Lén lút, "thừa nước đục
thả câu", "ỷ mạnh hiếp yếu", coi thường luật pháp quốc tế, bội tín... là
những thủ đoạn của Trung Quốc khi xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam, được nêu rõ trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" do UBND huyện
đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) và NXB Thông tin - Truyền thông xuất bản tháng
1/2012.
"THỪA NƯỚC ĐỤC THẢ CÂU" GIAI ĐOẠN 1946 - 1956
Trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" có đăng tải bài viết quan trọng của tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ với tựa đề "Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa",
cung cấp rất nhiều tư liệu, chứng cứ quý giá khẳng định Nhà nước Việt
Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ
quyền tại quần đảo Hoàng Sa, ít nhất là từ thế kỷ XVII.
Các
tư liệu lịch sử chứng minh quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt
Nam được trưng bày tại UBND huyện đảo Hoàng Sa - Ảnh: HC
|
Tuỳ tiện vẽ ra cái gọi là "đường lưỡi bò"
"Việc
chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thực sự, liên tục, hoà bình, phù
hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Việt Nam có đầy
đủ các bằng chứng pháp lý và cứ liệu lịch sử có giá trị để chứng minh sự
thật hiển nhiên này qua các giai đoạn lịch sử có liên quan" - TS
Trần Công Trục viết. Đồng thời chỉ rõ 2 giai đoạn mà Trung Quốc đã sử
dụng nhiều thủ đoạn xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ở giai đoạn 1946 - 1956, TS Trần Công Trục nêu rõ: "Lợi
dụng Việt Nam đang lo đối phó với sự trở lại của thực dân Pháp và lo
kháng chiến chống Pháp, quân Tưởng Giới Thạch và sau đó là quân của CHND
Trung Hoa đã tiến hành chiếm đóng các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa".
Vào lúc quân
đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang bận đối
phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra thì ngày 26/10/1946, hạm
đội đặc biệt của Trung Hoa Dân quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một
số đại diện của các Bộ và 59 binh sĩ cảnh vệ của Hải quân lấy cớ giải
giáp quân Nhật ra chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày
29/11/1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ
lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa.
Cũng
trong thời gian này, một công chức tên Bai Meichu của chính quyền Đài
Loan đã vẽ và xuất bản bản đồ "Nam Hải chư đảo", trong đó có thể hiện
đường biên giới biển bao trùm khoảng 80% diện tích Biển Đông, thường
được gọi là đường biên giới "lưỡi bò" mà không dựa vào bất cứ một tiêu
chuẩn nào theo luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Chính
tác giả và nhiều học giả Trung Quốc đã không thể đưa ra được bất kỳ lý
do nào để biện minh cho đường biên giới biển đã được thể hiện một cách
tuỳ tiện này. Tuy vậy, Trung Quốc đã dựa vào bản đồ này để liên tục tung
ra các loại bản đồ Trung Quốc có vẽ đường biên giới biển 9 đoạn và đã
chính thức hoá đường biên giới biển đầy tham vọng này tại một Công hàm
mà họ đã gửi lên Liên hiệp quốc (LHQ) vào tháng 5/2009 để phản đối Hồ sơ
ranh giới ngoài Thềm lục địa do Việt Nam và Malaysia nộp lên Uỷ ban
ranh giới Thềm lục địa của LHQ.
Bia
chủ quyền trên đảo Hoàng Sa do người Pháp dựng năm1938. Hàng chữ trên
bia ghi: Cộng hoà Pháp - Vương quốc An Nam đảo Hoàng Sa năm 1816 - 1938
(1816 là năm vua Gia Long thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với các
đảo Hoàng Sa, 1938 là năm dựng bia) - Ảnh HC (chụp lại ảnh tư liệu của
UBND huyện Hoàng Sa)
|
Từ chối giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế
Ngày
13/1/1947, Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp
pháp của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, trong đó Pháp đã nêu lên
những bảo lưu về hậu quả pháp lý từ việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa
của quân đội Trung Hoa Dân quốc, đồng thời nhắc lại đề nghị tìm giải
pháp giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và ngày 17/10/1947 thông báo
hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Trung Quốc
rút khỏi Phú Lâm.
Pháp
gửi một phân đội lính, gồm 10 lính Pháp và 17 lính Việt Nam đổ bộ đóng
một đồn ở đảo Hoàng Sa và quyết định lập đài khí tượng trên đảo này.
Chính phủ Trung Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành
từ ngày 25/2 đến ngày 4/7/1947 tại Paris. Tại đây, Chính phủ Trung Quốc
đã từ chối không chấp nhận việc nhờ Trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp
đề nghị.
Ngày
8/3/1949, Pháp ký với Bảo Đại Hiệp định Hạ Long trao trả độc lập cho
Chính phủ Bảo Đại và tháng 4, Đổng lý Văn phòng, Hoàng thân Bửu Lộc
tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.
Ngày
1/10/1949, nước CHND Trung Hoa ra đời, đơn vị đồn trú của Trung Hoa Dân
quốc phải rút khỏi đảo Phú Lâm, trong khi đó Pháp vẫn duy trì quân đồn
trú tại đảo Hoàng Sa.
Ngày
14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho Chính phủ Bảo Đại
việc quản lý và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Tổng trấn Trung phần Phan Văn
Giáo đã chủ trì việc bàn giao này.
Du
khách trong và ngoài nước tìm hiểu chủ quyền của Việt Nam đối với quần
đảo Hoàng Sa qua các tư liệu lịch sử được UBND huyện Hoàng Sa trưng bày -
Ảnh: HC
|
Quốc tế bác bỏ cái gọi là "chủ quyền" của Trung Quốc đối với Hoàng Sa
Cần
nhắc lại, trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Bản đã rắp tâm
biến các quần đảo trong Biển Đông trở thành bàn đạp để mở rộng sự chiếm
đóng của mình xuống khu vực Đông Nam châu Á. Ngày 31/3/1939, Nhật tuyên
bố sáp nhập các quần đảo trong Biển Đông và các vùng lãnh thổ mà Nhật đã
chiếm đóng. Tuy nhiên ngày 4/4/1939, Chính phủ Pháp đã gửi Công hàm
phản đối các quyết định nói trên của Nhật và bảo lưu các quyền của Pháp
tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau
khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Hội nghị San Francisco có 51
quốc gia tham dự từ ngày 5/9 đến 8/9/1951, ký kết Hoà ước với Nhật. Ngày
5/9/1951, tại phiên họp toàn thể mở rộng, Ngoại trưởng Grommyko (Liên
Xô cũ) đã đưa đề nghị tu chính 13 khoản của Dự thảo Hoà ước. Trong đó có
nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với đảo Hoàng
Sa và những đảo xa hơn nữa ở phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội
nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận.
Ngày
7/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo
Đại long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ
của Việt Nam: "Et comme il fuat franchement profiter de toutes
occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos
droits sur les iles de Spratley et de Paracels qui de tout temps ont
fait partie du Viet Nam". Không một đại biểu nào trong Hội nghị có ý
kiến gì về Tuyên bố này. Kết thúc Hội nghị là ký kết Hoà ước với Nhật
ngày 8/9/1951, trong đó có điều 2, đoạn 7 ghi rõ: "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly" (khoản f).
Khi
ra thông báo về bản dự thảo Hoà ước với Nhật ở San Francisco ngày
15/8/1951, Bộ trưởng Ngoại giao nước CHND Trung Hoa Chu Ân Lai tuyên bố
công khai khẳng định cái gọi là "tính lâu đời của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo",
trong khi CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc không tham dự hội nghị
này. Ngày 24/8/1951, lần đầu tiên Tân Hoa Xã lên tiếng tranh cãi về
quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines và kiên quyết khẳng
định quyền của Trung Quốc.
"Như
thế, lợi dụng tình hình rối ren, Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Tưởng
Giới Thạch lợi dụng việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra theo
Hiệp định Postdam, đã đem quân chiếm giữ đảo Phú Lâm (He de Boisée)
thuộc quần đảo Hoàng Sa cuối năm 1946 và đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc
quần đảo Trường Sa vào đầu năm 1947.
Đến
năm 1950, khi lực lượng quân đội của Trung Hoa Dân quốc phải rút khỏi
Hoàng Sa, Trường Sa và Hoà ước San Francisco buộc Nhật từ bỏ sự chiếm
đóng hai quần đảo này, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của
Chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam" - TS Trần Công Trục viết.
Đại Thanh đế quốc vị trí khu hoạch đồ (năm
1909) là một trong số rất nhiều bản đồ cổ của Trung Quốc đã vẽ phần cực
Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường Sa - Ảnh: HC
(chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa")
|
Lén lút chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa
Hiệp
định Genève ký kết ngày 20/7/1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương,
công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước
Việt Nam. Điều 1 quy định đường ranh giới tạm thời về quân sự được ấn
định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh giới tạm thời này cũng
được kéo dài ra trong hải phận bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài
khơi theo điều 4 của Hiệp định.
Cũng
theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử
đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thoả
hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chính trong khu tập kết
đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt
dưới sự quản lý hành chính của Chính quyền Việt Nam Cộng hoà.
Tháng
4/1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia
Việt Nam, sau gọi là Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đã đóng ở các đảo phía
Tây quần đảo Hoàng Sa, bao gồm đảo Hoàng Sa, với số quân 40 người.
Tuy
nhiên cũng trong thời gian này, Trung Quốc lén lút đưa quân ra chiếm
đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Phú Lâm và Linh
Côn. Ngày 1/6/1956, Ngoại trưởng VNCH Vũ Văn Mẫu đã ra tuyên bố tái
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" do
UBND huyện Hoàng Sa (Đà Nẵng) và NXB Thông tin - Truyền thông xuất bản
tháng 1/2012 tiếp tục chỉ rõ các thủ đoạn của Trung Quốc xâm chiếm nhóm
đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam sau khi đã chiếm nhóm đảo
phía Đông vào năm 1956.
Trong
bài "Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa" đăng trong "Kỷ yếu Hoàng Sa", "TS Trần Công Trục (nguyên
Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ) nêu rõ: "Quân Pháp rút khỏi Việt Nam
sau khi thua trận Điện Biên Phủ và trong thời kỳ Việt Nam chia đôi theo
quy định của Hiệp định Genève khiến Trung Quốc, Đài Loan... tranh chấp
chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý, bảo vệ của
Chính quyền Việt Nam Cộng hoà (VNCH, giai đoạn 1956 - 1975)".
Tàu
cá có trang bị vũ trang của Trung Quốc khiêu khích chiến hạm của Hải
quân VNCH tại đảo Cam Tuyền thuộc quần đảo Hoàng Sa ngày 15/1/1974 -
Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
|
Âm mưu cho lính đóng giả ngư dân để chiếm đảo bị đập tan
Theo
đó, việc thua trận ở Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Genève 20/7/1954
buộc quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam tháng 4/1956 và để khoảng
trống bố phòng ở Biển Đông khiến các nước trong khu vực, trong đó có
CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) cho là cơ hội tốt để đưa
lực lượng quân sự ra chiếm đóng trái phép một số đảo ở Hoàng Sa cũng như
Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, VNCH đã tích cực tổ chức các hoạt
động nhằm quản lý và bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam:
Ngày
22/8/1956, song song với việc đưa lực lượng hải quân ra quần đảo Trường
Sa để chiếm giữ, bảo vệ quần đảo này trước những hoạt động xâm lấn của
các lực lượng nói trên, VNCH đã tổ chức một số hoạt động tại quần đảo
Hoàng Sa như: Tổ chức đoàn nghiên cứu thuỷ văn do Saurin dẫn đầu; cho
phép kỹ nghệ gia Lê Văn Cang tiến hành khai thác phốt phát ở Hoàng Sa.
Từ năm 1957, Bộ Tư lệnh Hải quân VNCH đã cử một đại đội thuỷ quân lục
chiến ra quản lý, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa thay thế cho quân của đại đội
42 thuộc tiểu đoàn 142.
Và
cũng với thủ đoạn lén lút như 3 năm trước đó, "ngày 21/2/1959, CHND
Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu
Nhật, Duy Mộng, Quang Hoà nhằm đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng
Sa. Tuy nhiên lực lượng quân đội VNCH đã phá tan được âm mưu này. 82
"ngư dân" và 5 thuyền đánh cá vũ trang của Trung Quốc đã bị bắt giữ và
bị áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó trả cho Trung Quốc" - TS Trần
Công Trục viết.
Tuy
nhiên Trung Quốc vẫn không từ bỏ âm mưu chiếm nốt phần còn lại của quần
đảo Hoàng Sa. Nhân chứng Trần Hoà (sinh năm 1954, hiện ở tổ 5, khối phố
Long Xuyên 1, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) từng được
Bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Nam (quân lực VNCH) cử ra ra Hoàng Sa chăm sóc
sức khoẻ, khám và điều trị bệnh cho sĩ quan, binh lính trung đội Hoàng
Sa và các nhân viên khí tượng trên đảo vào tháng 10/1973 kể lại trong
cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa":
"Từ
khoảng tháng 10/1973, tàu cá Trung Quốc vào đánh bắt gần quần đảo Hoàng
Sa ngày càng nhiều. Khi gặp tàu tuần tra của chính quyền Sài Gòn thì
những tàu này bỏ chạy ra hải phận quốc tế, khi tàu tuần tra đi rồi họ
lại buông neo thả lưới quanh đảo. "Anh em trên đảo chỉ lo nhiệm vụ giữ
đảo, còn đẩy đuổi ngư dân nước ngoài xâm phạm lãnh hải thì không có
phương tiện nên đành chịu".
Báo chí Sài Gòn năm 1974 đưa tin Trung Quốc xâm chiếm trái phép Hoàng Sa - Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
|
Trận chiến xâm lược tháng 1/1974
Ông
Trần Hoà cùng những người trên đảo Hoàng Sa hoàn toàn không ngờ đó là
kế sách của phía Trung Quốc. Để rồi đến ngày 19/1/1974, hàng đoàn tàu
đánh cá được trang bị vũ trang đã hợp sức cùng tàu chiến của hải quân
Trung Quốc có hành động khiêu khích, tiến đến gần Hoàng Sa rồi bất ngờ
đổ quân đánh chiếm trái phép quần đảo của Việt Nam.
TS
Trần Công Trục thuật lại trong bài "Quá trình xác lập và thực thi chủ
quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa": Ngày 15/1/1974, sau khi tuyên
bố lên án cái gọi là "chính quyền VNCH "xâm lấn đất đai của Trung
Quốc", "tất cả các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông Sa và Trung Sa là lãnh
thổ của Trung Quốc"..., CHND Trung Hoa đã đưa quân đổ bộ và cắm cờ Trung
Quốc lên các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà và Duy Mộng thuộc nhóm
đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Ngày
16/1/1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt của Hải quân VNCH đưa phái
đoàn quân lực ra Hoàng Sa và phát hiện 2 chiến hạm số 402 và 407 của Hải
quân Trung Quốc đang ở gần đảo Hữu Nhật, xác nhận quân Trung Quốc đã
chiếm đóng, cắm cờ trên các đảo Quang Hoà, Duy Mộng, Quang Ảnh... Lập
tức, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc họp báo tố cáo Bắc Kinh đã huy động tàu
chiến vi phạm vùng biển quần đảo Hoàng Sa và đưa binh lính đổ bộ xâm
chiếm các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà, Duy Mộng thuộc nhóm đảo
phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
"Từ
ngày 17/1 đến ngày 20/1/1974, trận hải chiến giữa lực lượng Hải quân
VNCH và lực lượng Hải, Lục, Không quân, Quân giải phóng Nhân dân Trung
Hoa xảy ra trong tình thế khó khăn cho quân lực VNCH. Mặc dù đã chiến
đấu quả cảm, nhiều binh sĩ đã anh dũng hy sinh, Quân lực VNCH đã không
thể giữ được các đảo thuộc nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa" - TS Trần
Công Trục viết.
Điều
này cũng được nhiều nhân chứng từng sống, chiến đấu ở Hoàng Sa trong
giai đoạn đó chứng thực rõ thêm. Nhân chứng Lê Lan (sinh năm 1952, hiện ở
tổ 13, phường Sơn Phong, khối phố 3, Hội An, Quảng Nam) là y tá quân y
thuộc Tiểu khu Quảng Nam, năm 1973 cũng được cử ra Hoàng Sa 3 tháng để
phụ trách khám sức khoẻ, cung cấp thuốc cho binh sĩ đồn trú trên đảo.
Khi chỉ còn khoảng 1 tuần nữa ông trở về đất liền thì quần đảo bất ngờ
bị phía Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm trái phép.
"Lúc
ấy có cả đoàn giám sát thiết lập phi trường trên đảo bị kẹt lại, trong
đó có 1 người Mỹ. Mặc dù chúng tôi đã phân chia nhiệm vụ chiến đấu giữ
lấy đảo vì đảo thuộc chủ quyền của chúng ta nhưng bọn chúng đông quá
cùng tàu chiến nhiều nên cuối cùng chúng cũng chiếm được Hoàng Sa.
Tôi
cùng 32 người khác bị đưa về tạm giam ở đảo Hải Nam 3 tháng, khi đó có
thêm 21 người bị hải quân Trung Quốc bắt ở đảo khác. Sau đó chúng đưa
tôi về trại thu dung tù binh ở Quảng Châu (Trung Quốc) khoảng 1 tháng
rồi giao cho Tổ chức Hồng Thập tự Quốc tế của Anh trao trả cho chính
quyền Sài Gòn" - ông Lê Lan kể lại trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa".
Ông
Trần Văn Hảo (sinh năm 1938, hiện ở tổ 14 phường Thạc Gián, quận Thanh
Khê, Đà Nẵng), từng là trung sĩ của trung đội Hoàng Sa cũng là một nhân
chứng trong trận hải chiến đó. Ông kể, khi xảy ra vụ tấn công trái phép
ngày 19/1/1974, trung đội của ông đã đối đầu quyết liệt với lực lượng
hải quân và tàu đánh cá có vũ trang của Trung Quốc. Nhưng phía Trung
Quốc cậy tàu to súng lớn trong khi lực lượng trên đảo quá mỏng nên ông
Hảo cùng một số anh em trong đội quân bảo vệ Hoàng Sa đã bị bắt.
Cùng
cảnh ngộ ấy là ông Nguyễn Văn Cúc (sinh năm 1952, hiện ở tổ 11, phường
Phước Mỹ, quận Sơn Trà, Đà Nẵng). Năm 1973, ông liên tiếp ba lần được cử
ra khảo sát, sửa chữa và xây dựng ở Hoàng Sa. Lần thứ 3 ông ra đảo vào
tháng 12/1973 để lấy mẫu đất, khảo sát xây dựng sân bay. Khi ông đang
trên đường trở về đất liền thì bị tàu chiến Trung Quốc bắt giữ trong
cuộc xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam...
Ông
kể, đang lênh đênh trên biển thì tàu của ông gặp tàu chiến Trung Quốc.
Sau một ngày giằng co, họ áp sát buộc tàu của ông quay lại đảo. Mọi
người trên tàu bàng hoàng khi trực tiếp chứng kiến Hoàng Sa bị chiếm,
đau đớn, xót xa khi thấy mảnh đất của Việt Nam rơi vào tay kẻ khác. Sau
một ngày bị bắt giữ trên đảo, hải quân Trung Quốc chở ông về đảo Hải
Nam; rồi đưa lên tàu lớn về giam ở Quảng Châu cả tháng trời trước khi
trao trả cho Hồng Thập tự Anh tại Hồng Kông.
Trích
Tuyên bố 3 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoa miền Nam Việt
Nam ngày 26/4/1974 tại Hội nghị Hiệp thương La Cellesaint Clou - Ảnh:
HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
|
Việt Nam yêu cầu Hội đồng Bảo an LHQ can thiệp
Ngay
khi xảy ra các trận hải chiến tháng 1/1974, Quan sát viên của VNCH tại
Liên hiệp quốc (LHQ) đã chính thức yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ
xem xét hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa. Ngày 19/1/1974, Bộ Ngoại giao VNCH ra Tuyên bố kêu gọi các dân
tộc yêu chuộng công lý và hoà bình lên án hành động xâm lược thô bạo
của Trung Quốc, buộc Trung Quốc chấm dứt ngay hành động nguy hiểm đó.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra Tuyên bố nêu rõ lập trường của mình:
- Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.
- Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại.
-
Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, hữu nghị là láng giềng tốt và phải giải quyết bằng
thương lượng.
Ngày
21/1/1974, Chính quyền VNCH đã gửi Công hàm cho các thành viên ký kết
Định ước Paris đề nghị các thành viên lên án và đòi nhà cầm quyền Trung
Quốc không được xâm phạm lãnh thổ Việt Nam theo đúng nội dung Điều 1 và
Điều 4 của Định ước này.
Ngày
30/3/1974, tại kỳ họp lần thứ 30 của Hội đồng Kinh tế Liên hiệp quốc về
Châu Á và Viễn Đông (ECAPE) tại Colombo, phái đoàn VNCH đã tuyên bố
khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của Việt
Nam.
Ngày 2/7/1974, tại
kỳ họp thứ 2 Hội nghị lần thứ 3 của Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS
III) diễn ra tại Caracas (20/6 - 29/8/1974), đại biểu của VNCH đã lên
tiếng tố cáo Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và khẳng
định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam, chủ
quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này là không tranh chấp và không
thể thương lượng.
Sinh
viên Việt kiều ở Pháp biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa -
Việt Nam (1974) - Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
|
Trung Quốc nuốt lời cam kết
Theo
tường thuật của TS Trần Công Trục, sau khi miền Nam hoàn toàn giải
phóng, ngày 24/9/1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Tổng Bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo
Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc vấn đề
chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) và
quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa).
Tuy
nhiên như cả thế giới đều biết, từ đó đến nay Trung Quốc vẫn ngang
nhiên nuốt lời cam kết của chính lãnh đạo của họ. Không những thế, Trung
Quốc còn tiếp tục leo thang các hàng động vi phạm ngày càng trắng trợn
chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa cũng như quần đảo Trường Sa
và trên khu vực biển Đông.
Ngày
2/7/1976, Nhà nước CHXHCN Việt Nam được thành lập và hoàn toàn có nghĩa
vụ, quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 12/5/1977, Chính phủ Nước CHXHCN
Việt Nam ra Tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, trong đó
đã khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam có các
vùng biển và thềm lục địa riêng.
Tại
phiên họp thứ 7 cuộc đàm phán về biên giới Việt - Trung (bắt đầu ngày
9/10/1977), Trưởng đoàn Việt Nam, ông Phan Hiền đã bác bỏ vu cáo của
Trung Quốc đối với việc Hải quân Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Phan Hiền đề nghị với ông
Hàn Niệm Long, Trưởng đoàn Trung Quốc, về việc đưa vấn đề hai quần đảo
vào chương trình nghị sự nhưng phía Trung Quốc từ chối.
Ông
Phạm Khôi (bên trái, nhân chứng từng sống và tham gia nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền biển - đảo Hoàng Sa giai đoạn 1969 - 1970) trao tặng Chủ tịch
UBND huyện đảo Hoàng Sa Đặng Công Ngữ bức sơ phác về quần đảo Hoàng Sa
do ông vẽ theo trí nhớ - Ảnh: HC
|
Việt Nam bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc
Ngày
15/3/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị Vong Lục về vấn đề biên
giới Việt - Trung. Điểm 9 của Bị Vong Lục đã tố cáo Trung Quốc đánh
chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào tháng 1/1974.
Ngày
7/8/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố về hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một
số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo này, khẳng định lại
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo, nhắc lại lập trường của
Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp giữa hai nước bằng thương
lượng hoà bình.
Ngày
28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng: "Chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", trong đó đã giới
thiệu 19 tài liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo này.
Ngày
25/11/2011, trước các đại biểu Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam tại kỳ họp
thứ 2, Quốc hội khoá 13, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ra lời
tuyên bố mang tính lịch sử về chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối
với quần đảo Hoàng Sa hiện đang nằm dưới sự chiếm đóng bất hợp pháp của
lực lượng vũ trang Trung Quốc:
"Việt
Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Chúng ta làm chủ thật
sự, ít nhất là từ thế kỷ XVII, khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ
quốc gia nào. Chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục, hoà bình".
"Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền
của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định
điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ
quyền bằng biện pháp hoà bình. Chủ trương này phù hợp với Hiến chương
Liên hiệp quốc, phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982".
....
....
Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc
Theo sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979),
Đông Nam Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là
khu vực mà từ lâu một số lãnh đạo cực đoan của nước CHND Trung Hoa ước
mơ thôn tính. Ý đồ bành trướng của Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói
của Chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao
động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963: "Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á"!
Cũng
trong dịp này, Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên
của Trung Quốc về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ
Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan
để ở. Đối với nước Lào đất rộng, người thưa, Mao Trạch Đông cũng cho
rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở...
Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị BCH TƯ ĐCS Trung Quốc, tháng 8/1965: "Chúng
ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái
Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore... Một vùng như Đông Nam Á rất
giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để
chiếm lấy... Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cường
được sức mạnh cua chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh
đương đầu với khối Liên Xô - Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây".
So
với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á là khu vực mà Trung Quốc
có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng
nhất để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình.
Cho nên hàng chục năm qua, những người lãnh đạo CHND Trung Hoa đã dùng
nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo
điều kiện cho chiến lược toàn cầu của họ.
"Họ
xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế,
đe dọa bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo
hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó
phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ và gây ra xung đột biên
giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm
suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu
vực. Họ không từ bất kỳ một hành động tàn bạo nào, như họ đã dựng lên
tập đoàn Pol pot - Ieng Sary thực hiện chính sách diệt chủng ở
Campuchia... để phục vụ cho chính sách bành trướng và bá quyền của họ." (Sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua - 1979).
Cũng
theo sách này, Việt Nam có một vị trí chiến lược ở Đông Nam Á. Trong
lịch sử, phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính Việt
Nam, dùng Việt Nam làm bàn đạp để xâm lược các nước khác ở Đông Nam Á.
Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những người lãnh đạo Trung
Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi
xuống Đông Nam Á.
Trong
cuộc gặp gỡ giữa đại biểu 4 ĐCS Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia và Lào
tại Quảng Đông tháng 9/1963, Thủ tướng Chu Ân Lai nói: "Nước chúng
tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt
Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Á"!
Sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979) nêu rõ: "Để
làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước
Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và
Campuchia với Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam
Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các
nước trên thế giới".
Chủ
tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) cung cấp cho du khách nước ngoài
thông tin về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa - Ảnh: HC
|
Từ vịnh Bắc bộ đến quần đảo Hoàng Sa
Đề cập đến vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, sách này cũng nhấn mạnh: "Những
người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là "chủ quyền" của họ đối với
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của
Mỹ, họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, để
từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á,
đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông".
Đặc
biệt, sách này cho biết thêm, từ năm 1973, những người cầm quyền Trung
Quốc tăng cường hành động khiêu khích và lấn chiếm đất đai ở các tỉnh
biên giới phía Bắc Việt Nam nhằm làm yếu những cố gắng của nhân dân Việt
Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đồng thời họ
ngăn cản Việt Nam thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình để
nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế.
Ngày
26/12/1973, Việt Nam đề nghị mở cuộc đàm phán để xác định chính thức
đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc bộ nhằm sử
dụng phần biển thuộc Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Ngày
18/1/1974, phía Trung Quốc trả lời chấp thuận đề nghị nhưng họ đòi không
được tiến hành việc thăm dò trong một khu vực rộng 20.000km2 trong vịnh Bắc bộ do họ tự ý định ra. Họ còn đòi "không để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc bộ" vì việc đó "không có lợi cho sự phát triển kinh tế chung của hai nước và an ninh quân sự của hai nước".
"Đó
chỉ là một lý do để che đậy ý đồ đen tối của họ. Cũng vì vậy mà cuộc
đàm phán về đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc
bộ từ tháng 8 đến tháng 11/1974 đã không đi đến kết quả tích cực nào.
Cũng với thái độ trịch thượng nước lớn như vậy, họ làm bế tắc cuộc đàm
phán về vấn đề biên giới trên bộ và trong vịnh Bắc bộ bắt đầu từ tháng
10/1977, nhằm mục đích tiếp tục xâm phạm biên giới, lấn chiếm lãnh thổ
Việt Nam" (sách đã dẫn).
Đặc
biệt, tài liệu này của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho hay, chỉ một ngày sau
khi nhận đàm phán với phía Việt Nam về vấn đề vịnh Bắc bộ, vào ngày
19/1/1974 phía Trung Quốc đã sử dụng lực lượng hải quân và không quân
tiến đánh quân lực Việt Nam Cộng hoà (VNCH) và chiếm quần đảo Hoàng Sa
từ lâu vốn là bộ phận lãnh thổ Việt Nam.
"Họ
nói là để "tự vệ" nhưng thực chất đó là một hành động xâm lược, một sự
xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam để khống chế Việt Nam từ mặt biển và từng
bước thực hiện mưu đồ độc chiếm biển Đông. Hành động xâm lược của họ có
tính toán từ trước và được sự đồng tình của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ
G. Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu ở Sài Gòn, và hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh
xa quần đảo Hoàng Sa" (sách đã dẫn).
Các em học sinh Đà Nẵng tìm hiểu về quần đảo Hoàng Sa thân yêu - Ảnh: HC
|
Vì sao chính quyền Nixon im lặng trước biến cố Hoàng Sa?
Về chi tiết vừa nêu trên, TS Trần Công Trục trong bài "Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa" đăng trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" (NXB Thông tin và Truyền thông, tháng 1/2012) cũng cho biết thêm:
"Ngày
20/1/1974, lúc 16g, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc đã thông báo tình
hình quần đảo Hoàng sa cho Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, và yêu cầu
Hoa Kỳ cho biết sẽ dành cho VNCH sự ủng hộ nào về vật chất, chính trị
với tư cách là nước thân hữu và đồng minh, cũng như với tư cách là quốc
gia đã ký kết và bảo đảm cho Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, nhưng không
nhận được trả lời của Hoa Kỳ.
Ngày
21/1/1974, Chính quyền VNCH đã gửi Công hàm cho các thành viên ký kết
Định ước Paris đề nghị các thành viên lên án và đòi nhà cầm quyền Trung
Quốc không được xâm phạm lãnh thổ Việt Nam theo đúng nội dung Điều 1 và
Điều 4 của Định ước này.
Ngày
22/1/1974, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã gửi thư cho Tổng thống
Hoa Kỳ Richard Nixon về biến cố Hoàng Sa và ngày 28/1/1974 thông báo tới
tất cả các quốc gia có quan hệ ngoại giao với VNCH về hành động hiếu
chiến của Trung Quốc trong cuộc hành quân xâm lược quần đảo Hoàng Sa
thuộc chủ quyền Việt Nam".
Vì sao là một nước "thân hữu và đồng minh" với VNCH nhưng Mỹ lại im lặng trước biến cố Hoàng Sa? Sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979) nêu rõ: "Về
việc Tổng thống Nixon đi thăm Trung Quốc năm 1972, Chủ tịch Mao Trạch
Đông đã nói với những người lãnh đạo Việt Nam tháng 6/1973 như sau:
"Thành thực mà nói, nhân dân Trung Quốc, ĐCS Trung Quốc và nhân dân thế
giới phải cảm ơn nhân dân Việt Nam đã đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến
thắng mới buộc Nixon phải đi Bắc Kinh".
Kỳ
thực, theo tài liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam, trong chuyến thăm vừa
nêu, Trung Quốc đã thoả thuận với chính quyền Nixon một cuộc mua bán bẩn
thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam, thể hiện trong Thông cáo Thượng Hải.
Theo đó, Trung Quốc mưu toan dùng "con bài Việt Nam" để ngoi
lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ Trung - Mỹ và
giải quyết vấn đề Đài Loan. Còn chính quyền Nixon có thể cứu vãn và khôi
phục địa vị trên thế giới đã bị suy yếu nghiêm trọng do hậu quả của
cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá
chiến tranh" nhằm rút được quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ
được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Do
vậy, chính quyền Nixon đã không có bất cứ động thái nào đáp ứng lời cầu
cứu của chính quyền VHCN khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược.
Và đây cũng chính là bài học lịch sử về việc chúng ta phải không ngừng
nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tận dụng sự ủng hộ của quốc tế nhưng
phải trên cơ sở phát huy tự lực, tự cường chứ không thể chỉ trông chờ,
dựa dẫm vào những lực lượng từ bên ngoài để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ
chủ quyền quốc gia của chúng ta!
HẢI CHÂU (lược ghi)
http://infonet.vn/bien-dao-vn/trung-quoc-dung-thu-doan-gi-de-xam-chiem-hoang-sa-cua-viet-nam-phan-2/a25624.html