựu, buộc chúng phải kéo quân chạy lên núi cắm trại để chờ quân tiếp viện. Quân ta vây chặt núi, khiến giặc vô cùng khốn đốn, cuối cùng Cầm Bành phải hạ giáp quy hàng. Toàn bộ vùng Trà Lân sạch bóng quân thù. Phương Chính, Sơn Thọ phải chạy về Nghệ An cố thủ.
Để dụ giặc ra khỏi hang, quân ta tung tin rút quân và đốt doanh trại. Sau khi do thám thấy quả nhiên doanh trại đã bị đốt, giặc Minh liền đem quân đuổi theo, bất ngờ quân ta phục kích sẵn ở Bồ Ải (phía Tây huyện Thanh Chương, Nghệ An), khi giặc đến các tướng của Bình Địch Vương là Lê Sát, Lê Lễ... ào ạt xông ra chặn giặc, đánh tan quân Minh, bắt sống Chu Kiệt cùng hàng nghìn quân, chém tướng tiên phong là Hoành Thành. Trần Trí, Sơn Thọ vội vã kéo tàn quân rút về thành Nghệ An để chờ viện binh tới cứu.
Tượng Nguyễn Trãi. |
Tháng 4/1425, tham tướng nhà Minh là Lý An, đem quân thủy từ thành Đông Quan (Thăng Long) đến cứu viện. Bình Định Vương dự đoán thấy viện binh đến, nhất định giặc trong thành sẽ kéo quân ra tiếp ứng. Quân ta liền lui về đóng ở huyện Đỗ La, đào cửa sông La, phục quân trên bờ sông để chờ giặc tới.
Quả nhiên khi Trần Trí mở cửa thành dẫn quân vượt sông La, bị quân phục của ta đánh úp tiêu diệt nhiều tên giặc. Trần Trí càng sợ hãi vội rút quân vào thành, đóng chặt cửa thành cố thủ.
Tháng 5/1425, được tin thuyền lương của giặc do Trương Hùng chỉ huy với 300 chiến thuyền chở lương từ Đông Quan đến. Đoán trước giặc nhất định phải mở cửa thành để đón lương thảo, Lê Lợi sai Lê Lễ đem phục binh áp sát thành chờ sẵn.
Khi thuyền lương đến, giặc trong thành kéo ra, phục binh của ta đổ ra đánh, chém đầu thiên hộ Tưởng. Trương Hùng thấy vậy vội cho thuyền tháo lui. Lê Lễ hô quân đuổi theo, thuyền giặc quay đầu chạy, bất ngờ bị quân ta chặn ở trước mặt, sau lưng lại có quân đuổi. Quân giặc bị đánh bất ngờ, nhiều tên bị giết hoặc nhảy xuống sông bị chết đuối. Quân ta thu được nhiều thuyền lương của giặc.
Sau chiến thắng, nhận thấy thành Tây Đô còn ít quân, Bình định Vương sai Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân, Lê Bí đi đường tắt đánh úp thành Tây Đô, tiêu diệt và bắt sống hàng ngàn quân giặc. Nhân dân Thanh Hóa nô nức xin tòng quân cứu nước và tham gia cùng nghĩa quân vây chặt thành Tây Đô.
Trong khi vây thành Tây Đô và thành nghệ An, Lê Lợi cử tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Lễ đem quân giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa. Với việc vận dụng mưu trí sách lược “nhử người tới, chứ không để người nhử tới”, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng một vùng rộng lớn từ Tam Điệp đến đèo Hải Vân. Vây chặt quân Minh ở thành Tây Đô, ở thành Nghệ An.
Nhận thấy thế và lực của quân ta ngày càng vững mạnh, Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương tấn công ra Bắc tiêu diệt quân giặc và đánh chặn viện binh của chúng.
Trận Tốt Động - Vương Thông bạt vía kinh hồn
Sau khi đem quân đến tiếp viện cho thành Đông Quan, ngày 16/10/1426, Tổng binh Vương Thông chia quân Minh làm 3 đạo để tiến đánh quân ta. Vương Thông đóng quân ở bến đò Cổ Sở (đò Phùng - thuộc xã Yên Sở, Thạch Thất, Hà Nội), cho làm cầu phao để đưa quân qua sông. Phương Chính đóng quân ở cầu Sa Đôi, Sơn Thọ. Mã Kỳ đóng quân ở gần cầu Thanh Oai.
Quân giặc hạ trại liền nhau, kéo dài vài chục dặm, cờ xí rợp trời. Chúng hí hửng tin rằng với hàng chục vạn quân chỉ cần đánh một trận là bắt được Bình Định Vương Lê Lợi.
Mặc dù đội quân tiên phong của ta do tướng Lê Triện, Lê Bí chỉ huy ít hơn địch rất nhiều, nhưng nhận thấy không thể ngồi chờ địch tới, hai tướng liền chủ trương nhằm vào mũi đóng quân của Sơn Thọ và Mã Kỳ ở Thanh Oai để tấn công trước vì thực lực của đạo quân này yếu hơn hai đạo quân kia.
Quân ta bày kế nghi binh, nhử địch tới cầu Ba La (nơi đây có địa hình lầy lội, cây cối um tùm). Quân ta lại cho du binh đánh vào doanh trại của Mã Kỳ, Sơn Thọ rồi giả thua bỏ chạy.
Quân Minh đuổi theo, khi qua cầu Ba La, quân phục nổi dậy đánh ngang sườn đội hình giặc. Giặc bị bất ngờ, sa vào bùn lầy và bị tiêu diệt hàng ngàn tên. Số sống sót chạy về cầu Nhân Mục. Vương Thông vô cùng tức tối, y lên kế hoạch tấn công quân ta với ý đồ đặt pháo ở phía sau, chờ súng nổ. Thấy quân ta di động là địch xông vào tấn công.
Nắm được âm mưu của giặc, Lê Lễ được lệnh đem phục binh chờ giặc ở Thanh Đàm, mặt khác truyền lệnh cho ba quân, nếu nghe tiếng súng trận nổ thì ẩn náu, không đuợc manh động, chờ khi giặc tới gần, có hiệu lệnh mới được tấn công.
Quân giặc nổ pháo về phía quân ta, chúng thấy không có động tĩnh gì, tướng giặc liền xua quân tiến sâu vào. Khi chúng vào đến gần sông Yên Duyệt thì quân phục của ta ở ba phía đều nổi dậy, xông vào tấn công địch ở Chúc Động, Tốt Động phá tan quân giặc.
Thượng Thư Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng cùng hàng vạn lính giặc bị tiêu diệt hoặc rơi xuống sông chết đuối. “Nước sông Ninh Kiều không chảy được, bắt sống được hơn 1 vạn người, thu giữ ngựa, khí giới, quân trang và xe cộ không kể xiết. Phương Chính theo đò khổ sở trốn về, bọn Vương Thông, Mã Kỳ chỉ thoát được thân chạy về thành Đông Quan” (ĐVSKTT).
Sau chiến thắng Tốt Động, làm bạt vía kinh hồn quân giặc, Bình Định Vương cho quân trấn giữ các đạo, bao vây thành Đông Đô (Đông Quan). Vương Thông cho người đưa thư xin hòa và xin cho đem tàn quân về nước.
Bình Định Vương thuận cho, nhưng Vương Thông bên ngoài thì cầu hòa, bên trong lại cho quân lính đào hào, đặt chông và cho người đem thư về nước xin viện binh. Quân ta bắt được người đưa thư của giặc, Bình Định Vương liền cắt quan hệ hòa hoãn với Vương Thông.
Để chặn đánh quân Minh ở các thành xung quanh Đông Quan, vua sai các tướng đi đánh thành Điêu Diêu và thành Thụy Cầu. Tướng Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang. Tướng Lê Sát đánh thành Xương Giang. Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu các thành trên đều rơi vào tay nghĩa quân. Bình Định Vương cho ổn định chính quyền ở các vùng đất đã được giải phóng, tuyển thêm quân, chuyển bị vũ khí sẵn sàng tiêu diệt viện binh của giặc đến giải vây cho thành Đông Quan.
Trận Chi Lăng - Liễu Thăng rơi đầu
Đầu năm 1427, vua Minh sai An viên hầu Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy 15 vạn quân, chia làm hai đường tiến vào nước ta. Trước tình hình trong nước vẫn còn giặc, ngoài biên ải thì giặc đang kéo vào, Lê Lợi để lại một số quân vây thành Đông Quan, sau đó cho tướng đem một vạn quân chặn Mộc Thạch ở ải Lê Hoa (Hà Giang). Một vạn quân được lệnh kéo lên mai phục ở ải Chi Lăng, hai vạn quân được lệnh sẵn sàng tiếp ứng cho mặt trận Chi Lăng. Đại quân thuỷ được lệnh tập trung ở sông Thương để chuẩn bị đánh địch.
Ngày 18, tổng binh nhà Minh là Chinh Lỗ tướng quân thái tử thái phó An Viễn Hầu Liễu Thăng đem 10 vạn binh và 2 vạn ngựa đánh vào cửa ải Pha Lũy. Lê Lợi chủ trương: “Đem quân nhàn rỗi, địch quân mỏi mệt, nhất định là thắng”.
Các tướng Lê Sát, Lê Nhân Trú, Lê Liệt... được lệnh nhử giặc vào sâu trong trận địa phục binh. Khi Liễu Thăng đánh ải Pha Lũy, Lê Lựu chống cự yếu ớt rồi lui quân về giữ cửa Ải Lưu.
Giặc đánh cửa Ải Lưu, quân ta lại lui về đóng ở Chi Lăng. Liễu Thăng hí hửng tưởng thắng liền thúc quân kỵ đuổi nhanh. Khi đến ải Chi Lăng, Lê Sát, Lê Nhân Chú lại sai Lê Lựu xông ra đánh. Đang đánh nhau Lê Lựu lại bỏ chạy, giặc đắc thắng ào đuổi theo.
Ngày 20 Liễu Thăng đánh quân ta ở Chi Lăng, Lê Lựu cho quân lui về đến núi Mã Yên. Khi giặc rơi vào trận địa phục kích, quân phục của ta từ các phía đổ ra. Quân giặc rối trận, bị đánh tơi bời. Liễu Thăng bị chém ở sườn núi Mã Yên cùng hàng vạn quân lính.
Chỉ trong 27 ngày, với tài dùng binh thao lược, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt 10 vạn viện binh của địch do Liễu Thăng chỉ huy, làm thất bại âm mưu giải cứu thành Đông Quan của chúng.
Đạo quân thứ 2 của giặc Minh do Mộc Thạch chỉ huy, đến cửa ải Lê Hoa đã bị quân dân ta dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Sảo và Trịnh Khải kìm chân. Vua (Lê Lợi) đoán biết Mộc Thạch là viên tướng tuổi cao, từng trải chiến trận, tất sẽ đợi xem Liễu Thăng thành bại ra sao, chứ không dám liều lĩnh tấn công.
Quả đúng như dự đoán, Mộc Thạch đã không dám mạo hiểm tung quân chiến đấu với quân ta ở ải Lê Hoa. Khi diệt được Liễu Thăng, Lê Lợi sai một viên tướng nhà Minh cùng ba viên thiên hộ bại trận – đem các sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến quân của Mộc Thạch. Mặt khác, ta cho quân áp sát trại giặc. Quân tướng nhà Minh thấy vậy hoảng sợ, không kịp đánh nhau đã vội vàng rút chạy, mạnh tên nào tên ấy đi, đội hình rối loạn.
Quân ta thừa thắng đuổi đánh, diệt được hàng ngàn quân giặc ở ngòi Nước Lạnh và Đan Xá, thu giữ nhiều vũ khí và ngựa chiến, bắt được hàng nghìn tù binh. Mộc Thạch hết hồn, chỉ còn một mình một ngựa chạy thoát về bên kia biên giới.
Vương Thông đầu hàng - Cấp ngựa cho về cố quốc mà tay rụng, chân rời
Vua (Lê Lợi) sai người đem Phù song hổ và ấn tín của Liễu Thăng đến thành Đông Quan cho Vương Thông. Quan quân giặc hoảng sợ. Quân ta lại sắp rào gỗ và đồ đánh trận để vây thành Đông Quan, khiến tổng binh nhà Minh là Vương Thông phải sai người mang thư đến giảng hòa, xin mở cho đường về nước.
Vua đồng ý, nhưng Vương Thông ngoài mặt xin giảng hòa mà trong lòng vẫn do dự chưa quyết. Thấy quân ta đắp lũy, Vương Thông liền đem hết quân trong thành ra đánh.
Quân ta mai phục sẵn, khi đánh giả thua bỏ chạy. Giặc Minh đuổi theo, quân phục đổ ra dốc sức đánh, phá tan quân giặc. Vương Thông ngã ngựa, suýt bị bắt, vội vã chạy về thành.
Vì quá hoảng sợ, Vương Thông vội viết tấu thư gửi về nước cho vua Minh, trình bày lý do xin giảng hòa với quân ta. Trong tấu có đoạn: “Chớ tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được...” (ĐVSKTT-Tập2-Tr.72).
Các tướng xin đánh thành, Hành khiển Nguyễn Trãi vì xem được tấu thư của Vương Thông gửi về nước (do quân ta bắt được người đưa thư) nên khuyên vua (Lê Lợi) cần chuyên chú giải hòa. Vua nghe theo lời liền cho quân đang bao vây lùi ra xa ngoài thành.
Vương Thông xin hòa và cho Vương Thọ, Mã Kỳ ra làm con tin ở dinh Bồ Đề. Bấy giờ các tướng sĩ và nhân dân trong nước rất oán giặc Minh vì chúng đã giết hại bố mẹ, họ hàng, vợ con của họ, nên rủ nhau đến xin vua giết giặc đi.
Vua dụ rằng: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, mà không thích giết người là bản tâm của người nhân. Vả lại người ta hàng rồi mà giết thì việc bất tường, không gì lo bằng. Để thỏa lòng giận trong một buổi mà mang tiếng giết người đầu hàng mãi mãi muôn năm, chi bằng tha mạng cho ức vạn người mà tuyệt mối chiến tranh sau này, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn sao.” (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.74).
Sau khi có hòa ước, nhiều quan lại quân lính nhà Minh đã xin ở lại phương Nam, Vương Thông đều đồng ý.
Tháng 12, ngày 12 năm 1427 được quân ta cấp cho ngựa, cỏ, lương thực, lại có người dẫn đường nên Vương Thông đã sai quân bộ vượt sông Lô đi trước về nước (Trung Quốc).
Quân thủy gồm 8600 người do Mã Kỳ, Phương Chính theo đường thủy rút về nước với 500 chiếc thuyền được quân ta cấp phát và lương thực đầy đủ.
Minh sử Q.31 chép: “Tháng 11 (Vua Minh) dụ cho Thông và quan tam ti triệt hết quân dân về Bắc. Chiếu (chỉ) chưa đến thì Thông đã bỏ Giao Chỉ do đường bộ về Quảng Tây. Trung quân Sơn Thọ và Mã Kỳ cùng các quan tam ti là Thú Lệnh thì do đường thuỷ về Khâm Châu. Được về chỉ có 8 vạn 6 nghìn người. Bị giặc giết và giữ lại không xiết kể.” (SĐD)
“Trước khi về nước các tướng giặc đều đến dinh Bồ Đề lạy tạ (vua) mà về. Bọn Phương Chính, Mã Kỳ... vừa cảm ơn vừa xấu hổ đến chảy nước mắt”. (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.75).
Sau chiến thắng chống quân xâm lược Minh, vua (Lê Lợi) sai Nguyễn Trãi soạn bố cáo (Bình ngô đại cáo) khắp thiên hạ. Đoạn kết của bài Bố cáo viết: “Oai thần không giết, ta thề lòng trời cao mà tỏ hiếu sinh/ Bọn tham chính Phương chính, nội quan Mã Kỳ, trước cấp cho 500 thuyền, đã qua sông mà hồn xiêu phách lạc/ Bọn tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cấp cho mấy trăm ngựa, đã về nước mà còn tay rụng chân rời/ Ôi! Một gươm cả định rốt cuộc lên nghiệp khôn bì/ Xã tắc do đó vững bền/ Non sông do đó tươi đẹp/ Càn khôn đã bĩ mà thái lai/ Nhật nguyệt đã mờ mà sáng ra/ Để cho dựng thành nền muôn thuở thái bình…”.
Dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, với sự tham mưu tài tình của Nguyễn Trãi, sự trí dũng của các tướng, sự dũng mãnh, tinh luyện của binh lính, cuộc chiến tranh giải phóng của đất nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi.
Từ trận Lạc Thủy đầu tiên năm 1414 đến chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang (1427), toàn dân ta đã trải qua 10 năm “nếm mật nằm gai” đấu tranh cực kỳ anh dũng đánh đuổi quân xâm lược, viết lên những trang sử chói lọi vinh quang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ non sông đất nước.
Nhà sử học Đặng Hùng
http://vtc.vn/394-343130/phong-su-kham-pha/tran-danh-khien-quan-tuong-phuong-bac-tay-rung-chan-roi.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét