Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam?

Lén lút, "thừa nước đục thả câu", "ỷ mạnh hiếp yếu", coi thường luật pháp quốc tế, bội tín... là những thủ đoạn của Trung Quốc khi xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, được nêu rõ trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" do UBND huyện đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) và NXB Thông tin - Truyền thông xuất bản tháng 1/2012.

"THỪA NƯỚC ĐỤC THẢ CÂU" GIAI ĐOẠN 1946 - 1956
Trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" có đăng tải bài viết quan trọng của tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ với tựa đề "Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa", cung cấp rất nhiều tư liệu, chứng cứ quý giá khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa, ít nhất là từ thế kỷ XVII.
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 1)
Các tư liệu lịch sử chứng minh quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam được trưng bày tại UBND huyện đảo Hoàng Sa - Ảnh: HC
Tuỳ tiện vẽ ra cái gọi là "đường lưỡi bò"
"Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thực sự, liên tục, hoà bình, phù hợp với nguyên tắc của luật pháp và thực tiễn quốc tế. Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng pháp lý và cứ liệu lịch sử có giá trị để chứng minh sự thật hiển nhiên này qua các giai đoạn lịch sử có liên quan" - TS Trần Công Trục viết. Đồng thời chỉ rõ 2 giai đoạn mà Trung Quốc đã sử dụng nhiều thủ đoạn xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Ở giai đoạn 1946 - 1956, TS Trần Công Trục nêu rõ: "Lợi dụng Việt Nam đang lo đối phó với sự trở lại của thực dân Pháp và lo kháng chiến chống Pháp, quân Tưởng Giới Thạch và sau đó là quân của CHND Trung Hoa đã tiến hành chiếm đóng các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".
Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra thì ngày 26/10/1946, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các Bộ và 59 binh sĩ cảnh vệ của Hải quân lấy cớ giải giáp quân Nhật ra chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 29/11/1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa.
Cũng trong thời gian này, một công chức tên Bai Meichu của chính quyền Đài Loan đã vẽ và xuất bản bản đồ "Nam Hải chư đảo", trong đó có thể hiện đường biên giới biển bao trùm khoảng 80% diện tích Biển Đông, thường được gọi là đường biên giới "lưỡi bò" mà không dựa vào bất cứ một tiêu chuẩn nào theo luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Chính tác giả và nhiều học giả Trung Quốc đã không thể đưa ra được bất kỳ lý do nào để biện minh cho đường biên giới biển đã được thể hiện một cách tuỳ tiện này. Tuy vậy, Trung Quốc đã dựa vào bản đồ này để liên tục tung ra các loại bản đồ Trung Quốc có vẽ đường biên giới biển 9 đoạn và đã chính thức hoá đường biên giới biển đầy tham vọng này tại một Công hàm mà họ đã gửi lên Liên hiệp quốc (LHQ) vào tháng 5/2009 để phản đối Hồ sơ ranh giới ngoài Thềm lục địa do Việt Nam và Malaysia nộp lên Uỷ ban ranh giới Thềm lục địa của LHQ.
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 1)
Bia chủ quyền trên đảo Hoàng Sa do người Pháp dựng năm1938. Hàng chữ trên bia ghi: Cộng hoà Pháp - Vương quốc An Nam đảo Hoàng Sa năm 1816 - 1938 (1816 là năm vua Gia Long thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với các đảo Hoàng Sa, 1938 là năm dựng bia) - Ảnh HC (chụp lại ảnh tư liệu của UBND huyện Hoàng Sa)
Từ chối giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế
Ngày 13/1/1947, Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, trong đó Pháp đã nêu lên những bảo lưu về hậu quả pháp lý từ việc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của quân đội Trung Hoa Dân quốc, đồng thời nhắc lại đề nghị tìm giải pháp giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và ngày 17/10/1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Trung Quốc rút khỏi Phú Lâm.
Pháp gửi một phân đội lính, gồm 10 lính Pháp và 17 lính Việt Nam đổ bộ đóng một đồn ở đảo Hoàng Sa và quyết định lập đài khí tượng trên đảo này. Chính phủ Trung Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25/2 đến ngày 4/7/1947 tại Paris. Tại đây, Chính phủ Trung Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ Trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp đề nghị.
Ngày 8/3/1949, Pháp ký với Bảo Đại Hiệp định Hạ Long trao trả độc lập cho Chính phủ Bảo Đại và tháng 4, Đổng lý Văn phòng, Hoàng thân Bửu Lộc tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.
Ngày 1/10/1949, nước CHND Trung Hoa ra đời, đơn vị đồn trú của Trung Hoa Dân quốc phải rút khỏi đảo Phú Lâm, trong khi đó Pháp vẫn duy trì quân đồn trú tại đảo Hoàng Sa.
Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức trao lại cho Chính phủ Bảo Đại việc quản lý và bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao này.
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 1)
Du khách trong và ngoài nước tìm hiểu chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa qua các tư liệu lịch sử được UBND huyện Hoàng Sa trưng bày - Ảnh: HC
Quốc tế bác bỏ cái gọi là "chủ quyền" của Trung Quốc đối với Hoàng Sa
Cần nhắc lại, trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Nhật Bản đã rắp tâm biến các quần đảo trong Biển Đông trở thành bàn đạp để mở rộng sự chiếm đóng của mình xuống khu vực Đông Nam châu Á. Ngày 31/3/1939, Nhật tuyên bố sáp nhập các quần đảo trong Biển Đông và các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng. Tuy nhiên ngày 4/4/1939, Chính phủ Pháp đã gửi Công hàm phản đối các quyết định nói trên của Nhật và bảo lưu các quyền của Pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5/9 đến 8/9/1951, ký kết Hoà ước với Nhật. Ngày 5/9/1951, tại phiên họp toàn thể mở rộng, Ngoại trưởng Grommyko (Liên Xô cũ) đã đưa đề nghị tu chính 13 khoản của Dự thảo Hoà ước. Trong đó có nội dung: Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa ở phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận.
Ngày 7/9/1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam: "Et comme il fuat franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les iles de Spratley et de Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet Nam". Không một đại biểu nào trong Hội nghị có ý kiến gì về Tuyên bố này. Kết thúc Hội nghị là ký kết Hoà ước với Nhật ngày 8/9/1951, trong đó có điều 2, đoạn 7 ghi rõ: "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly" (khoản f).
Khi ra thông báo về bản dự thảo Hoà ước với Nhật ở San Francisco ngày 15/8/1951, Bộ trưởng Ngoại giao nước CHND Trung Hoa Chu Ân Lai tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là "tính lâu đời của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo", trong khi CHND Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc không tham dự hội nghị này. Ngày 24/8/1951, lần đầu tiên Tân Hoa Xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines và kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
"Như thế, lợi dụng tình hình rối ren, Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Tưởng Giới Thạch lợi dụng việc giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra theo Hiệp định Postdam, đã đem quân chiếm giữ đảo Phú Lâm (He de Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa cuối năm 1946 và đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa vào đầu năm 1947.
Đến năm 1950, khi lực lượng quân đội của Trung Hoa Dân quốc phải rút khỏi Hoàng Sa, Trường Sa và Hoà ước San Francisco buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu của Chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam" - TS Trần Công Trục viết.
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 1)
Đại Thanh đế quốc vị trí khu hoạch đồ (năm 1909) là một trong số rất nhiều bản đồ cổ của Trung Quốc đã vẽ phần cực Nam Trung Quốc là đảo Hải Nam, không có Hoàng Sa và Trường Sa - Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa")
Lén lút chiếm nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa
Hiệp định Genève ký kết ngày 20/7/1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 quy định đường ranh giới tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh giới tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hải phận bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định.
Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chính trong khu tập kết đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chính của Chính quyền Việt Nam Cộng hoà.
Tháng 4/1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt Nam, sau gọi là Việt Nam Cộng hoà (VNCH) đã đóng ở các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa, bao gồm đảo Hoàng Sa, với số quân 40 người.
Tuy nhiên cũng trong thời gian này, Trung Quốc lén lút đưa quân ra chiếm đóng nhóm phía Đông quần đảo Hoàng Sa, trong đó có đảo Phú Lâm và Linh Côn. Ngày 1/6/1956, Ngoại trưởng VNCH Vũ Văn Mẫu đã ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" do UBND huyện Hoàng Sa (Đà Nẵng) và NXB Thông tin - Truyền thông xuất bản tháng 1/2012 tiếp tục chỉ rõ các thủ đoạn của Trung Quốc xâm chiếm nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam sau khi đã chiếm nhóm đảo phía Đông vào năm 1956.

Trong bài "Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa" đăng trong "Kỷ yếu Hoàng Sa", "TS Trần Công Trục (nguyên Trưởng Ban Biên giới của Chính phủ) nêu rõ: "Quân Pháp rút khỏi Việt Nam sau khi thua trận Điện Biên Phủ và trong thời kỳ Việt Nam chia đôi theo quy định của Hiệp định Genève khiến Trung Quốc, Đài Loan... tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý, bảo vệ của Chính quyền Việt Nam Cộng hoà (VNCH, giai đoạn 1956 - 1975)".
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 2)
Tàu cá có trang bị vũ trang của Trung Quốc khiêu khích chiến hạm của Hải quân VNCH tại đảo Cam Tuyền thuộc quần đảo Hoàng Sa ngày 15/1/1974 - Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"

Âm mưu cho lính đóng giả ngư dân để chiếm đảo bị đập tan
Theo đó, việc thua trận ở Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Genève 20/7/1954 buộc quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam tháng 4/1956 và để khoảng trống bố phòng ở Biển Đông khiến các nước trong khu vực, trong đó có CHND Trung Hoa, Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) cho là cơ hội tốt để đưa lực lượng quân sự ra chiếm đóng trái phép một số đảo ở Hoàng Sa cũng như Trường Sa của Việt Nam. Tuy nhiên, VNCH đã tích cực tổ chức các hoạt động nhằm quản lý và bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam:
Ngày 22/8/1956, song song với việc đưa lực lượng hải quân ra quần đảo Trường Sa để chiếm giữ, bảo vệ quần đảo này trước những hoạt động xâm lấn của các lực lượng nói trên, VNCH đã tổ chức một số hoạt động tại quần đảo Hoàng Sa như: Tổ chức đoàn nghiên cứu thuỷ văn do Saurin dẫn đầu; cho phép kỹ nghệ gia Lê Văn Cang tiến hành khai thác phốt phát ở Hoàng Sa. Từ năm 1957, Bộ Tư lệnh Hải quân VNCH đã cử một đại đội thuỷ quân lục chiến ra quản lý, bảo vệ quần đảo Hoàng Sa thay thế cho quân của đại đội 42 thuộc tiểu đoàn 142.
Và cũng với thủ đoạn lén lút như 3 năm trước đó, "ngày 21/2/1959, CHND Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hoà nhằm đánh chiếm nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên lực lượng quân đội VNCH đã phá tan được âm mưu này. 82 "ngư dân" và 5 thuyền đánh cá vũ trang của Trung Quốc đã bị bắt giữ và bị áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau đó trả cho Trung Quốc" - TS Trần Công Trục viết.
Tuy nhiên Trung Quốc vẫn không từ bỏ âm mưu chiếm nốt phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa. Nhân chứng Trần Hoà (sinh năm 1954, hiện ở tổ 5, khối phố Long Xuyên 1, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) từng được Bộ chỉ huy Tiểu khu Quảng Nam (quân lực VNCH) cử ra ra Hoàng Sa chăm sóc sức khoẻ, khám và điều trị bệnh cho sĩ quan, binh lính trung đội Hoàng Sa và các nhân viên khí tượng trên đảo vào tháng 10/1973 kể lại trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa":
"Từ khoảng tháng 10/1973, tàu cá Trung Quốc vào đánh bắt gần quần đảo Hoàng Sa ngày càng nhiều. Khi gặp tàu tuần tra của chính quyền Sài Gòn thì những tàu này bỏ chạy ra hải phận quốc tế, khi tàu tuần tra đi rồi họ lại buông neo thả lưới quanh đảo. "Anh em trên đảo chỉ lo nhiệm vụ giữ đảo, còn đẩy đuổi ngư dân nước ngoài xâm phạm lãnh hải thì không có phương tiện nên đành chịu".
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 2)
Báo chí Sài Gòn năm 1974 đưa tin Trung Quốc xâm chiếm trái phép Hoàng Sa - Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
Trận chiến xâm lược tháng 1/1974
Ông Trần Hoà cùng những người trên đảo Hoàng Sa hoàn toàn không ngờ đó là kế sách của phía Trung Quốc. Để rồi đến ngày 19/1/1974, hàng đoàn tàu đánh cá được trang bị vũ trang đã hợp sức cùng tàu chiến của hải quân Trung Quốc có hành động khiêu khích, tiến đến gần Hoàng Sa rồi bất ngờ đổ quân đánh chiếm trái phép quần đảo của Việt Nam.
TS Trần Công Trục thuật lại trong bài "Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa": Ngày 15/1/1974, sau khi tuyên bố lên án cái gọi là "chính quyền VNCH "xâm lấn đất đai của Trung Quốc", "tất cả các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Đông Sa và Trung Sa là lãnh thổ của Trung Quốc"..., CHND Trung Hoa đã đưa quân đổ bộ và cắm cờ Trung Quốc lên các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà và Duy Mộng thuộc nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 16/1/1974, Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt của Hải quân VNCH đưa phái đoàn quân lực ra Hoàng Sa và phát hiện 2 chiến hạm số 402 và 407 của Hải quân Trung Quốc đang ở gần đảo Hữu Nhật, xác nhận quân Trung Quốc đã chiếm đóng, cắm cờ trên các đảo Quang Hoà, Duy Mộng, Quang Ảnh... Lập tức, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc họp báo tố cáo Bắc Kinh đã huy động tàu chiến vi phạm vùng biển quần đảo Hoàng Sa và đưa binh lính đổ bộ xâm chiếm các đảo Hữu Nhật, Quang Ảnh, Quang Hoà, Duy Mộng thuộc nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa.
"Từ ngày 17/1 đến ngày 20/1/1974, trận hải chiến giữa lực lượng Hải quân VNCH và lực lượng Hải, Lục, Không quân, Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa xảy ra trong tình thế khó khăn cho quân lực VNCH. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sĩ đã anh dũng hy sinh, Quân lực VNCH đã không thể giữ được các đảo thuộc nhóm phía Tây quần đảo Hoàng Sa" - TS Trần Công Trục viết.
Điều này cũng được nhiều nhân chứng từng sống, chiến đấu ở Hoàng Sa trong giai đoạn đó chứng thực rõ thêm. Nhân chứng Lê Lan (sinh năm 1952, hiện ở tổ 13, phường Sơn Phong, khối phố 3, Hội An, Quảng Nam) là y tá quân y thuộc Tiểu khu Quảng Nam, năm 1973 cũng được cử ra Hoàng Sa 3 tháng để phụ trách khám sức khoẻ, cung cấp thuốc cho binh sĩ đồn trú trên đảo. Khi chỉ còn khoảng 1 tuần nữa ông trở về đất liền thì quần đảo bất ngờ bị phía Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm trái phép.
"Lúc ấy có cả đoàn giám sát thiết lập phi trường trên đảo bị kẹt lại, trong đó có 1 người Mỹ. Mặc dù chúng tôi đã phân chia nhiệm vụ chiến đấu giữ lấy đảo vì đảo thuộc chủ quyền của chúng ta nhưng bọn chúng đông quá cùng tàu chiến nhiều nên cuối cùng chúng cũng chiếm được Hoàng Sa.
Tôi cùng 32 người khác bị đưa về tạm giam ở đảo Hải Nam 3 tháng, khi đó có thêm 21 người bị hải quân Trung Quốc bắt ở đảo khác. Sau đó chúng đưa tôi về trại thu dung tù binh ở Quảng Châu (Trung Quốc) khoảng 1 tháng rồi giao cho Tổ chức Hồng Thập tự Quốc tế của Anh trao trả cho chính quyền Sài Gòn" - ông Lê Lan kể lại trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa".
Ông Trần Văn Hảo (sinh năm 1938, hiện ở tổ 14 phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, Đà Nẵng), từng là trung sĩ của trung đội Hoàng Sa cũng là một nhân chứng trong trận hải chiến đó. Ông kể, khi xảy ra vụ tấn công trái phép ngày 19/1/1974, trung đội của ông đã đối đầu quyết liệt với lực lượng hải quân và tàu đánh cá có vũ trang của Trung Quốc. Nhưng phía Trung Quốc cậy tàu to súng lớn trong khi lực lượng trên đảo quá mỏng nên ông Hảo cùng một số anh em trong đội quân bảo vệ Hoàng Sa đã bị bắt.
Cùng cảnh ngộ ấy là ông Nguyễn Văn Cúc (sinh năm 1952, hiện ở tổ 11, phường Phước Mỹ, quận Sơn Trà, Đà Nẵng). Năm 1973, ông liên tiếp ba lần được cử ra khảo sát, sửa chữa và xây dựng ở Hoàng Sa. Lần thứ 3 ông ra đảo vào tháng 12/1973 để lấy mẫu đất, khảo sát xây dựng sân bay. Khi ông đang trên đường trở về đất liền thì bị tàu chiến Trung Quốc bắt giữ trong cuộc xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam...
Ông kể, đang lênh đênh trên biển thì tàu của ông gặp tàu chiến Trung Quốc. Sau một ngày giằng co, họ áp sát buộc tàu của ông quay lại đảo. Mọi người trên tàu bàng hoàng khi trực tiếp chứng kiến Hoàng Sa bị chiếm, đau đớn, xót xa khi thấy mảnh đất của Việt Nam rơi vào tay kẻ khác. Sau một ngày bị bắt giữ trên đảo, hải quân Trung Quốc chở ông về đảo Hải Nam; rồi đưa lên tàu lớn về giam ở Quảng Châu cả tháng trời trước khi trao trả cho Hồng Thập tự Anh tại Hồng Kông.
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 2)
Trích Tuyên bố 3 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoa miền Nam Việt Nam ngày 26/4/1974 tại Hội nghị Hiệp thương La Cellesaint Clou - Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
Việt Nam yêu cầu Hội đồng Bảo an LHQ can thiệp
Ngay khi xảy ra các trận hải chiến tháng 1/1974, Quan sát viên của VNCH tại Liên hiệp quốc (LHQ) đã chính thức yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Bảo an LHQ xem xét hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Ngày 19/1/1974, Bộ Ngoại giao VNCH ra Tuyên bố kêu gọi các dân tộc yêu chuộng công lý và hoà bình lên án hành động xâm lược thô bạo của Trung Quốc, buộc Trung Quốc chấm dứt ngay hành động nguy hiểm đó.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ra Tuyên bố nêu rõ lập trường của mình:
- Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.
- Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại.
- Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị là láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.
Ngày 21/1/1974, Chính quyền VNCH đã gửi Công hàm cho các thành viên ký kết Định ước Paris đề nghị các thành viên lên án và đòi nhà cầm quyền Trung Quốc không được xâm phạm lãnh thổ Việt Nam theo đúng nội dung Điều 1 và Điều 4 của Định ước này.
Ngày 30/3/1974, tại kỳ họp lần thứ 30 của Hội đồng Kinh tế Liên hiệp quốc về Châu Á và Viễn Đông (ECAPE) tại Colombo, phái đoàn VNCH đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 2/7/1974, tại kỳ họp thứ 2 Hội nghị lần thứ 3 của Liên hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS III) diễn ra tại Caracas (20/6 - 29/8/1974), đại biểu của VNCH đã lên tiếng tố cáo Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam, chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này là không tranh chấp và không thể thương lượng.
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 2)
Sinh viên Việt kiều ở Pháp biểu tình phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa - Việt Nam (1974) - Ảnh: HC (chụp lại từ cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa"
Trung Quốc nuốt lời cam kết
Theo tường thuật của TS Trần Công Trục, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 24/9/1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Tổng Bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa).
Tuy nhiên như cả thế giới đều biết, từ đó đến nay Trung Quốc vẫn ngang nhiên nuốt lời cam kết của chính lãnh đạo của họ. Không những thế, Trung Quốc còn tiếp tục leo thang các hàng động vi phạm ngày càng trắng trợn chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa cũng như quần đảo Trường Sa và trên khu vực biển Đông.
Ngày 2/7/1976, Nhà nước CHXHCN Việt Nam được thành lập và hoàn toàn có nghĩa vụ, quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 12/5/1977, Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam ra Tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, trong đó đã khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam có các vùng biển và thềm lục địa riêng.
Tại phiên họp thứ 7 cuộc đàm phán về biên giới Việt - Trung (bắt đầu ngày 9/10/1977), Trưởng đoàn Việt Nam, ông Phan Hiền đã bác bỏ vu cáo của Trung Quốc đối với việc Hải quân Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ông Phan Hiền đề nghị với ông Hàn Niệm Long, Trưởng đoàn Trung Quốc, về việc đưa vấn đề hai quần đảo vào chương trình nghị sự nhưng phía Trung Quốc từ chối.
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? (Phần 2)
Ông Phạm Khôi (bên trái, nhân chứng từng sống và tham gia nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển - đảo Hoàng Sa giai đoạn 1969 - 1970) trao tặng Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa Đặng Công Ngữ bức sơ phác về quần đảo Hoàng Sa do ông vẽ theo trí nhớ - Ảnh: HC
Việt Nam bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc
Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Bị Vong Lục về vấn đề biên giới Việt - Trung. Điểm 9 của Bị Vong Lục đã tố cáo Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào tháng 1/1974.
Ngày 7/8/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra Tuyên bố về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo này, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.
Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng: "Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", trong đó đã giới thiệu 19 tài liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.
Ngày 25/11/2011, trước các đại biểu Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá 13, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ra lời tuyên bố mang tính lịch sử về chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa hiện đang nằm dưới sự chiếm đóng bất hợp pháp của lực lượng vũ trang Trung Quốc:
"Việt Nam có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Chúng ta làm chủ thật sự, ít nhất là từ thế kỷ XVII, khi hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ quốc gia nào. Chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục, hoà bình". "Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền bằng biện pháp hoà bình. Chủ trương này phù hợp với Hiến chương Liên hiệp quốc, phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982".

....

Việt Nam trong chính sách Đông Nam Á của Trung Quốc
Theo sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979), Đông Nam Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu một số lãnh đạo cực đoan của nước CHND Trung Hoa ước mơ thôn tính. Ý đồ bành trướng của Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của Chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963: "Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á"!
Cũng trong dịp này, Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở. Đối với nước Lào đất rộng, người thưa, Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở...
Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị BCH TƯ ĐCS Trung Quốc, tháng 8/1965: "Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore... Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy... Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh cua chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô - Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây".
So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam Á là khu vực mà Trung Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên hàng chục năm qua, những người lãnh đạo CHND Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện cho chiến lược toàn cầu của họ.
"Họ xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, đe dọa bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu vực. Họ không từ bất kỳ một hành động tàn bạo nào, như họ đã dựng lên tập đoàn Pol pot - Ieng Sary thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia... để phục vụ cho chính sách bành trướng và bá quyền của họ." (Sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua - 1979).
Cũng theo sách này, Việt Nam có một vị trí chiến lược ở Đông Nam Á. Trong lịch sử, phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính Việt Nam, dùng Việt Nam làm bàn đạp để xâm lược các nước khác ở Đông Nam Á. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi xuống Đông Nam Á.
Trong cuộc gặp gỡ giữa đại biểu 4 ĐCS Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia và Lào tại Quảng Đông tháng 9/1963, Thủ tướng Chu Ân Lai nói: "Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Á"!
Sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979) nêu rõ: "Để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới".
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam (phần 3)
Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng) cung cấp cho du khách nước ngoài thông tin về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa - Ảnh: HC
Từ vịnh Bắc bộ đến quần đảo Hoàng Sa
Đề cập đến vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa, sách này cũng nhấn mạnh: "Những người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là "chủ quyền" của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, để từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam Á, đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông".
Đặc biệt, sách này cho biết thêm, từ năm 1973, những người cầm quyền Trung Quốc tăng cường hành động khiêu khích và lấn chiếm đất đai ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam nhằm làm yếu những cố gắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đồng thời họ ngăn cản Việt Nam thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế.
Ngày 26/12/1973, Việt Nam đề nghị mở cuộc đàm phán để xác định chính thức đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc bộ nhằm sử dụng phần biển thuộc Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Ngày 18/1/1974, phía Trung Quốc trả lời chấp thuận đề nghị nhưng họ đòi không được tiến hành việc thăm dò trong một khu vực rộng 20.000km2 trong vịnh Bắc bộ do họ tự ý định ra. Họ còn đòi "không để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc bộ" vì việc đó "không có lợi cho sự phát triển kinh tế chung của hai nước và an ninh quân sự của hai nước".
"Đó chỉ là một lý do để che đậy ý đồ đen tối của họ. Cũng vì vậy mà cuộc đàm phán về đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc bộ từ tháng 8 đến tháng 11/1974 đã không đi đến kết quả tích cực nào. Cũng với thái độ trịch thượng nước lớn như vậy, họ làm bế tắc cuộc đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ và trong vịnh Bắc bộ bắt đầu từ tháng 10/1977, nhằm mục đích tiếp tục xâm phạm biên giới, lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam" (sách đã dẫn).
Đặc biệt, tài liệu này của Bộ Ngoại giao Việt Nam cho hay, chỉ một ngày sau khi nhận đàm phán với phía Việt Nam về vấn đề vịnh Bắc bộ, vào ngày 19/1/1974 phía Trung Quốc đã sử dụng lực lượng hải quân và không quân tiến đánh quân lực Việt Nam Cộng hoà (VNCH) và chiếm quần đảo Hoàng Sa từ lâu vốn là bộ phận lãnh thổ Việt Nam.
"Họ nói là để "tự vệ" nhưng thực chất đó là một hành động xâm lược, một sự xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam để khống chế Việt Nam từ mặt biển và từng bước thực hiện mưu đồ độc chiếm biển Đông. Hành động xâm lược của họ có tính toán từ trước và được sự đồng tình của Mỹ. Vì vậy, khi đó đại sứ Mỹ G. Martin ở Sài Gòn đã bác bỏ yêu cầu cứu viện của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn, và hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương đã được lệnh tránh xa quần đảo Hoàng Sa" (sách đã dẫn).
Trung Quốc dùng thủ đoạn gì để xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam (phần 3)
Các em học sinh Đà Nẵng tìm hiểu về quần đảo Hoàng Sa thân yêu - Ảnh: HC
Vì sao chính quyền Nixon im lặng trước biến cố Hoàng Sa?
Về chi tiết vừa nêu trên, TS Trần Công Trục trong bài "Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa" đăng trong cuốn "Kỷ yếu Hoàng Sa" (NXB Thông tin và Truyền thông, tháng 1/2012) cũng cho biết thêm:
"Ngày 20/1/1974, lúc 16g, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc đã thông báo tình hình quần đảo Hoàng sa cho Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn, và yêu cầu Hoa Kỳ cho biết sẽ dành cho VNCH sự ủng hộ nào về vật chất, chính trị với tư cách là nước thân hữu và đồng minh, cũng như với tư cách là quốc gia đã ký kết và bảo đảm cho Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, nhưng không nhận được trả lời của Hoa Kỳ.
Ngày 21/1/1974, Chính quyền VNCH đã gửi Công hàm cho các thành viên ký kết Định ước Paris đề nghị các thành viên lên án và đòi nhà cầm quyền Trung Quốc không được xâm phạm lãnh thổ Việt Nam theo đúng nội dung Điều 1 và Điều 4 của Định ước này.
Ngày 22/1/1974, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã gửi thư cho Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon về biến cố Hoàng Sa và ngày 28/1/1974 thông báo tới tất cả các quốc gia có quan hệ ngoại giao với VNCH về hành động hiếu chiến của Trung Quốc trong cuộc hành quân xâm lược quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam".
Vì sao là một nước "thân hữu và đồng minh" với VNCH nhưng Mỹ lại im lặng trước biến cố Hoàng Sa? Sách "Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua" (1979) nêu rõ: "Về việc Tổng thống Nixon đi thăm Trung Quốc năm 1972, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã nói với những người lãnh đạo Việt Nam tháng 6/1973 như sau: "Thành thực mà nói, nhân dân Trung Quốc, ĐCS Trung Quốc và nhân dân thế giới phải cảm ơn nhân dân Việt Nam đã đánh thắng Mỹ. Các đồng chí chiến thắng mới buộc Nixon phải đi Bắc Kinh".
Kỳ thực, theo tài liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam, trong chuyến thăm vừa nêu, Trung Quốc đã thoả thuận với chính quyền Nixon một cuộc mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam, thể hiện trong Thông cáo Thượng Hải. Theo đó, Trung Quốc mưu toan dùng "con bài Việt Nam" để ngoi lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ Trung - Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Còn chính quyền Nixon có thể cứu vãn và khôi phục địa vị trên thế giới đã bị suy yếu nghiêm trọng do hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam và bắt đầu thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" nhằm rút được quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Do vậy, chính quyền Nixon đã không có bất cứ động thái nào đáp ứng lời cầu cứu của chính quyền VHCN khi quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược. Và đây cũng chính là bài học lịch sử về việc chúng ta phải không ngừng nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tận dụng sự ủng hộ của quốc tế nhưng phải trên cơ sở phát huy tự lực, tự cường chứ không thể chỉ trông chờ, dựa dẫm vào những lực lượng từ bên ngoài để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền quốc gia của chúng ta!

HẢI CHÂU (lược ghi)

http://infonet.vn/bien-dao-vn/trung-quoc-dung-thu-doan-gi-de-xam-chiem-hoang-sa-cua-viet-nam-phan-2/a25624.html

Tham vọng bá chủ và thực lực của hải quân Trung Quốc

Một thời gian dài trong Chiến tranh Lạnh, hải quân Trung Quốc không là gì nhiều hơn một lực lượng tuần duyên. Ngày nay, sự phân chia rõ ràng hơn đang diễn ra vì hải quân Trung Quốc nhấn mạnh chiến tranh tập trung vào công nghệ.

Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA). Trước thập niên 1990, Hải quân Trung Quốc đóng vai trò thứ yếu so với Lục quân. Từ thập niên 1990 đến nay, lực lượng hải quân được Trung Quốc nhanh chóng hiện đại hóa; phát triển nhanh chóng, đến nay bao gồm thêm 35.000 Hải quân Biên phòng và 56.000 Thủy quân Lục chiến, cùng 56.000 quân thuộc Lực lượng Hải quân Không chiến với hàng trăm chiến đấu cơ trên bờ và các trực thăng trên các chiến hạm.
Tham vọng bá chủ biển xa và thực lực của hải quân Trung Quốc (kỳ 1)
Máy bay hải quân và tàu chiến Trung Quốc trong lễ kỷ niệm 60 năm thành lập hải quân nước này. Ảnh: guardian.co.uk.
Tháng 3 năm 1950, trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Đại Liên với đa số huấn luyện viên người Nga. Tháng 9 cùng năm, Hải quân Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc chính thức thành lập, quân số khởi đầu chọn từ các lực lượng hải quân địa phương trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu tại Khương Yển (nay đặt tại Thái Châu, thuộc tỉnh Giang Tô). Lực lượng này thoạt đầu chỉ là một nhóm chiến hạm ô hợp tịch thu của Trung Hoa Quốc Dân đảng, và hai năm sau tăng cường thêm lực lượng không chiến. Giống như tổ chức quân đội chung, các chính ủy đều được đưa vào mỗi chiến hạm để nắm chắc các hạm trưởng.
Đến năm 1954, số cố vấn hải quân Liên Xô tăng lên đến 2.500 người – tỉ lệ một cố vấn Liên Xô cho 30 quân nhân hải quân Trung Quốc – và Liên Xô bắt đầu viện trợ các loại chiến hạm tối tân hơn. Với viện trợ của Liên Xô, năm 1954-1955, Hải quân Trung Quốc tổ chức lại thành ba hạm đội. Ban đầu, việc chế tạo các chiến hạm nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô, nhưng về sau, Trung Quốc tiến dần từ việc bắt chước chế tạo theo mẫu thiết kế các chiến hạm Liên Xô, đến có thể tự thiết kế và chế tạo chiến hạm các loại. Từng có một thời, quan hệ hai bên mật thiết đến độ có cả bàn tính dự định tổ chức một hạm đội chung cho hải quân Xô-Trung.
Đến thập niên 1970, khi ngân sách quốc phòng dành cho hải quân lên đến 20% ngân sách quốc gia, thì Hải quân Trung Quốc phát triển vượt bậc. Lực lượng tàu ngầm thông thường tăng vọt từ 35 đến 100 chiếc, các phóng pháo hạm có khả năng bắn tên lửa tăng từ 20 lên đến 200 chiếc, và các chiến hạm loại lớn và các chiến hạm yểm trợ loại tuần dương cũng được chế tạo thêm. Hải quân Trung Quốc cũng đóng thêm tàu ngầm loại xung kích và loại chiến lược phóng tên lửa với máy chính chạy bằng năng lượng hạt nhân. Các tàu ngầm loại này đều có tầm hoạt động rất xa.
Đến thập niên 1980, Hải quân Trung Quốc trở thành một lực lượng hải quân đáng kể trong khu vực, có khả năng tuần tiễu khá xa lãnh hải. Tuy nhiên, mức độ phát triển có phần chậm hơn thập niên trước đó. Các nỗ lực hiện đại hóa chú trọng nhiều hơn vào trình độ kỹ thuật và học vấn của thủy thủ. Đồng thời, sách lược hành quân biên phòng và cơ cấu lực lượng được chỉnh đốn và đặt trọng tâm vào các hoạt động tuần dương (blue-water operations) hơn tuần duyên (coastal defense), ngoài ra Hải quân Trung Quốc còn đẩy mạnh các chương trình huấn luyện hành quân hỗn hợp giữa các lực lượng tàu ngầm, chiến hạm, hải quân không chiến, và các lực lượng duyên phòng. Ngoài việc đẩy mạnh phát triển tầm hoạt động, Hải quân Trung Quốc cũng chế tạo thành công một số tên lửa loại hạm-đối-hạm, hạm-đối-đất, đất-đối-hạm, và không-đối-hạm.

Kế hoạch và ưu tiên chiến lược

Trong vài năm gần đây, Hải quân Trung Quốc trở nên quan trọng vì có sự thay đổi trong tầm nhìn chiến lược của Trung Quốc. Cho rằng cần chuẩn bị cho các mối đe dọa chiến lược bao gồm giao tranh với Hoa Kỳ, hoặc tranh chấp với Nhật hay Đài Loan, hoặc giao tranh tại Trường Sa. Trong sách lược hiện đại hóa hải quân nói chung, một trong những ưu tiên dài hạn là cải tổ và phát huy Hải quân Trung Quốc thành một Hải quân Viễn dương.
Hải quân Trung Quốc đã bước vọt trong những năm gần đây khi họ quyết định mua loại khu trục hạm hạng Sovremenny và mua tàu ngầm hạng Kilo của Nga. Hai khu trục hạm hạng Sovremenny đầu tiên được trang bị tên lửa chống chiến hạm loại SS-N-22, còn gọi là Tên lửa chống chiến hạm vận tốc vượt âm 3M-80E. Theo các nhà nghiên cứu quốc phòng Tây phương, loại tên lửa này có khả năng tiêu diệt hàng không mẫu hạm.
Hạm đội tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc cũng có những bước tiến lớn. Các tàu ngầm hạng Kilo có khả năng hoạt động ít tiếng ồn và được trang bị hai loại vũ khí mới nhất: tên lửa chống chiến hạm loại Klub, còn gọi là Tên lửa chống chiến hạm vận tốc dưới âm 3M-54E1, và tên lửa thủy lôi loại VA-111 Shkval có tốc độ trên 320 km/giờ và tầm hoạt động 7,5 km. Tất cả các tàu ngầm của Hải quân Trung Quốc, kể cả loại Kilo, đều được trang bị loại máy lọc không khí, có khả năng nằm chờ rất lâu dưới biển để đột kích đối thủ.
Lực lượng tác chiến của Hải quân Trung Quốc có ba hạm đội:
Hạm đội Bắc Hải: Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Thanh Đảo thuộc tỉnh Sơn Đông. Hạm đội này có khu vực trách nhiệm vùng vịnh Bột Hải và Hoàng Hải. Soái hạm của hạm đội nầy là khu trục hạm Cáp Nhĩ Tân, thuộc loại trang bị tên lửa có điều khiển (guided-missile destroyer - DDG).
Hạm đội Đông Hải: Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Ninh Ba, thuộc tỉnh Chiết Giang. Hạm đội nầy có khu vực trách nhiệm vùng Đông Hải. Soái hạm là tuần dương hạm J302 Sùng Minh Đảo.
Hạm đội Nam Hải: Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Trạm Giang thuộc tỉnh Quảng Đông. Hạm đội nầy có trách nhiệm kiểm soát vùng Nam Hải. Soái hạm là tuần dương hạm AOR/AK 953 Nam Xương.
Hạm đội Nam Hải là lực lượng trực tiếp giao tranh với Hải quân Việt Nam trong những cuộc tranh chấp lãnh hải vào các thập niên 1970 và 1980.
Tham vọng
Trong các bài báo viết về chủ đề quân sự đang xuất hiện trên báo chí Trung Quốc thường có những yêu sách đối với hơn 5 triệu km2 “lãnh thổ Trung Quốc bị nước ngoài xâm chiếm”, khu vực an ninh biển được tuyên bố của Trung Quốc trải rộng 2000 hải lý vào sâu không gian rộng lớn của Thái Bình Dương, mà có thể còn hơn nữa.

Chính ủy Viện Nghiên cứu Khoa học quân sự Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa, tướng Wen Zongren trong một báo cáo về sức mạnh quân sự của Trung Quốc đã tuyên bố: “Trung Quốc phải chọc thủng sự bao vây phong tỏa từ phía các thế lực quốc tế chống lại an ninh biển của mình. Chỉ khi chúng ta chọc thủng được nó thì chúng ta mới có thể nói về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Để sự trỗi dậy được nhanh chóng, Trung Quốc cần phải đi qua các đại dương và vượt ra khỏi chúng trong tương lai phát triển của mình”.

Các thành tố chính sử dụng hải quân trong tác chiến trong khuôn khổ chiến lược hiện hành là các khái niệm sau đây: tác động tích cực đối với đối phương ở cự ly tối đa với việc chuẩn bị cho hải quân tác chiến ở toàn bộ chiều sâu chiến trường đại dương (biển), phản kích hạt nhân hạn chế nhằm tự vệ với sự tham gia của hải quân trong việc giáng đòn hạt nhân vào đối phương bằng các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn trong thành phần các lực lượng hạt nhân chiến lược Trung Quốc.

Theo chiến lược hải quân hiện đại Trung Quốc, trong cuộc chiến tranh tương lai, hải quân sẽ được giao giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: tiêu diệt tàu chiến và tàu vận tải của đối phương, quấy rối các tuyến giao thông trên biển của đối phương, thực hiện các đòn tấn công bất ngờ vào các căn cứ hải quân, hải cảng và các mục tiêu quan trọng trên bờ của đối phương nhằm làm suy yếu tiềm lực quân sự đối phương, tiến hành các chiến dịch đổ bộ đường biển với sự tham gia của lục quân và không quân, cũng như đối phó với đổ bộ đường biển của đối phương, bảo đảm an ninh cho các tuyến giao thông trên biển, nghề cá, khai thác khoáng sản và nghiên cứu khoa học, và nhiều nhiệm vụ khác.

Chiến lược hải quân Trung Quốc xác định 3 giai đoạn phát triển hải quân:

Ở giai đoạn đầu, Trung Quốc đã xác định xây dựng các cụm lực lượng có khả năng duy trì hình thế tác chiến đã định ở trong phạm vi khu vực được giới hạn bởi “chuỗi đảo thứ nhất” (quần đảo Ryukyu và quần đảo Philippines), bao gồm các vùng biển thuộc Hoàng hải, biển Hoa Đông, Biển Đông và đồng thời đóng vai trò một “Vạn lý trường thành trên biển”. Hiện nay, giai đoạn này đã hoàn thành.

Ở giai đoạn 2 (đến năm 2020) dự định có những hoạt động tích cực của hải quân trong phạm vi khu vực được giới hạn bởi “chuỗi đảo thứ hai” (quần đảo Kurils, Hokkaido, quần đảo Nanpō, các quần đảo Mariana và Caroline, New Guinea) và bao gồm các vùng biển Nhật Bản và biển Philippines, các biển thuộc quần đảo Indonesia.

Ở giai đoạn 3 (đến năm 2050) dự kiến xây dựng một hạm đội đại dương hùng mạnh, có khả năng giải quyết các nhiệm vụ đặt ra hầu như ở mọi khu vực của đại dương thế giới. Bởi vậy, xây dựng các lực lượng tàu sân bay và tàu ngầm hạt nhân thực thụ ngay vào đầu thế kỷ XXI được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong phát triển hải quân Trung Quốc.

Tổng số tàu chiến đấu trong hạm đội Trung Quốc trong 4 năm gần đây đã tăng khoảng từ 570 đến 700 chiếc. Tuy nhiên, điều đó đã diễn ra không chỉ nhờ việc đóng mới mà cả nhờ việc đưa nhiều tàu xuồng khỏi lực lượng dự bị vốn đang quản lý một số lượng lớn tàu ngầm, xuồng chiến đấu và xuồng đổ bộ. Còn việc cắt giảm số lượng tàu xuồng vào năm 2015-2020 có thể thực hiện bằng cách chuyển một phần các tàu ngầm, xuồng chiến đấu và xuồng đổ bộ vào lực lượng dự bị.

Trong 10 năm qua, Trung Quốc đã tăng mạnh khối lượng đóng tàu quân sự. Trọng tâm chú ý trong đó đã dịch chuyển từ các tàu có lượng giãn nước hạn chế sang các tàu thuộc các lớp cơ bản (tàu ngầm nguyên tử, tàu sân bay, tàu frigate). Đồng thời, họ tiếp tục đóng các tàu hộ vệ tên lửa nhỏ.

Lực lượng tàu ngầm
Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn
Tham vọng bá chủ biển xa và thực lực của hải quân Trung Quốc (kỳ 1)
Các tàu ngầm tấn công của hải quân Trung Quốc
Trong biên chế chiến đấu của hải quân Trung Quốc có 1 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn Trường Chinh-6, lớp Hạ 092 (năm 1995-2001, đã được hiện đại hóa và được trang bị lại bằng tên lửa đường đạn xuyên lục địa JL-1A) và 2 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn 094.

Trung Quốc bắt tay vào đóng serie tàu ngầm lớp 094 vào năm 2001. Tàu đầu tiên Tấn gia nhập chính thức biên chế hải quân từ năm 2007, còn tàu ngầm sản xuất loạt đầu tiên - vào năm 2009, nhưng việc thử nghiệm các tên lửa đường đạn xuyên lục địa mới dành cho nó vẫn tiếp tục trong năm 2011. Việc thực sự đưa vào biên chế chiến đấu hạm đội Trung Quốc 2 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Tấn rõ ràng sẽ xảy ra trong năm nay. Theo giới lãnh đạo Trung Quốc, việc đóng loạt tàu ngầm mang tên lửa đường đạn này là nhằm bảo đảm khả năng kiềm chế chiến lược đối với lực lượng hạt nhân trên biển của Mỹ.

Lần đầu tiên, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 bị vệ tinh Quickbird chụp ảnh vào cuối năm 2006 khi đang đậu tại căn cứ Xiaopindao gần thành phố Đại Liên. Các chuyên gia lập tức xác định được rằng, tàu ngầm này giống các tàu lớp Projekt 667BDRM của Nga.

Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới này của Trung Quốc được trang bị 12 tên lửa đường đạn xuyên lục địa JL-2 mang đầu đạn tách (MIRV). Tên lửa này là biến thể thu nhỏ của tên lửa đường đạn xuyên lục địa triển khai trên mặt đất DF-31 vốn đã được thử nghiệm từ năm 1999. Tầm bắn tối đa đến 8.000 km khi mang đầu đạn đơn khối có đương lượng nổ 0,35 МT. tên lửa đường đạn xuyên lục địa nhiên liệu rắn này có trọng lượng 42 tấn, chiều dài gần 12 m, đường kính 2 m, sử dụng hệ dẫn quán tính. Tên lửa có thể mang đầu đạn MIRV.

Hiện nay, Trung Quốc đang đóng 3 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 và dự định đóng thêm 1 tàu ngầm nữa loại này. Tuy nhiên, theo thông tin hiện có, các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn đang đóng đã là tàu thuộc lớp 096 và sẽ được trang bị mỗi tàu 24 tên lửa đường đạn xuyên lục địa. Ngoài ra, CIA Mỹ vào giữa năm 2011 đã nhận được một bức ảnh vệ tinh chụp một trong các tàu ngầm này đang chạy thử trên biển.

Ít có khả năng Trung Quốc đã làm chủ được công nghệ sản xuất có thể vượt qua được Mỹ, Nga, Anh và Pháp trong lĩnh vực luyện kim. Tuy nhiên, kiểu gì thì sau năm 2016, Trung Quốc có lẽ sẽ sở hữu 6 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới và 1 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn cũ. Hơn nữa, vũ khí trang bị trên 4 tàu sẽ không kém các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn của Mỹ.

Các chuyên gia cho rằng, nhiều khả năng nhất là Trung Quốc vẫn sử dụng các công nghệ của Pháp để chế tạo hệ thống động lực hạt nhân cho tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 94. Do đó, không loại trừ khả năng, hệ thống động lực hạt nhân với 2 lò phản ứng cải tiến từ thiết kế thời thập niên 1970-1980 của Pháp vẫn được sử dụng làm hệ thống động lực chính. Trong khi đó, một số chuyên gia cho rằng, tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn mới của Trung Quốc được trang bị hệ thống động lực hạt nhân bình thường.

Lượng giãn nước của lớp 094 nêu trên báo chí là 9.000 tấn rõ ràng là bị giảm bớt. Với 2 lò phản ứng và 12 tên lửa đường đạn xuyên lục địa (với trọng lượng phóng 42 tấn mỗi tên lửa), lượng giãn nước không thể dưới 11.000-12.000 tấn. Thậm chí lượng giãn nước khi nổi cũng lớn hơn và theo các chuyên gia là 9.500 tấn. Đánh giá lượng giãn nước của tàu ngầm lớp 096 thực tế hơn và là gần 16.000 tấn.

Tàu ngầm hạt nhân tấn công
Trong biên chế hải quân Trung Quốc có 5 tàu ngầm hạt nhân tấn công: 3 chiếc lớp Hán 091 đóng năm 1980-1990 (2 tàu đầu tiên của lớp này đã bị loại bỏ) và 2 chiếc lớp Thương 093. Xét đến việc tiến hành sửa chữa tại nhà máy, các tàu ngầm lớp 091 sẽ bị rút dần khỏi biên chế hạm đội Trung Quốc vào năm 2012-2020. Hiện nay, Trung Quốc đang đóng tàu ngầm hạt nhân tấn công đa năng lớp 093, có tính năng tương đương tàu ngầm hạt nhân lớp Projekt 671RTM của Nga. Đến năm 2020, Trung Quốc dự định đóng đến 8 tàu ngầm hạt nhân lớp này.

Toàn bộ thông tin nêu trên về tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp 094 liên quan đến các công nghệ động lực hạt nhân của Nga, theo khẳng định của các chuyên gia, cũng đúng với các tàu ngầm lớp 093. Ngoài ra, các chuyên gia còn cho rằng, lượng giãn nước của tàu ngầm này được nêu trên báo chí sát với thực tế hơn. Việc tàu đầu tiên lớp 093 đã đóng trong 13 năm trời gián tiếp nói lên rằng: các công nghệ Nga đã được sử dụng khi chế tạo tàu ngầm này (thiết kế đã bị sửa đổi lại sau khi Trung Quốc có tàu ngầm thông thường Projekt 877EKM).

Trên 6 tàu ngầm hạt nhân tấn công tiếp theo, việc ứng dụng đầy đủ các công nghệ mới đã dẫn đến những thay đổi trong thiết kế đến mức số hiệu của lớp cũng thay đổi thành 095. Tuy vậy, các chuyên gia Trung Quốc vẫn còn khuya mới đạt được trình độ mức ồn của các tàu ngầm nguyên tử tấn công mới của các nước hàng đầu thế giới.

Ngoài ra, có thể thấy việc hệ thống động lực hạt nhân của tàu ngầm Trung Quốc có độ tin cậy tương đối thấp chứng tỏ rằng, ngay cả các công nghệ của Pháp ở mức độ nhất định hiện vẫn nằm ngoài tầm với đối với công nghiệp Trung Quốc.
So sánh khả năng chiến đấu của tàu ngầm nguyên tử tấn công của Trung Quốc và các nước hàng đầu thế giới
Năm
Lớp tàu ngầm
Tốc độ toàn phần (hải lý)
Hệ thống động lực chính
Số lượng ống phóng lôi
Số lượng đơn vị vũ khí
Đánh giá mức ồn dải rộng tương đối
Độ sâu lặn hoạt động (m)
Trung Quốc
1974/1980
091
25
Turbo điện hạt nhân
6
20
340
300
2007
093
>30
Turbo điện hạt nhân/Hạt nhân
6
24
110
-
Mỹ
1988
San Juan
32-33
Hạt nhân
4
26+12 trong bệ phóng thẳng đứng
100
450
1997
Seawolf
>35
Hạt nhân
8
52
20-25
500
Liên Xô/Nga
1989
Projekt 671RTMK
>30
Hạt nhân
6
24
105
400
1992
Projekt 971 cải tiến
33
Hạt nhân
8
40
35
450
Anh
1983
Trafalgar
32
Hạt nhân
5
20
114
>300
2009
Astute
>30
Hạt nhân
6
38-48
30-40
400
Pháp
1983
Rubis
25
Hạt nhân
4
14
104
>300
2016
Suffren
>30
Hạt nhân
4
24
40
350
* Đánh giá mức ồn dải rộng tương đối được tính bằng phần trăm so với chỉ số này ở tàu ngầm nguyên tử tấn công San Juan lớp Los Angeles

Tuy nhiên, các chuyên gia từ lâu hiểu rằng, để hoàn toàn khắc phục được sự lạc hậu trong lĩnh vực đóng tàu ngầm, Trung Quốc sẽ cần không chỉ kỹ năng sao chép các mẫu tàu ngầm nước ngoài, mà còn nắm vững nhiều nghiên cứu lý thuyết có liên quan đến các ngành khoa học cơ bản. Nhưng để làm thế cần có những khoản tiền lớn và kinh nghiệm mà các cường quốc hải quân hàng đầu tích lũy được trong 100 năm gần đây.

Ít có khả năng các nước đó sẽ chia sẻ kinh nghiệm này với Trung Quốc. Khả năng chuyển giao (bán) một vài tàu ngầm nguyên tử tấn công các lớp Projekt 949А và Projekt 971 cũng khó lòng giúp Trung Quốc đạt đến trình độ đóng tàu ngầm cần thiết trong thời gian sắp tới.

Tàu ngầm thông thường


Tính đến đầu năm 2012, trong biên chế hải quân Trung Quốc còn 48 tàu ngầm thông thường (các lớp 041, 039/039G, 035, 877EKM/636). Trung Quốc hiện chỉ tiếp tục đóng tàu ngầm lớp 041. Hiện nay, trong biên chế có 4 tàu ngầm lớp 041, 1 tàu đang ở giai đoạn đóng và 3 tàu dự định đóng.

Tàu ngầm lớp 041 thực tế là bản sao chép đầy đủ tàu ngầm thông thường lớp Projekt 636 chỉ có sự thay đổi ở cách bố trí các cánh lái mũi và đuôi. Các cánh lái ngang ở mũi gắn vào phần thượng tầng, còn ở các cánh lái đứng ở đuôi có thêm phần trên. Ngoài ra, hệ thống động lực chính cũng có những thay đổi, nay chuyển thành động cơ điện-diesel và động cơ không cần không khí (AIP). AIP được chế tạo dựa trên động cơ Stirling, có lẽ được mua từ Thụy Điển cho các tàu ngầm này.

Đa số các chuyên gia cho rằng, Trung Quốc sẽ khó lòng làm chủ được công nghệ sản xuất AIP dựa trên công nghệ hydro (các máy phát điện-hóa đang được sản xuất ở Nga và Đức). Nhưng việc chế tạo AIP dựa trên động cơ Stirling (công nghệ do Thụy Điển và Nhật Bản làm chủ) là hoàn toàn có khả năng vì trong những năm gần đây, Trung Quốc tăng cường hợp tác kỹ thuật với Thụy Điển.

Cần lưu ý rằng, việc Trung Quốc mua sắm ồ ạt tàu ngầm thông thường của Nga (đã mua 12 tàu ngầm các lớp Projekt 877EKM và Projekt 636 trong khi số tàu ngầm đóng theo thiết kế nội địa 039 chỉ là 13) chứng tỏ lãnh đạo hải quân Trung Quốc không hài lòng với chất lượng của không chỉ các tàu ngầm nguyên tử nội địa mà cả tàu ngầm hạt nhân thông thường nội địa.

Đa số các chuyên gia cũng hoàn toàn nhất trí rằng, tàu ngầm lớp 041 (sao chép tàu ngầm thông thường của Nga) kể cả được trang bị AIP cũng sẽ không thể sánh nổi các tàu ngầm mới của Nga hay của Pháp về khả năng chiến đấu vì Trung Quốc không có khả năng sao chép nhiều công nghệ.

Tình thế đó sẽ thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục mua các tàu ngầm thông thường tối tân của Nga hay của Pháp.

(Tổng hợp từ Vietnamdefence và các nguồn khác)
 
http://infonet.vn/luc-luong/tham-vong-ba-chu-va-thuc-luc-cua-hai-quan-trung-quoc-ky-1/a25711.html

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Thời cơ quân sự của Trung Quốc đã đến?

Bắc Kinh có thể đã kết luận rằng phương thức ngoại giao kiên trì sẽ làm lỡ thời cơ của nước này ở Biển Đông. Theo nhận định của Trung Quốc, đây là thời điểm cần phải hành động – và chiếm ưu thế trong cuộc cạnh tranh. Bài học năm 1974: Thời gian là yếu tố đóng vai trò quyết định.


Thời cơ đang trôi qua tại Biển Đông. Liệu Bắc Kinh sẽ chớp thời cơ để tấn công?
Bị lôi cuốn bởi nguồn dầu khí dưới đáy biển và sự yếu thế của các bên tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc đã thực hiện cuộc tấn công hải quân nhằm đánh chiếm quần đảo đang tranh chấp này. Để biện minh cho hành động của mình, Bắc Kinh viện dẫn đến lịch sử - chủ yếu dẫn chứng đến những chuyến đi tới quần đảo này vào thế kỷ 15 của Đô đốc Trịnh Hòa thời Minh – trong khi rêu rao về “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với gần như toàn bộ Biển Đông.
Tàu đổ bộ Trung Quốc hoạt động dưới sự yểm trợ của máy bay chiến đấu từ khu vực gần đảo Hải Nam đã giao chiến với một đội tàu nhỏ của Miền Nam Việt Nam không có yểm trợ từ trên không. Một tàu khu trục hộ tống của Việt Nam Cộng hòa đã bị đánh chìm sau cuộc giao tranh dài ngày. Cờ Trung Quốc xuất hiện trên quần đảo Hoàng Sa.
Cuộc chạm chán này là sự kiện có thật – và đó là ngày 17 tháng 1 năm 1974.
Lịch sử có thể không tự lập lại một cách chính xác, nhưng chắc chắn là nó có sự tính chu kỳ.  Vào thời điểm đó, Trung Quốc đã khai thác điểm yếu của Miền nam Việt Nam để đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Giờ đây, Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) tuyên bố kế hoạch đưa quân sự đồn trú ra Tam Sa, một thành phố mới thành lập với diện tích 0,8 dặm vuông tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Chính thức được thành lập vào ngày 24 tháng 7, Tam Sa sẽ có vai trò là trung tâm hành chính của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển liền kề.
Đây là động thái mới nhất trong chiến dịch của Trung Quốc nhằm củng cố yêu sách đối với tất cả các vùng biển và đảo nằm trong “đường chín đoạn” với diện tích bao phủ gần như toàn bộ Biển Đông, đường này tạo ra những vết cắt lớn đối với vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các quốc gia Đông Nam Á. Trong tháng này, một tàu khu trục của Trung Quốc đã bị mắc cạn trong vùng EEZ của Philippines ngay sau khi có tin cho rằng tàu này đã xua đổi ngư dân Philippines. Vụ việc trên xảy ra ngay sau tuyên bố vào cuối tháng 6 rằng các đơn vị Hải quân PLA bắt đầu thực hiện các cuộc “tuần tra định kỳ” tại những vùng biển đang tranh chấp.
Một lần nữa, Bắc Kinh lại đi đến việc sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, không giống như năm 1974, lãnh đạo Trung Quốc sẽ thực hiện [theo cách thức khác] vào thời điểm khi mà ngoại giao thời bình dường như đem đến cho họ một cơ hội tốt để chiếm ưu thế mà không cần dùng đến chiến tranh. Tôi gọi nó là “ngoại giao cây gậy nhỏ” – ngoại giao pháo hạm mà không công khai phô trương các loại tàu chiến.
Các chiến lược gia Trung Quốc có một cái nhìn rất rộng về sức mạnh hải quân – bao gồm cả tàu phi quân sự. Vào năm 1974, giới tuyên truyền đã miêu tả “Cuộc chiến tự vệ đối với Hoàng Sa” (cuộc chiến được nhiều người biết đến tại Trung Quốc) là chiến thắng của “hải quân nhân dân”, họ đã ca ngợi không tiếc lời những ngư dân đã hành động như chiến sĩ hải quân. Các đội tàu cá có thể tới những khu vực và tiến hành hoạt độnng mà các bên yêu sách khác phải phản ứng lại hoặc mặc nhiên từ bỏ yêu sách của họ. Các tàu chiến không được trang bị vũ khí của lực lượng phòng vệ bờ biển giống như những cơ quan được nâng cấp cao hơn. Và hạm đội Hải quân PLA được các loại vũ khí chiến thuật hỗ trợ từ các căn cứ trên đất liền như máy bay, tên lửa, tàu chiến trang bị tên lửa và cuối cùng là tàu ngầm.
Bắc Kinh có thể củng cố ảnh hưởng của mình trong đường chín đoạn bằng cách đưa tàu giám sát, ngư dân hay các tàu chấp pháp để bảo vệ ngư dân Trung Quốc tại các vùng biển tranh chấp, coi thường các bên yêu sách, và khẳng định nội luật của Trung Quốc. Và Trung Quốc có thể làm vậy mà không thể hiện công khai bắt nạt các quốc gia láng giềng yếu thế hơn mình, nhằm tránh tạo cơ hội cho các quốc gia bên ngoài khu vực một cái cớ để can thiệp, hay làm suy giảm vị thế quốc tế của mình giữ mớ hỗn độn và thống khổ của xung đột vũ trang. Tại sao lại bỏ đi một chiến lược đem lại hứa hẹn như vậy?
Thực tế chính sách “cây gậy nhỏ” sẽ cần một khoảng thời gian, vì nó cần tạo dựng những cơ sở trên mặt bằng chung (giống như Tam Sa), cũng như thuyết phục các bên rằng đó là điều vô ích khi phản đối những cơ sở này. Bắc Kinh có những động cơ, mục đích cũng như cơ hội để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông theo lập luận của họ, tuy nhiên có thể họ nhìn nhận những có hội đó theo cách thoáng qua. Khi mà các nước có yêu sách khác như Việt Nam đang trang bị thêm vũ khí. Các nước này có thể xây dựng được quân đội có đủ khả năng chống lại những đe doạ từ phía Trung Quốc, không thì ít nhất cũng làm TQ phải trả giả một giá đắt khi thực hiện những ý đồ của mình. Cùng lúc này các nước ASEAN cũng đang tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cường quốc bên ngoài như Mỹ. Mặc dù Washington không chính thức đứng về bên nào trong vấn đề tranh chấp biển, tuy nhiên họ bày tỏ sự đồng cảm một cách tự nhiên với các nước ASEAN. Trong khi Philippines có hiệp ước đồng minh với Mỹ thì Chính phủ Mỹ cũng đã đạt được quan hệ thân thiện với Việt Nam.
Vì vậy mà các nhà lãnh đạo của Trung Quốc tin rằng họ phải hành động ngay lúc này hoặc không thì họ sẽ vĩnh viễn mất cơ hội để có được việc kiểm soát gần như toàn bộ Biển Đông. Bất chấp giá nào cũng như những khó khăn và sức ép ngoại giao mà họ có thể đưa ra trong thời gian ngắn, những phương thức trực diện là những hành động mà có thể ít gây nguy hại hơn.
Những động cơ này của Trung Quốc đã được duy trì trong suốt hàng thập kỷ. Thực chất bản đồ đường 9 đoạn là bản đồ giả tượng từ những năm 1940 chứ không phải được vẽ ra trong những năm gần đây. Bản đồ này đã được xuất bản Trước khi Chính quyền Tưởng Giới Thạch chạy tới Đài Loan và sau đó Chế độ Cộng sản Trung Quốc đã có được nó.
Giờ đây tấm bản đồ này thể hiện những lợi ích và khát vọng của Trung Quốc. Dưới thời Đặng Tiều Bình (người được coi như cha đẻ của cải cách kinh tế Trung Quốc và mở rộng dự án) đã khởi xướng những đề xuất về khai thác tài nguyên dầu và khí đốt dưới Biển. Đến nay sau ba thập kỷ kể từ những khởi xướng của Đặng Tiểu Bình, các vấn đề về năng lượng và khoáng sản thô vẫn đóng vai trò thiết yếu cho phát triển các dự án quốc gia của Trung Quốc.
Động cơ nhằm phòng ngừa bao vây siêu cường cũng đã tác động đến chiến lược của Trung Quốc. Vào cuối những năm 1970, Đặng Tiểu Bình đã cho rằng Liên Xô đang theo đuổi chiến lược "quả tạ" nhằm mục đích xây dựng hải quân Liên Xô thành lực lượng thống trị ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương và eo biển Malacca sẽ là kết nối hai khu vực. Để nối hai khu vực lại với nhau ,Moscow đã thương lượng với Việt Nam để có những quyền cơ bản tại Vịnh Cam Ranh và Đà Nẵng. Do đó Bắc Kinh cho rằng họ cần phải ngăn chặn một liên minh Xô-Việt. Và quân đội Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công qua biên giới trên diện rộng vào lãnh thổ Việt Nam trong năm 1979 nhằm làm mất uy tín Moscow trong vai trò người bảo hộ của Hà Nội.
Bắc Kinh có thể nhìn nhận chiến lược hàng hải của Mỹ năm 2007 (bao gồm báo cáo về việc các lực lượng làm nhiệm vụ trên biển đánh giá môi trường chiến lược, đồng thời dự định kiểm soát nó như thế nào của các lực lượng Hải quân Mỹ, Thủy quân lục chiến và Tuần duyên) như đẩy lùi chiến lược “quả tạ” của Moscow, và điều này được xem như là sự duy trì và mở rộng ưu thế của Mỹ tại Tây Thái Bình Dương và phấn lớn Ấn Độ Dương.
Chúng ta cũng không nên bỏ qua danh dự như một động lực cổ súy những hành động của Bắc Kinh. Việc bù đắp danh dự lòng tự tôn của Trung Quốc sau một "thế kỷ tủi nhục" dưới bàn tay của những kẻ chinh phục bằng đường biển là một động lực chính cho hành động của Trung Quốc vào năm 1974 năm 1979. Nó vẫn duy trì như vậy tới tận ngày nay. Các vùng biển Trung Quốc cấu thành một phần của những gìTrung Quốc coi vùng ngoại vi lịch sử của đất nước họ. Trung Quốc phải khiến mình trở nên ưu việt trong những vùng biển rộng lớn này.
Sự kỳ vọng trong dân chúng Trung Quốc là rất lớn. Việc thường xuyên coi những yêu sách lãnh thổ trên biển của họ là một vấn đề chủ quyền không thể bàn cãi đang đánh cược chính bản thân họ và danh tiếng của đất nước trong việc giành quyền kiểm soát các vùng biển rộng lớn đang tranh chấp, kích động tình cảm trong dân chúng về tầm nhìn vĩ đại hướng ra biển, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ quay trở lại những yêu sách khi họ ở tình thế nguy hiểm. Họ sẽ phải đưa ra – cách này hay cách khác.
Và họ có phương tiện để làm như vậy. Trung Quốc ưu thế vượt trội về quân sự và hải quân so với bất kỳ đối thủ Đông Nam Á riêng lẻ nào. Philippines có lực lượng không quân rất yếu kém, trong khi chiến hạm mạnh nhất của nước này là một tàu tuần duyên cũ của Mỹ. Ngược lại, Việt Nam có chung biên giới với Trung Quốc và một đội quân hùng hậu. Năm ngoái, Hà Nội thông báo kế hoạch tăng cường sức mạnh hải quân của mình bằng việc mua sáu tàu ngầm diesel lớp Kilo của Nga được trang bị ngư lôi lần theo vệt nước của tàu và và tên lửa hành trình chống tàu. Một đội tàu Kilo sẽ đem lại cho hải quân Việt Nam phương án "chống xâm nhập trên biển" hiệu quả. Tuy nhiên, Nga vẫn chưa chuyển giao các tàu ngầm, điều này đồng nghĩa với việc Hà Nội chỉ kháng cự yếu ớt trước bất kỳ cuộc tấn công hải quân nào của Trung Quốc. Điều đó tăng thêm lý do cho Trung Quốc chốt lại lợi ích của mình vào lúc này, trước khi các đối thủ Đông Nam Á bắt đầu phản kháng một cách hiệu quả.
Như vậy, thời cơ vẫn còn đối với Bắc Kinh – tính tới lúc này. Phương thức ngoại giao của Trung Quốc gần đây đã ngăn cản những nỗ lực đoàn kết ASEAN đằng sau “bộ quy tắc ứng xử” ở Biển Đông. Washington đã thông báo kế hoạch “tái cân bằng” lực lượng Hải quân Mỹ, điều chuyển khoảng 60% hạm đội tới khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nhưng tái cân bằng là hoạt động ở mức độ vừa phải. Hơn một nửa lực lượng Hải quân Mỹ đã hiện diện ở khu vực này, và việc tái cân bằng sẽ diễn ra với tốc độ chậm, kéo dài tới tận 8 năm nữa.
Bốn tàu chiến ven biển của Mỹ cũng chưa đến Singapore (chiếc đầu tiên dự kiến đến đây vào mùa xuân năm tới). Những tàu chiến này không phải để giao tranh với lực lượng tàu chiến của Hải quân Trung Quốc. Với việc hình thành nguyên tắc mà ở đó phần lớn lực lượng Hải quân Hoa Kỳ sẽ hiện diện thường trực ở khu vực Thái Bình Dương và Châu Á, Washington có thể đẩy nhanh quá trình tái cân bằng, điều chuyển thêm lực lượng, và thậm chí đàm phán về quyền tiếp cận căn cứ ở trong hay xung quanh khu vực Đông Nam Á. Bắc Kinh cũng nhận thấy điều này.
Bắc Kinh có thể đã kết luận rằng phương thức ngoại giao kiên trì sẽ làm lỡ thời cơ của nước này ở Biển Đông. Theo nhận định của Trung Quốc, đây là thời điểm cần phải hành động – và chiếm ưu thế trong cuộc cạnh tranh. Bài học năm 1974: Thời gian là yếu tố đóng vai trò quyết định.
Tác giả: PGS. Jim Holmes, Trường Hải chiến Hoa Kỳ, bài đăng trên Foreign Policy (ngày 26/7)
Vũ Hiền (gt)


http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/2761-thoi-co-quan-su-trung-quoc

Thứ Năm, 26 tháng 7, 2012

Những trận đánh khiến người phương Bắc kinh hồn bạt vía

(VTC News) - Đất nước Việt Nam nhỏ bé mà anh hùng. Trải ngàn năm Bắc thuộc mà không quỳ gối. Những quốc gia hùng mạnh nhất thế giới cũng bị đánh đuổi. Người Việt Nam hiền hậu, nhưng hàng ngàn năm qua chẳng mấy khi được yên bình.

VTC News xin giới thiệu loạt bài viết của Nhà sử học Đặng Hùng, để chúng ta thêm tự hào về tổ tiên anh dũng của mình.

Bài 1: Nhà Tống muối mặt vì thất bại ê chề

Từ khi có lịch sử dân tộc, mở đầu bằng quốc gia Văn Lang, dân tộc ta đã kiên cường, bền bỉ chinh phục thiên nhiên, khai phá đất hoang, quai đê lấn biển và chống sự xâm lược của ngoại bang để tiếp tục sống và phát triển, bảo vệ quê hương đất nước.

Vua Lê Thánh Tông xưa đã từng căn dặn quần thần: “Một thước núi, một tấc sông của ta không nên vất bỏ... Nếu ngươi dám lấy một thước, một tấc đất của Thái Tổ (Vua Lê Lợi) mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di...” (ĐVSKTT-T2-NXBVHTT-Tr.344).

Thông qua những trang ghi chép của thư tịch cổ, chúng ta có quyền tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, xử lý khôn khéo, lúc cương lúc nhu trong chính sách đối ngoại của tổ tiên xưa.

Những trận đánh khiến người phương Bắc kinh hồn bạt vía
Tượng Lý Thường Kiệt trong Đại Nam Quốc Tự. 

Mỗi khi đất nước có họa xâm lăng thì nhân dân ta lại đoàn kết một lòng với tinh thần “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” và “Không có gì quý hơn độc lập tự do” (Hồ Chí Minh).

Tên tuổi của các vị vua, các vương triều, các danh tướng gắn liền với các trận đánh lịch sử oai hùng, với các địa danh: Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa... đã khiến cho quân xâm lược tháo chạy về tới cố quốc mà còn tim đập chân run, nghe tiếng trống đồng mà lòng khiếp sợ đến bạc tóc trên đầu.

Vua Quang Trung Nguyễn Huệ biểu dụ tướng sĩ trước khi ra Bắc đánh đuổi 20 vạn quân nhà Thanh vào năm 1788 – 1789: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng/ Đánh cho chúng chích luân bất phản/ Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn/ Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”.

Đưa quân sang phương Bắc tập kích kẻ xâm lược

Năm Kỷ Dậu (1009), Vương Triều Lý do Vua Lý Công Uẩn lãnh đạo đã thay nhà tiền Lê mở đầu kỷ nguyên mới của Quốc gia Đại Việt, đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của nước ta với việc dời đô từ Hoa Lư về kinh thành Thăng Long (1010).

Thời kỳ đó nhà Tống đã làm chủ Trung Quốc, nhưng luôn bị các nước nhỏ là Liêu, Hạ xâm lấn. Vua quan nhà Tống chủ trương đánh nước ta ở phía Nam để gây thanh thế và sức mạnh, khiến có thể quay lại đánh thắng Liêu, Hạ ở phía Bắc sau này.

Nhà Tống mua chuộc chia rẽ các dân tộc miền núi với nhân dân miền xuôi, cắt quan hệ buôn bán với Đại Việt, cho người đóng thuyền, tích trữ lương thực, luyện tập thủy quân, gây rối biên giới, lôi kéo Chiêm Thành nhằm uy hiếp và tấn công xâm chiếm nước ta.

Những trận đánh khiến người phương Bắc kinh hồn bạt vía
Ngôi mộ ở Hưng Yên nghi của Lý Thường Kiệt. Ảnh: Phạm Ngọc Dương. 

Các châu Ung – Khâm – Liêm (thuộc Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) trở thành căn cứ quan trọng, nơi tập trung quân đội, lương thực, khí giới của quân Tống chuẩn bị cho cuộc tấn công Đại Việt vào năm 1075.

Trước âm mưu và hành động xâm lược ngày càng rõ rệt của giặc Tống, Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt chủ trương: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước chặn thế mạnh của giặc...”. Triều đình nhà Lý đồng ý với chủ trương triệt phá âm mưu xâm lược của nhà Tống ngay khi còn trong “trứng nước”. Vua Lý Nhân Tông “sai Lý Thường Kiệt và tướng Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh; đường thuỷ, đường bộ đều tiến” (ĐVSKTT-Tr.328).

Trước tiên Lý Thường Kiệt vạch ra kế hoạch dùng 4 vạn quân (phần lớn là thổ binh tấn công giặc ở biên giới, nhằm thu hút lực lượng địch). Sau đó cho 6 vạn quân vượt biển, bất ngờ đổ bộ đánh chiếm các cảng Khâm (Khâm Châu), Liêm (Hợp Phố) rồi sau đó tiến về thành Ung Châu (Nam Ninh) hợp với đạo quân từ biên giới theo hướng huyện Vĩnh Bình đánh sang.

Ngày 15/9 (20/6/1075) suốt dọc biên giới từ Quảng Yên (Cao Bằng) tới Vĩnh An (Móng Cái) quân ta bất ngờ tấn công phá hủy tất cả đồn trại và tiêu diệt nhiều binh lính, tướng lĩnh địch. Bị đánh đòn sấm sét phủ đầu, quân Tống không kịp đối phó, phần thì bị quân ta tiêu diệt, phần thì buông vũ khí đầu hàng hoặc bỏ chạy.

Ngày 20/10 (30/12/1075) đại quân ta đổ bộ lên Cảng Khâm (cánh quân thủy), địch lại hoàn toàn bị bất ngờ, nhanh chóng bị tiêu diệt hoàn toàn. 4 ngày sau một cánh quân khác của ta đổ bộ bất ngờ vào cảng Liêm, hạ luôn thành này. Từ Châu Liêm một bộ phận quân ta tiến về phía thành Ung Châu nhằm ngăn chặn và tiêu diệt viện binh giặc từ phía Đông và phía Bắc kéo tới.

Trên hai hướng, 10 vạn quân Đại Việt tiến sâu vào đất Tống với mục tiêu chính là triệt phá căn cứ thành Ung Châu với danh nghĩa chỉ đánh quân Tống để giữ nước và đồng thời nhân đó giúp đỡ những người dân nghèo khổ (nhân dân Tống) bị triều đình nhà Tống bóc lột, nên quân đội Đại Việt đã tranh thủ được sự cảm tình và ủng hộ của nhân dân nước Tống ở các thành trên.

Ngày 10 tháng Chạp (18/1/1076), đại quân ta vây chặt thành Ung Châu. Đoán chắc địch có thể từ phía Bắc cứu viện thành Ung Châu, trong lúc đang vây thành, Lý Thường Kiệt đã bí mật phái một đạo quân tiến lên phía Côn Lôn Quan (cách Ung Châu khoảng 40km về phía Bắc – nay là phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Đông) để chặn địch từ Quế Lâm kéo xuống.

Đúng như dự đoán, Đô giám Quảng Tây (Nhà Tống) là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu, bị quân đội Đại Việt phục kích, bất ngờ tấn công, chém Thủ Tiết chết tại trận, khiến quân giặc hoảng sợ tháo chạy tán loạn.

Ngày 4 tháng Giêng (sau 42 ngày vây hãm giặc – quân ta dùng bao đất chồng lên cao ngang mặt thành – do đó đã tiến quân được vào thành và hạ thành Ung Châu, tiêu diệt và bắt sống nhiều quân địch).

Sau khi đã phá tan căn cứ hậu cần quan trọng của giặc, làm phá sản kế hoạch đánh úp nước ta của nhà Tống, Lý Thường Kiệt chủ trương rút quân về nước để củng cố các cứ điểm quan trọng, chuẩn bị chống quân Tống xâm lược sau này.

Đập tan đội quân xâm lược nhà Tống trên đất Đại Việt

“Bính Thìn, năm thứ 5 (1076) – Tống Hy Ninh năm thứ 9) mùa Xuân, tháng 3, nhà Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu Thảo Sứ, Triệu Tiết làm phó tướng, đem quân và 9 tướng hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đón đánh. Đến sông Như Nguyệt đánh tan địch. Quân Tống bị chết hơn 1000 người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta”.

“Tân Dậu năm thứ 6 (1081) – Tống Nguyên Phong năm thứ 4 – trả lại cho nhà Tống những binh lính bắt được ở 3 châu Ung - Khâm - Liêm vì cớ nhà Tống trả lại ta các châu Quảng Nguyên” (ĐVSKTT – Tr.333).

Tháng 10/1076, Quách Quỳ được vua Tống cử làm thống soái chỉ huy 10 vạn quân chiến đấu và 20 vạn quân tải lương tấn công Đại Việt. Đại quân tiến theo hướng Lạng Sơn rồi vào thành Thăng Long. Thủy quân sẽ dọc theo ven biển vào sông Bạch Đằng, tạo thế gọng kìm để tấn công Đại Việt. Sau khi đánh tan các đạo quân thủy bộ của ta, chúng sẽ hội quân, dùng thuyền vượt sông Hồng đánh chiếm Thăng Long.

Sau chiến thắng Ung Châu quân ta đã rút về nước. Biết trước quân Tống sẽ sang xâm lược, triều đình nhà Lý đã chủ động tích cực chuẩn bị đối phó với quân Tống.

Những trận đánh khiến người phương Bắc kinh hồn bạt vía
Tranh Lý Thường Kiệt. 

Ở khu vực sát biên giới, thổ binh, hương binh bố trí ở các nơi hiểm yếu để sẵn sàng tiêu hao, ngăn chặn địch. Quân đội triều đình do phò mã Thân Cảnh Phúc chỉ huy phục kích ở ải Quyết Lý và giáp khẩu (Châu Ôn và Chi Lăng). Ven biển có thủy quân đóng ở căn cứ Vân Đồn (thuộc Quảng Yên) phối hợp với quân bộ đóng ở Ngọc Sơn (Móng Cái) có nhiệm vụ ngăn chặn địch trên vùng biển Đông Kênh (Quảng Ninh).

Chiến tuyến chính của ta là ở trung du, dựa vào bờ nam sông Như Nguyệt đắp đê cao, rào cọc tre, phên dậu ken dày chạy dài từ sườn Đông Bắc dãy Tam Đảo đến sườn Tây Nam dãy núi Nham Điền (Yên Dũng – Hà Bắc), khoảng 100km. Dưới sông, thủy quân ta tập trung trên 400 chiến thuyền đóng tại vùng Vạn Xuân (Phả Lại) sẵn sàng cơ động đánh địch ở các hướng.

Cuối tháng 11/1076, quân Tống đánh chiếm Quảng Yên. Ngày 1 tháng Chạp (1077) đại quân Tống chia làm nhiều đường tấn công Lạng Sơn. Quân Tống chiếm được các châu Ôn, Quyết Lý, Quang Lang, rồi theo đường tắt vượt qua dãy Bắc Sơn tiến đến sông Phú Lương (sông Cầu thuộc địa phận Thái Nguyên ngày nay).

Một cánh quân địch tấn công lực lượng của phò mã Thân Cảnh Phúc. Quân ta phân tán vào rừng núi, dùng lối đánh tỉa, đánh úp, phục kích tấn công vào các đoàn tải lương của địch. Ngày 21 tháng Chạp (18/1/1077) quân Tống do Quách Quỳ và Miêu Lý chỉ huy đóng ở trên đoạn bến sông Như Nguyệt và ở Thị Cầu.

Trên biển, thủy quân ta phục kích chặn đánh tiêu diệt và đẩy lui thủy quân Tống. Chờ mãi không thấy thủy quân đến, Quách Quỳ cho đóng thuyền bè chở quân vượt sông Như Nguyệt tấn công chiến tuyến phòng thủ của ta.

Bị thất bại nhiều lần, Quách Quỳ phải rút quân cố thủ ở bờ Bắc sông Như Nguyệt và hạ lệnh: “Ai bàn đánh sẽ bị chém”.

Quân địch bị tấn công cả ở phía trước và phía sau, lương thực bị thiếu trầm trọng, lòng quân hoang mang dao động. Nằm chắc thời cơ Lý Thường Kiệt chủ động cho quân chủ lực bộ binh và thủy binh phản công giặc.

Tục truyền rằng, vào một đêm quân sĩ ta chợt nghe ở trong đền thờ Trương tướng quân (Trương Hống, Trương Hát) có tiếng ngâm to rằng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. (Tạm dịch: Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Cõi bờ ngăn cách tự sách trời/ Cớ chi quân giặc sang xâm lấn?/ Thất bại bay xem sẽ đến nơi” (ĐVSKTT-Tr.330).

Trên đoạn từ Đông Nham Điền đến Tây Vạn Xuân, hoàng tử Hoằng Chân chỉ huy 400 chiến thuyền và hàng vạn quân đánh sâu vào nơi đóng quân của địch. Nhân lúc địch tập trung đối phó ở cánh phải, Lý Thường Kiệt chỉ huy đại quân vượt sông Phú Lương tấn công giặc ở cánh trái.

Theo “Việt Sử Lược” trong trận này địch 10 phần bị tiêu diệt đến 5,6. Quân địch bị đẩy vào thế cố thủ, trước mặt, sau lưng đều bị quân dân Đại Việt tấn công. Lương thảo của giặc ngày càng cạn kiệt. Nắm rõ tình hình bất lợi của giặc, Lý Thường Kiệt chủ động cho người sang gặp Quách Quỳ bàn hòa với điều kiện: “Toàn bộ quân Tống phải rút khỏi đất nước Đại Việt”.

Không còn con đường nào khác, như người sắp chết đuối vớ được cọc, Quách Quỳ vội chấp nhận điều kiện trên và y không chờ lệnh của vua Tống mà lập tức rút ngay quân đội về nước. Tháng 2/1077, 23.400 quân chiến đấu và 3.174 ngựa chiến của Quách Quỳ về tới đất Tống.

Trong hơn 2 tháng chiến đấu anh dũng, quân dân Đại Việt đã tiêu diệt trên 19 vạn quân chiến đấu và quân tải lương, với gần 6.000 ngựa chiến của quân Tống. Toàn bộ lãnh thổ của nhà nước Đại Việt đã sạch bóng quân xâm lược.

Sau chiến thắng, với chính sách ngoại giao khôn khéo của vương triều Lý, triều đình nhà Tống phải công nhận Đại Việt là Quốc gia riêng biệt có chủ quyền, chứ không phải là một quận của nước Tống. Vua Lý là một quốc vương chứ không phải là “Giao Chỉ Quận Vương” như các đời vua Tống trước đây thường “phong”. 

http://vtc.vn/394-341879/phong-su-kham-pha/nhung-tran-danh-khien-nguoi-phuong-bac-kinh-hon-bat-via.htm

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

(VTC News) - Quân sĩ hừng hực dũng khí. Không một người lính nào không thấy vinh dự khi được hy sinh cứu nước. Các chiến sỹ và nhiều người dân đã tự chích vào tay hai chữ Sát Thát (Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm của mình.



Bài 2: Ba lần đánh bại Nguyên Mông

Tháng Chạp năm Ất Dậu (1225) Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, chấm dứt giai đoạn nhà Lý cai trị Đại Việt và cũng là thời kỳ mở đầu của vương triều Trần ở nước ta. Trần Cảnh lên làm vua (Trần Thái Tông), phong cho Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc thành quân Chinh Thảo Sự.

Sau khi thay thế nhà Lý (ở giai đoạn này đã quá suy yếu về chính trị, quân sự, kinh tế) - Triều đình nhà Trần tích cực đẩy mạnh việc phát triển kinh tế nông nghiệp, quai đê lấn biển, tiêu diệt các thế lực chống đối, ổn định tình hình chính trị trong nước, chính quyền trung ương tập quyền được củng cố vững chắc hơn so với triều trước.

Ở đất nước Mông Cổ, năm 1206 Thành Cát Tư Hãn lên làm vua. Nhà nước phong kiến Mông Cổ được hình thành và phát triển, nhanh chóng trở thành một đế quốc lớn mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới từ trước đến giờ. Quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn đã xâm lược rất nhiều nước Châu Âu và Châu Á.

Ở Châu Âu vó ngựa Mông Cổ đã tiến đến Ba Lan và Đức, Hungari và tới sát Ý vào năm 1242, khiến cả Châu Âu chấn động.

“Theo sử biên niên của nước Pháp thì mối lo sợ trước quân Mông Cổ đã làm đình trệ cả sự buôn bán”. Ở Đức xuất hiện bài kinh cầu nguyện “Chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ của Tác-ta – Mông Cổ”.

Ở phía Nam quân Mông Cổ chiếm Trung Quốc, Cao Ly, tấn công Nhật Bản... Một đế quốc Mông Cổ rộng mênh mông được tạo lập từ bờ biển Hắc Hải đến tận Thái Bình Dương.

Quân đội Mông Cổ với lực lượng kỵ binh thiện chiến đánh đâu thắng đấy! Nhưng cả ba lần xâm lược Đại Việt, với 1 triệu quân, thì bị đánh cho đại bại. Chủ tướng Thoát Hoan phải chui vào ống đồng để quân lính “kéo” về Vân Nam. Toa Đô, dũng tướng khét tiếng của Mông Cổ bị rơi đầu. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bị bắt, trở thành vật tế sống ở mộ các vua Trần...

Lịch sử dân tộc đã ghi những chiến công oanh liệt của quân nhân thời Trần vào thế kỉ thứ 13. Đúng như lời thơ hào sảng của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải sau chiến thắng chống Nguyên Mông: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử giết quân thù/ Thái Bình nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”.

“Đầu tôi chưa rơi xuống đất xin bệ hạ đừng lo”

Năm 1257, chúa Mông Cổ là Mông Kha tế cờ trên bờ sông Kê-Ru-Len rồi xuất quân đánh nhà Tống (Trung Quốc).

Nguyên sử (Trung Quốc) quyển 209 - phần An Nam truyện chép rằng: “Ngột Lương Hợp Đài (Hốt Tất Liệt chiếm được nước Đại Lý để Ngột Lương Hợp Đài ở lại toan đến đánh chiếm Giao Chỉ), đóng binh ở phía Bắc Giao Chỉ, sai hai sứ giả sang trước để dụ” (SĐD –Tr.467). “Vua Trần Thái Tông không những không chịu đầu hàng mà cho bắt giam sứ Mông Cổ” (VNSL-Tr.120).

Tháng 12, ngày 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài xâm lấn Bình Lệ. Sách Nguyên sử - Q.209 chép: “Thấy sứ giả không trở về Ngột Lương Hợp Đài bèn sai bọn Triệt Triệt Đô đem 1000 người chia đường mà tiến đến trên sông Thao ở Kinh Bắc nước An Nam. Lại sai con là A Truật sang giúp và nhòm ngó tình hình. Người Giao (Chỉ) cũng bày nhiều binh vệ. A Truật trở về báo Ngột Lương Hợp Đài để tiến gấp. Sai Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật đi sau. Tháng 12, hai quân hợp nhau” (SĐD-Tr.468).

Trận đánh kinh động cả thế giới của người Việt
Đền thờ nhà Trần ở Thái Bình. 

Khi quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Đài tấn công Bình Lệ, vua Trần Thái Tông tự làm tướng đốc chiến đi trước xông pha tên đạn. Tướng Lê Phụ Trần một mình một ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt như thường.

Thế giặc mạnh, quân ta lui về giữ ở sông Lô. Giặc bắn tên như mưa xuống thuyền của vua, tướng Lê Phụ Trần liền lấy ván thuyền để chắn tên cho vua. Trước sự hung hãn và mạnh mẽ của quân giặc, vua Trần dời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ. Thái sư trả lời: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì cả” (ĐVSKTT-Tr.470).

Để tránh sức mạnh ban đầu của giặc, quân ta chỉ để lại một bộ phận chặn giặc và làm nghi binh, còn đại quân được lệnh rút về Hưng Yên, Thiên Trường, Long Hưng...

Kinh thành bỏ trống, nhân dân trong thành Thăng Long được lệnh làm theo kế “Thanh Giã” (vườn không nhà trống). Quân Mông Cổ tiến vào thành Thăng Long mới phát hiện cả thành trống rỗng, Ngột Lương Hợp Đài tức giận cho quân cướp bóc, tàn phá kinh thành, giết cả những nam phụ lão ấu trong thành do không sơ tán kịp.

Lương thực của quân giặc mang theo đã cạn, kinh thành lại trống không, kẻ địch đã cố gắng tiến hành những cuộc cướp phá ở những vùng xung quanh thành Thăng Long, nhưng đến đâu chúng cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân.

Khi quân Mông Cổ tiến đến Cổ Sở (nay là Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội) nhân dân ở đây đã đoàn kết chiến đấu, đánh cho chúng một trận tơi bời, xác giặc ngổn ngang, ngựa chúng sập hầm, trúng chông què, lũ cướp nước tan tác bỏ chạy. Không có lương thảo, binh sĩ mỏi mệt, lại thêm khí hậu khắc nghiệt, quân xâm lược Mông Cổ lâm vào tình thế tiến lui đều gặp khó khăn.

Nắm chắc thời cơ thuận lợi, ngày 24, tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ 7 (29/01/1258), vua Trần Thái Tông cùng thái tử Hoảng chỉ huy lâu thuyền ngược dòng Thiên Mạc phá tan giặc ở Đông Bộ Đầu, chiếm lại kinh thành.

Bị đánh bật khỏi thành Thăng Long, quân Mông Cổ quay đầu rút chạy về Vân Nam. Đang lúc chỉ mong thoát thân thì chúng lại bị đồng bào dân tộc vùng núi ở trại Quy Hóa theo trại chủ là Hà Bổng đổ ra tập kích. Bị đánh bất ngờ, quân giặc bỏ chạy tháo thân và bị thiệt hại nặng nề về người, vũ khí, quân trang.

Trận đánh kinh động cả thế giới của người Việt
Tượng Trần Hưng Đạo. 

Khác hẳn với thái độ nghênh ngang hung hãn khi tiến quân vượt biên giới vào Đại Việt, bọn xâm lược Mông Cổ bị đánh cho tan tác, mạnh ai nấy chạy, lén lút tìm đường vượt biên giới trốn chạy cho nhanh. Chúng không còn dám nghĩ đến chuyện cướp bóc, đốt phá, tranh giành của cải như khi mới sang.

Để chế giễu thái độ đó của chúng, người thời bấy giờ đã gọi chúng bằng cái tên rất mỉa mai là “Giặc Phật”. Cuối tháng Giêng (1258), địch hoàn toàn rút khỏi nước ta.

Thắng lợi của quân dân Đại Việt trong chiến tranh lần thứ nhất chống Mông Nguyên, không những đã bảo vệ được nền độc lập dân tộc mà còn bẻ gãy một gọng kìm của quân Mông Cổ định chiếm xong nước ta thì tấn công vào miền Nam Trung Quốc tiêu diệt triều đình nhà Nam Tống.

Cuộc chiến đấu và chiến thắng năm Nguyên Phong thứ 7 do vua Trần Thái Tông và tướng quốc Trần Thủ Độ chỉ huy mãi mãi là niềm tự hào được ghi trên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng.

Vua Trần Nhân Tông sau này trong bài thơ “Ngày Xuân yết bái Chiêu Lăng” đã viết: “Bạch đầu quân sĩ tại .... Vãng vãng thuyết nguyên phong...” (Người lính già đầu bạc ... Kể mãi chuyện nguyên phong).

“Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm tử bắt quân thù”

Sau khi đánh đổ nhà Nam Tống (1279) chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, quân Mông Cổ ngày càng trở nên hùng mạnh. Hốt Tất Liệt đổi quốc hiệu là Đại Nguyên, chuẩn bị những cuộc viễn chinh mới để thực hiện mưu đồ thống trị thế giới.

Ở phía Đông chúng chuẩn bị đánh Nhật Bản, phía Nam âm mưu chiếm các nước Đông Nam Châu Á rồi tiến đánh Ấn Độ...

Mục tiêu đầu tiên để tràn xuống Đông Nam Á của quân Nguyên là phải san bằng được Đại Việt. Hốt Tất Liệt huy động một đội quân tinh nhuệ, đông tới 60 vạn người do con trai của y là Trấn Nam Vương Thoát Hoan chỉ huy. Bên cạnh Thoát Hoan còn có hàng chục viên tướng nổi tiếng khác đó là A-Rích-Kha-A, Ô Mã Nhi, Lý Hằng, Lý Quan, Toa Đô...

Trận đánh kinh động cả thế giới của người Việt
Lăng mộ một vị vua Trần ở Quảng Ninh. 

Năm 1282 Hốt Tất Liệt cử Toa Đô dẫn 10 vạn quân tấn công Chiêm Thành, sau đó Thoát Hoan đem quân tấn công nước Đại Việt ở phía Bắc, tạo thế gọng kìm kẹp quân ta vào giữa hai đạo quân Mông Cổ để tiêu diệt.

Sau chiến thắng năm 1258, nhà Trần chủ trương vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết duy trì quan hệ ngoại giao với nhà Nguyên. Nhưng mặt khác vẫn chủ động tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu xâm lược lần thứ hai của giặc.

Năm 1282 nhà Trần không đồng ý cho quân Nguyên mượn đường sang đánh Chiêm Thành, vì biết đây là kế “Giả đò diệt quắc” của giặc. Trái lại quân ta còn tích cực ủng hộ Chiêm Thành chống quân Nguyên xâm lược.

Trước âm mưu xâm lược của Nhà Nguyên ngày càng lộ rõ, tháng 10 (1282) vua Trần tổ chức hội nghị Bình Than cùng triều đình và các vương hầu bàn kế chống giặc.

Vị tướng tài Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn quân. Hội nghị vương hầu bách quan ở Bình Than có mục đích “bàn kế đánh phòng” và “chia quân giữ nơi hiểm yếu”.

Trần Quốc Toản tuy tuổi còn nhỏ, không được dự họp đã bóp nát quả cam cầm trong tay mà không biết. Sau đó Quốc Toản trở về lập một đội quân hơn nghìn người, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền chờ ngày giết giặc cứu nước. Trên lá cờ của người thiếu niên anh dũng đó có 6 chữ: “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).

Tháng 8, năm Giáp Thân (1284) quân ta hội quân tại bến Đông Bộ Đầu tổng cộng có trên 20 vạn quân duyệt binh, sau đó các tướng Trần Bình Trọng, Trần Khánh Dư, Trần Quang Khải... được lệnh đem quân trấn giữ các vùng xung yếu trong nước để đề phòng quân Nguyên tràn sang.

Sau đó vua Trần cho triệu tập hội nghị Diên Hồng lịch sử, nhằm động viên sự nhất trí chống giặc trong nhân dân. Yến tiệc được mở ra tại thềm điện Diên Hồng, Vua hỏi các bô lão: “Thế giặc mạnh, chúng ta nên hòa hay nên đánh?”. Trả lời cho câu hỏi của vua Trần là tiếng hô vang của hàng vạn phụ lão “Đánh, Đánh”, “vạn người cùng nói như từ một miệng” (Toàn thư).

Tiếng hô “Đánh” của các phụ lão ở điện Diên Hồng biểu lộ tinh thần quyết chiến của toàn dân Đại Việt. Đúng như người xưa nói: “Người chèo thuyền là dân, người lật thuyền cũng là dân” (Sức dân mạnh như sóng biển). Những bậc phụ lão, những đại biểu có uy tín của nhân dân đã nói lên tiếng nói của cả dân tộc.

Hội nghị Diên Hồng là một cuộc họp mặt đại biểu rộng khắp của toàn dân - độc nhất vô nhị trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các bô lão đã mang tới cho vua Trần và triều đình câu trả lời quyết chiến của nhân dân ở các lộ trong cả nước, và cũng mang từ Thăng Long về mọi miền quê cái không khí quyết tâm chống giặc giữ nước của hội nghị Diên Hồng và quyết tâm của Triều đình.

Nhà sử học Ngô Sỹ Liên sau này nhận xét: “Đó là Thánh Tông (chỉ vua Trần) muốn xem sự ái hộ thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích phát lên” (Toàn thư –Q.5-Tr.44b). Với lòng yêu nước nồng nàn, ở khắp các lộ (thời Trần chia nước làm các phủ - lộ) trong nước có những bảng treo dòng chữ: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” (Theo sách Nguyên sử của Trung Quốc – Q.209-Tr.7).

Trong không khí: “Quyết tử cho Tổ quốc quốc sinh” ấy thì lời hịch của Trần Quốc Tuấn kích động lòng dân và quân háo hức quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của mình: “...Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức, nghe nhạc Thái thường đãi yến Ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển... hoặc quyến luyến vợ con, hoặc lo làm giàu mà quên việc nước... nếu có giặc Mông Thát tràn sang... tiền của dẫu nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù... lúc bấy giờ chủ tôi nhà ta cùng bị bắt đau xót biết chừng nào; chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng về tay kẻ khác, chẳng những gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị bắt đi, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu... Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không?

....Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất phủ này nữa. Vậy ta viết bài hịch này để các ngươi biết rõ lòng ta”.

Bài hịch đã xoáy vào những nỗi uất ức căm thù của tướng sĩ trong bao nhiêu năm, mà phấn kích tinh thần chiến đấu của họ. Quân sĩ hừng hực dũng khí. Không một người lính nào không thấy vinh dự khi được hy sinh cứu nước. Các chiến sỹ và nhiều người dân đã tự chích vào tay hai chữ Sát Thát (Giết giặc Mông Cổ) để nói lên quyết tâm của mình.

Cuối năm 1284 Thoát Hoan tiến quân vào nước ta, giặc chia quân làm 2 mũi đánh vào Tuyên Quang và Lạng Sơn. Quân ta chủ động chặn giặc ở Lạng Sơn rồi lui vào khu vực ở Lạng Giang và Vạn Kiếp.

Thoát Hoan liền chia quân làm ba mũi ý dịnh vây chặt quân ta để tiêu diệt. Với thế mạnh như chẻ tre, quân giặc tưởng chừng như đè bẹp ngay được quân dân Đại Việt, nhưng với thiên tài quân sự của mình, Trần Quốc Tuấn đã nhận định: “Nguyên binh khí nhuệ đang hưng, kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”.

Sau đó quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng theo 2 hướng Thăng Long – Thiên Trường và một bộ phận rút về hướng Quảng Yên để giặc lầm tưởng vua quan triều Trần chạy ra biển.

Ngày 13 tháng Giêng (19/2/1285), quân Nguyên tiến vào kinh thành Thăng Long đã bị bỏ trống. Toa Đô lúc này được lệnh đem quân từ Chiêm Thành tiến ra, Thoát Hoan cho Ô Mã Nhi dẫn quân đi đường biển để tiếp ứng cho Toa Đô đánh từ phía Nam đánh ra.

Tướng Trần Quang Khải của ta dùng lối đánh chặn từng bước, đã chặn đứng được quân Toa Đô ở giáp giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An, ngăn không cho chúng ra Bắc.

Tháng 2 (1285) địch cho quân tiến xuống Hưng Yên, Hà Nam, Thiên Trường, truy kích đại quân của vua Trần. Tại bãi Đà Mạc (Hưng Yên) tướng Trần Bình Trọng được lệnh chặn quân truy đuổi của giặc để vua và Đại quân di chuyển về Thiên Trường, Thanh Hóa.

Khi đại quân Nguyên tới, Trần Bình Trọng tả xung hữu đột chiến đấu, nhưng vì địch đông ta ít nên cuối cùng ông bị sa vào tay giặc. Thoát Hoan muốn dụ hàng nên hỏi ông rằng: “Có muốn làm vương đất Bắc không?” Trần Bình Trọng quát lên: “Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”....

Thoát Hoan thấy không dụ được ông liền sai quân đem chém. Vua, quan, quân triều đình nhà Trần nghe tin Trần Bình Trọng tử tiết ai cũng tỏ lòng thương xót.

Đi đôi với kế “Vườn không nhà trống”, khắp nơi dân binh kết hợp với quân lính nhà Trần tổ chức đánh úp, đánh tỉa, đánh phục kích các toán quân địch đi sục sạo cướp bóc lương thảo.

Do chủ quan tưởng có thể thắng nhanh, quân Nguyên không tải theo nhiều lương thực vì thế bị thiếu ăn, lòng quân ngày càng hoang mang dao động. Hai mũi quân giặc do Thoát Hoan và Toa Đô chỉ huy lại không kết hợp được với nhau.

Để gỡ thế bí, Thoát Hoan thúc giục Toa Đô nhanh chóng tiến ra Bắc để hội quân với y cho có thêm sức mạnh tiếp tục tấn công Đại Việt. Nắm được ý đồ của giặc, thấy thời cơ đã đến. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn quyết định nhằm đạo quân Toa Đô để đánh trận phủ đầu tiêu diệt địch.

Đạo quân Toa Đô đánh nhau với Trần Quang Khải ở Thanh Hóa và Nghệ An mãi không thắng được, lương thực ngày một kiệt quệ. Nhận lệnh của Thoát Hoan phải ra Bắc hội quân nên y cùng Ô Mã Nhi xuống thuyền vượt biển để ra Thăng Long.

Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chủ trương không để cho giặc hội quân vì thế đến tháng Tư (1284) đã cử Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật làm tướng chỉ huy, Trần Quốc Toản làm phó tướng cùng tướng quân Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân phục kích ở khu vực bến Hàm Tử (thuộc Đông An, Hưng Yên). Quân ta dựa vào lau sậy mọc um tùm hai bên bờ sông để đón đánh thuyền giặc.

Trận địa mai phục vừa xong thì thuyền chiến của Toa Đô dẫn xác tới. Quân ta từ nhiều phía bổ vây địch. Lúc đó, trong đội quân của tướng Trần Nhật Duật còn có Triệu Trung là tướng nhà Tống (đầu quân trong đạo quân của Trần Nhật Duật) mặc áo, đeo cung tên như quân Tống, cũng tham gia chiến đấu rất dũng mãnh đánh đuổi quân Nguyên.

Bị đánh úp bất ngờ quân Nguyên hoảng loạn nhảy xuống sông và bị thiệt hại rất nặng. Số quân còn lại theo Toa Đô rút ra cửa biển Thiên Trường. Thời cơ đã đến, Hưng Đạo Vương và vua Trần chủ động tấn công Thành Thăng Long. Thực hiện sách lược đã được vạch ra, quân ra đã đánh một trận rất lớn và rất tài tình, đó là trận: Chương Dương.

Lúc đó Đại quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long, chiến thuyền giặc đóng ở bến Chương Dương.

Sau chiến thắng Hàm Tử, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản cùng các tướng khác được lệnh đem quân đánh Chương Dương và thành Thăng Long.

Phối hợp với quân chủ lực của triều đình còn có các đạo quân binh ở các lộ do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Tuyền chỉ huy. Đây là trận mà quân ta đã phối hợp tốt giữa quân địa phương và dân binh với quân triều đình.

Quân ta bí mật đánh úp, áp sát thủy trại giặc. Bị bất ngờ, quân giặc đạp lên nhau mà chạy lên bờ để trốn về thành Thăng Long. Quân ta truy sát địch tới sát chân thành. Thoát Hoan vội đem đại quân ra tấn công, quân ta giả vờ thua chạy, địch đuổi theo liền bị phục binh của Trần Quang Khải đổ ra đánh, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng Long chạy qua sông Hồng, rồi đóng quân tại vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh).

Tài liệu thời Nguyên (Trung Quốc) chép: “Thủy lục đến đánh vào đại doanh, vây thành mấy vòng, quan quân (chỉ quân Nguyên) sớm tối đánh khốn đốn, thiếu thốn lương thực, khí giới đều hết”.

Trần Quang Khải đem quân vào thành Thăng Long, cảm khái trước sự dũng mãnh của dũng sĩ và nhân dân, ông đã viết: “Chương Dương cướp giáo giặc/ Hàm Tử giết quân thù/ Thái Binh nên gắng sức/ Non nước ấy ngàn thu”.

Toa Đô đóng quân ở Thiên Trường, cách Thoát Hoan hơn 200 dặm (không biết Thoát Hoan đã thua trận, thoát chạy về Bắc Giang rồi), cho quân tiến về sông Thiên Mạc với ý đồ hợp quân với Thoát Hoan. Khi được tin Thoát Hoan đã bại trận, Toa Đô liền rút quân về đóng ở Tây Kết, rồi cho người đi dò tin tức của Thoát Hoan.

Sau chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Trần Hưng Đạo cho các tướng Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chia quân chặn các ngả đường không cho Thoát Hoan và Toa Đô thông tin được với nhau. Tiếp đó Hưng Đạo Vương đem binh đến Tây Kết chia quân đánh trại quân Nguyên và đặt phục binh để bắt Toa Đô.

Quân ta càng đánh càng hăng, quân Nguyên địch không nổi, Toa Đô và Ô Mã Nhi đem tàn quân chạy lên bờ tìm đường bộ ra biển, nhưng bị phục binh của ta vây đánh.

Tương truyền tướng quân Nguyễn Khoái đã bắn chết Toa Đô tại trận, còn Ô Mã Nhi tìm đường chạy vào Thanh Hóa. Khi bị quân ta truy đuổi y đã vội vàng xuống thuyền, một mình liều chết chạy ra biển trốn về Trung Quốc.

Trận Tây Kết diễn ra vào tháng 5/1285, quân ta tiêu diệt toàn bộ 8 vạn quân của Toa Đô (bắt sống hơn 5 vạn quân Nguyên và hàng trăm chiến thuyền cùng nhiều khí giới không kể xiết. Viên tướng Toa Đô bị chém rơi đầu, nhưng với tấm lòng nhân đạo của mình, vua Trần Nhân Tông đã sai khâm liệm và làm lễ mai táng cho y rất chu đáo).

Tin Toa Đô bị chém, Ô Mã Nhi bỏ chạy ra biển làm cho Thoát Hoan và tướng sĩ Nguyên đều hoảng sợ, bàn cách chuồn về nước.

Hưng Đạo Vương đoán biết ý đồ tháo chạy của Thoát Hoan liền sai tướng Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão dẫn 3 vạn quân phục sẵn ở bên sông Vạn Kiếp. Hai con ông là Hưng Võ Nhẫn Nhẫn và Hưng Hiếu Vương Úy dẫn 3 vạn quân theo đường Hải Dương ra Quảng Yên, mục đích không cho địch chạy về châu Tư Minh (Trung Quốc).

Hưng Đạo Vương tự mình dẫn đại quân tấn công Thoát Hoan ở Bắc Giang, tiêu diệt một bộ phận lớn quân giặc. Thoát Hoan cố sống cố chết chạy về Vạn Kiếp, tưởng đã thoát thân nào ngờ y chưa kịp hoàn hồn thì bị phục binh của ta đổ ra đánh.

Quân giặc vội vã bắc cầu phao vượt sông Sách (tức sông Thương đoạn chảy qua vùng Vạn Kiếp). Cánh quân của Viên tả thừa Tang-Gu-Tai chưa kịp chạy thì bị quân mai phục của ta từ trong rừng đổ ra đánh, khiến chúng xô đạp nhau chạy làm đứt cả cầu phao, ngã xuống sông chết đuối rất nhiều.

Quân ta do tướng Nguyễn Khoái chỉ huy liên tiếp truy kích giặc. Tướng Nguyên là Lý Hằng bị bắn chết. Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A-Bát-Xích, Lý Quán cố sức đánh mở đường máu mà chạy.

Bị quân ra đuổi riết, không còn cách nào khác để thoát thân vì thế Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên trên xe bắt quân lính kéo chạy về phía biên giới. Đến gần châu Tư Minh, tưởng đã thoát thân, quân giặc định nghỉ ngơi rồi đi tiếp nào ngờ lại bị Hưng Võ Vương Nghiễn và Hưng Hiếu Vương Úy “giăng rọ” chờ sẵn từ trước, đổ ra đánh.

Lý Quán bị tên bắn chết ngay tại trận, còn Thoát Hoan nhờ có A-Bát-Xích cố chết bảo vệ nên chạy thoát thân về bên kia biên giới.

Với đội quân 60 vạn người, lúc đầu hùng hổ vượt biên giới kéo sang, khí thế oai phong lừng lẫy bao nhiêu thì khi về như con “Cẩu” cụp đuôi, luồn lách, chui lủi tìm đường thoát chạy về nước. Chỉ trong vòng 6 tháng (tháng Chạp, 1284 đến tháng 6-1285, quân dân Đại Việt đã đánh đuổi hơn nửa triệu quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Đó là nhờ vua tôi đồng lòng, toàn dân quyết chí đồng tâm, đồng sức đánh đuổi quân thù để bảo vệ quê hương đất nước.

“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông ngàn thuở vững âu vàng”

Nhà sử học Ba Tư Ra-xít-út-đin ở thế kỉ 13 đã viết về cuộc kháng chiến oai hùng của người Giao Chỉ (Đại Việt) trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông với những từ sau: “Nước đó có vương quốc riêng, không thần phục Hãn (Vua Mông Cổ), Tu Gan (Thoát Hoan) con trai của Hãn chỉ huy đội quân để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần Tu Gan đem quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đấy, nhưng bỗng nhiên xuất hiện những đội quân (Giao Chỉ) từ biển, từ rừng, từ núi, đánh tan quân Tu Gan (Thoát Hoan) đang cướp bóc, Tu Gan trốn thoát”.

Trong lúc quân dân Đại Việt hân hoan mừng chiến thắng thì ở bên kia biên giới Hốt Tất Liệt nổi giận vì Thoát Hoan bị thất trận nặng nề. Nóng lòng cần một căn cứ để làm bàn đạp tiến hành xâm lược Đông Nam Á nên vua nhà Nguyên gấp rút cho ngừng việc tấn công Nhật Bản và sai đóng trên 300 chiến thuyền, lệnh cho ba tỉnh Giao Hải - Hồ Quảng – Giang Tây tụ tập quân sĩ định đến tháng 8/1285 thì đem quân theo đường Châu Khâm, Châu Liêm tiến đánh Đại Việt để báo thù.

Rút kinh nghiệm hai lần thất bại trước vì thiếu lương thực, lần này vua Nguyên đặc biệt chú trọng đến việc cho thuyền tải lương đi theo và vạch sách lược tấn công theo lối: “tằm ăn dần dà”.

Trận đánh kinh động cả thế giới của người Việt
Lăng mộ như gò núi của vua Trần ở Thái Bình. 

Biết tin quân Nguyên chuẩn bị lực lượng tấn công Đại Việt, vua Trần hỏi Hưng Đạo Vương: “Thế giặc năm nay thế nào?” Trần Hưng Đạo trả lời: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Vua Trần và Trần Quốc Tuấn chia quân chặn địch ở các hướng Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Yên, Vạn Kiếp (Hải Dương) và Long Hưng (Thái Bình).

“Nhà Nguyên phát quân ở 3 sảnh Giao Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng. Quân Mông Cổ, quân Hán Nam cùng quân Vân Nam và quân người Lê ở 4 châu ngoài biển chia đường vào cướp. Sai bọn Vạn Hộ Trương Văn Hổ chở 70 vạn hộc lương theo đường biển, lại đặt Chinh Giao Chỉ hành thượng Thư sảnh, cho Áo-lỗ-xích làm Bình Chương Sự, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp làm tham tri chính sự phụ trách, đều sự tiết chế của Trấn Nam Vương” (ĐVSKTT-Tr.517).

Quân Nguyên chiếm núi Phả Lại và núi Chí Linh để lập căn cứ; Trình Bằng Phi đem 2 vạn binh đánh đồn Vạn Kiếp của ta. Ô Mã Nhi và A-bát-Xích dẫn quân từ sông Lục Đầu đánh xuống Hồng Hà.

Hưng Đạo Vương liền rút quân về giữ Thăng Long, nhưng sau bị Ô Mã Nhi bám riết, thượng hoàng và vua Trần Nhân Tông xuống thuyền đi ra cửa biển Thiên Trường. Ô Mã Nhi đem quân đuổi theo nhưng không kịp, liền kéo quân về Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình nơi có mộ tổ tiên nhà Trần ở đó). Y cho người đào phá lăng mộ của nhà Trần.

Thoát Hoan đem binh mã vây đánh Thăng Long, chiếm được thành nhưng sau lại phải rút về căn cứ Vạn Kiếp, Chí Linh, Phả Lại. Hưng Đạo Vương cũng tiến quân tới lập trại để chống chọi với giặc.

Ngày Mậu Tuất, 12/12 (17/12/1287) chiến thuyền của bọn Ô Mã Nhi (xuất phát từ cảng Khâm Châu) tiến vào nước ta. Đoàn thuyền vận tải lương thực của Trương Hổ vì chở quá nặng nên bị tụt lại phía sau. Mấy ngày sau thuyền giặc qua cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái), đến Ngọc Sơn chúng gặp tướng Nhân Đức Hầu Trần Gia phục binh trên núi phục đánh. Chiến thuyền giặc liền vây bọc lại đánh nhau với quân ta và qua được cửa Ngọc Sơn.

Thuyền của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp tiến vào cửa An Bang (Quảng Yên) giao chiến với thủy quân của tướng Trần Khánh Dư, quân ta bị tổn thất phải rút lui. Ô Mã Nhi sau khi qua được cửa An Bang đã theo sông Bạch Đằng tiến về Vạn Kiếp. Hắn tưởng rằng quân ta bị đánh tan không thể ngăn cản nổi đoàn thuyền lương đi sau nên hắn cứ tiến thẳng không chú ý đến việc bảo vệ cho Trương Văn Hổ.

Khi thủy quân nhà Nguyên đánh Vân Đồn, Hưng Đạo Vương đã trao quyền chỉ huy giải biên thùy cho phó tướng là Trần Khánh Dư. Nghe tin Trần Khánh Dư thua trận, vua Trần liền sai trung sứ đến bắt Khánh Dư đưa về cửa khuyết để trị tội. Khánh Dư nói với Trung sứ rằng: “Lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày, để tôi lập công chuộc tội rồi hãy chịu búa rìu của hoàng thượng cũng chưa muộn”.

Trung sứ nghe theo lời khuyên, Khánh Dư đoán biết quân chủ lực giặc đi rồi, thuyền lương tất phải theo sau, bèn tập hợp số quân còn lại bố trí phục kích chờ giặc tới. Quả nhiên mọi việc diễn ra đúng như dự đoán của vị tướng mưu trí đó.

Tháng 12 âm lịch (2/2/1288) đoàn thuyền chở lương của Trương Hổ kéo vào vùng biển Vân Đồn. Vì chủ quan cho rằng Ô Mã Nhi đi trước đã dọn đường cho mình rồi nên Trương Hổ không đề phòng, bị lọt vào trận địa phục kích của thủy quân ta.

Khi giặc tới, bất giờ thủy quân ta do Trần Khánh Dư ập tới đánh, giặc Nguyên bị thua, Trương Văn Hổ cố gắng tiến về phía đất liền, nhưng đến biển Lục Thủy (Cửa Lục, Hòn Gai) thì thủy quân ta đổ ra đánh càng đông. Trương Văn Hổ đại bại đổ cả lương thực xuống biển, trốn chạy về Quỳnh Châu (Hải Nam). Quân ta “bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất đông” (Toàn thư- Q.5.Tr-53a).

Theo sách Nguyên sử (Trung Quốc – Q.209 – An Nam Truyện – Tr.10a) thì số lương thực mất hơn 14.300 thạch. Con số đó chắc còn xa thực tế vì Trương Văn Hổ chỉ chạy thoát trên một chiếc thuyền nhỏ về Quỳnh Châu. Triều đình đã tha tội cho Trần Khánh Dư.

Trần Quốc Tuấn cho rằng để làm cho quân sĩ địch chóng “ngã lòng, bấy giờ mới dễ phá”. Vì thế quân ta đã thả tù binh, báo tin thuyền lương của Trương Hổ đã bị tiêu diệt cho Thoát Hoan biết. Trước tình hình ở không yên, lương thực lại bị mất, lòng quân dao động, Thoát Hoan buộc phải cố thủ ở Vạn Kiếp”.

Quân Nguyên sau khi đại bại ở Vân Đồn lương thảo ngày càng kiệt quệ, Thoát Hoan muốn cho người về Trung Quốc cầu viện và lấy thêm lương, nhưng Hưng Đạo Vương đã sai người giữ núi Kỳ Cấp và ải Nữ Nhi ở Lạng Sơn chặn bắt những tên thám tử được phái về Trung Quốc.

Cuối cùng biết rằng ở lại chỉ chuốc lấy thất bại, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước. Quân Nguyên chia làm hai đường thủy bộ để rút. Đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy theo đường sông Bạch Đằng đi trước. Đạo quân bộ gồm có Trịnh Bằng Phi, Trương Quân được giao chặn hậu để Thoát Hoan cùng A-bát-xích, Áo-lỗi-xích, Trương Ngọc tìm đường rút chạy.

Hưng Đạo Vương đoán biết được âm mưu của giặc, bèn sai tướng Nguyễn Khoái dẫn quân lẻn qua đường tắt lên mé thượng lưu sông Bạch Đằng chặt gỗ, đẽo nhọn đầu, bịt sắt, đóng trên sông rồi đặt phục binh chờ đợi đến lúc thủy triều lên thì đem thuyền ra khiêu chiến.

Tướng quân Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thế Nghĩa được lệnh dẫn quân lên mai phục ở ải Nội Bàng (thuộc Lạng Sơn) chờ cho quân bộ của Thoát Hoan chạy đến đó thì đổ ra đánh.

Kế hoạch chiến đấu đã được vạch ra, khi được tin Ô Mã Nhi đã kéo quân sắp về đến Bạch Đằng, Hưng Đạo Vương từ căn cứ A Sào (nay thuộc xã An Đồng và An Thái, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) kéo quân về sông Hóa đi đánh giặc. Con voi chiến của người bị sa lầy khi vượt sông, ứa nước mắt nhìn theo chủ tướng. Hưng Đạo Vương chỉ gươm xuống dòng sông Hóa mà thề rằng: “Trận này chưa phá xong giặc Nguyên thì không về bến sông này nữa”.

Quân sĩ ai nấy đều xin quyết chiến. Đoàn quân nhằm hướng Bạch Đằng Giang thẳng tiến. Khi chiến thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp theo dòng Bạch Đằng rút chạy thì bất ngờ tướng Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền từ bờ sông lao ra khiêu chiến.

Ô Mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy triều lên cao, mặt sông rộng mênh mang, Ô Mã Nhi cứ việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử cho quân Nguyên qua khỏi chỗ đóng cọc, rồi mới hô quân quay thuyền lại quyết chiến với giặc.

Trận chiến trên sông diễn ra ác liệt, đúng lúc đó đại quân của Hưng Đạo Vương kéo tới tiếp viện cho Nguyễn Khoái. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quân tiếp viện rất đông, liền quay thuyền chạy trở lại.

Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy triều đã rút xuống, cọc nhọn nhô lên, thuyền của quân Nguyên húc vào cọc đổ nghiêng, đổ ngửa, phần nhiều bị vỡ và đắm.

Quân ta càng đánh càng hăng quân Nguyên phần bị chết đuối rất nhiều, phần bị trúng tên, giáo mác, máu chảy loang đỏ cả khúc sông. Quân ta bắt được hơn 400 chiến thuyền giặc. Nội Minh Tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc. Các tướng khác như Phàn Tiếp cũng bị bắt sống tại trận.

Trận Bạch Đằng Giang diễn ra vào tháng 3 năm Mậu Tý (1288), mãi mãi là niềm tự hào về tài dùng binh và tinh thần chiến đấu dũng cảm của tướng lĩnh và binh sĩ cùng nhân dân thời Trần trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.

Tin thủy quân bị đánh tan, Ô Mã Nhi cùng các tướng bị bắt đã nhanh chóng được chuyển cho Thoát Hoan. Quá hoảng sợ, toán quân đi đường bộ theo lệnh của Thoát Hoan vội rút chạy. Khi về đến ải Nội Bàng, bỗng bị quân phục của Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh. Các tướng nguyên liều chết bảo vệ Thoát Hoan, chúng vừa đánh vừa chạy.

Tướng Nguyên là Trương Quân dẫn 3000 lính đi đoạn hậu cố sức chặn quân truy đuổi của ta, nhưng y đã bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Thoát Hoan chạy thoát được ra cửa ải, quân sĩ 10 phần chỉ còn lại 5, 6 phần.

Đại quân của Thoát Hoan đang đi, bỗng có tin báo từ cửa ải Nữ Nhi đến núi Kỳ Cấp (hơn 100 dặm), chỗ nào cũng có đồn ải của quân Đại Việt. Nghe tin ấy, quân sĩ nhà Nguyên đều xôn xao sợ hãi, ở phía sau lại nghe tiếng ầm ầm của quan quân đuổi theo.

Thoát Hoan vội sai A-bát-xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo-lỗi-xích đi đoạn hậu. Trên đường tháo chạy về nước hai viên tướng Nguyên là A-bát-xích và Trương Ngọc đã bị quân phục kích của ta bắn chết. Trình Bằng Phi liều mạng sống đưa Thoát Hoan chạy ra Đan Kỳ, qua Lộc Châu rồi lén lút theo đường rừng chui lủi chạy thoát về châu Tư Minh (Trung Quốc).

Đất nước sạch bóng quân xâm luợc: “Hai vua trở về phủ Long Hưng (Thái Bình) đem các bại tướng của giặc bị bắt là Tích Lệ Cơ Ngọc và Ô Mã Nhi, Tham Chính Sầm Đoại, Phàn Tiếp... cùng với các viên tướng vạn hộ, thiên hộ làm lễ dâng mừng thắng trận ở Chiêu Lăng (Tiến Đức – Hưng Hà – Thái Bình).

Trước đó quân Nguyên đã đào Chiêu Lăng, muốn phá đi nhưng không xâm phạm được đến quan tài. Đến khi giặc bị thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn. Đó là do thần linh ngầm giúp vậy.

Vua làm lễ yết có câu thơ rằng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/ Sơn hà thiên cổ điện kim âu, (Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/ Non sông nghìn thuở vững âu vàng).

Không đầy 5 tháng, quân dân ta đã tiêu diệt 30 vạn quân Nguyên, đánh bại cuộc xâm lược lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng của chúng đối với Đại Việt. Không những thế, còn ngăn chặn được âm mưu bành trướng của đế quốc Nguyên Mông định tấn công xuống Đông Nam Châu Á và tấn công cả Nhật Bản.

Vì bị hao binh tổn tướng, lại không chiếm được Đại Việt nên âm mưu trên đã bị hủy bỏ. Chiến công ba lần thắng Nguyên Mông của dân tộc ta mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ con dân nước Đại Việt xưa và nước Việt Nam ngày nay trong sự nghiệp bảo vệ non sông gấm vóc của tổ tiên để lại.

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly phế bỏ vua Trần Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, thoán ngôi nhà Trần. Năm 1407 lấy cớ sang đánh nhà Hồ để lập dòng dõi nhà Trần, cứu cho dân khỏi khổ sở, Minh Thành Tổ huy động 80 vạn quân, sai Thành Quốc Công là Chu Năng làm đại tướng, chia binh làm 2 đạo sang đánh Đại Việt. Khi quân Minh đến Long Châu thì Chu Năng chết, phó tướng Trương Phụ được cử lên thay.

Tuy vua tôi nhà Hồ đã phòng bị, nhưng trước sức mạnh của binh tướng nhà Minh, lại thêm lòng dân dao động vì tin theo lời hứa ủng hộ dòng dõi nhà Trần (của người Minh) nên nhà Hồ liên tiếp bị thất bại phải rút vào Thanh Hóa.

Tháng 4/1407 sau trận đánh ở cửa biển Kỳ La (cửa Nhượng) huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, quân nhà Hồ hoàn toàn tan vỡ. Cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều quần thần và tướng sĩ bị giặc Minh bắt đem về Trung Quốc.

Trận đánh khiến quân tướng phương Bắc tay rụng chân rời
Vua Lê Lợi chỉ huy đánh giặc. 

Cuộc kháng chiến của vương triều nhà Hồ chấm dứt, nhưng ở nhiều nơi nhân dân ta vẫn tiếp tục nổi dậy chống quân xâm lược Minh, dưới lá cờ Cần Vương của Giản Địch Đế Trần Ngỗi và của Trần Quý Khoáng. Đến năm 1413 các cuộc khởi nghĩa trên đều bị tướng nhà Minh là Trương Phụ đè bẹp.

Sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh thực hiện âm mưu đồng hóa người Việt. Sách “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim viết: “... Bọn Hoàng Phúc lại sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu. Lập ra đền miếu, bắt người mình cúng tế theo tục bên Tàu. Rồi từ cách ăn mặc cho chí sự học hành, cái gì cũng bắt theo người Tàu cả. Còn cái gì là di tích của nước mình như là sách vở thu nhặt đem về Tàu hết sạch. Lại đặt ra thuế lệ, bổ thêm sưu dịch để lấy tiền của, làm cho dân ta bấy giờ phải nhiều điều khổ nhục”. (SĐD – Tr.192).

Bị áp bức bóc lột nặng nề, nhân dân ta kiên quyết đấu tranh, các cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra trong suốt những năm chiếm đóng của giặc Minh. Tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.

Mùa xuân năm 1418, Lê Lợi, Nguyễn Trãi... phất cờ nghĩa Lam Sơn, dấy lên phong trào đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhằm “tiêu diệt giặc Minh để đem lại cái phúc thái bình muôn thuở”.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân Đại Việt, dưới lá cờ nghĩa của Bình định vương Lê Lợi diễn ra trong 10 năm (1418-1427).

Mới đầu khởi nghĩa, toàn bộ nghĩa quân chỉ có hơn 600 người và 14 thớt voi. Cờ nghĩa vừa dương lên, quân nhà Minh do Mã Kỳ chỉ huy đã kéo đến đàn áp, tấn công nghĩa quân Lam Sơn. Quân ta phục binh ở Lạc Thủy đánh thắng trận đầu tiên.

Năm Kỷ Hợi (1419) quân ta tấn công vào đồn Nga Lạc (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa), giết tướng Minh là Nguyễn Sao. Sau đó đại quân Minh tới vây ráp căn cứ Chí Linh.

Trận đánh khiến quân tướng phương Bắc tay rụng chân rời
Vua Lê Lợi. 

Lương thảo ngày càng cạn kiệt, quân lính hy sinh nhiều, giặc bao vây tứ phía, để giữ cho bộ chỉ huy và đặc biệt là minh chủ Lê Lợi được an toàn, Lê Lai đã liều mình giả làm Lê Lợi, mặc áo ngự bào, cưỡi voi xông ra trận, đánh với giặc Minh. Lê Lai đã hy sinh anh dũng, nhưng toàn bộ bộ chỉ huy quân khởi nghĩa đã được bảo vệ an toàn.

Với tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi liên tiếp vạch ra những sách lược thông minh, linh hoạt để tấn công giặc và bẻ gẫy các cuộc tấn công của quân Minh, phá tan đạo quân của tướng giặc là Trần Trí. Do bị địch vây hãm, lương thực cạn kiệt, Lê Lợi chủ trương giảng hòa với giặc Minh để củng cố lực lượng, tích luỹ lương thực, mộ thêm quân nghĩa.

Để phá thế bao vây của giặc, năm 1424, với sự tham mưu của các tướng lĩnh, Lê Lợi quyết định tấn công Nghệ An để giải phóng vùng Thanh - Nghệ và Tân Bình - Thuận Hóa nhằm mở rộng căn cứ của nghĩa quân.

“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/ Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Năm 1424, theo kế hoạch của tướng Nguyễn Chích, Bình Định Vương quyết tâm hạ thành Nghệ An để mở rộng căn cứ, tạo binh lực tiến đánh thành Đông Quan sau này.

Quân ta theo đường rừng, qua núi Bồ Lạp (có sách chép là Bồ Cứ) thuộc huyện Quỳnh Châu. Bình Định Vương cho phục quân và voi ở trong rừng để chờ giặc. Khi quân Minh kéo tới, bất ngờ hàng ngàn mũi tên từ trong rừng bắn ra, đá từ trên núi văng xuống, chiêng chống vang trời, quân ta như từ trên trời bay xuống, từ dưới đất mọc lên, ào ạt xung trận, quân giặc hoảng sợ kéo nhau chạy.

Quân ta chém đầu Đô tướng nhà Minh là Trần Trung, tiêu diệt hàng ngàn quân giặc, bắt được hàng trăm ngựa chiến. Tàn quân Minh vội vã trốn chạy theo lũ bại tướng Phương Chính.

Đánh tan giặc ở phía sau, quân ra tiếp tục hành quân và phục kích ở trang Trịnh Sơn – Châu Trà Lân, đánh tan đạo quân của Cầm Bành và Sư Hựu, buộc chúng phải kéo quân chạy lên núi cắm trại để chờ quân tiếp viện. Quân ta vây chặt núi, khiến giặc vô cùng khốn đốn, cuối cùng Cầm Bành phải hạ giáp quy hàng. Toàn bộ vùng Trà Lân sạch bóng quân thù. Phương Chính, Sơn Thọ phải chạy về Nghệ An cố thủ.

Để dụ giặc ra khỏi hang, quân ta tung tin rút quân và đốt doanh trại. Sau khi do thám thấy quả nhiên doanh trại đã bị đốt, giặc Minh liền đem quân đuổi theo, bất ngờ quân ta phục kích sẵn ở Bồ Ải (phía Tây huyện Thanh Chương, Nghệ An), khi giặc đến các tướng của Bình Địch Vương là Lê Sát, Lê Lễ... ào ạt xông ra chặn giặc, đánh tan quân Minh, bắt sống Chu Kiệt cùng hàng nghìn quân, chém tướng tiên phong là Hoành Thành. Trần Trí, Sơn Thọ vội vã kéo tàn quân rút về thành Nghệ An để chờ viện binh tới cứu.

Trận đánh khiến quân tướng phương Bắc tay rụng chân rời
Tượng Nguyễn Trãi. 

Tháng 4/1425, tham tướng nhà Minh là Lý An, đem quân thủy từ thành Đông Quan (Thăng Long) đến cứu viện. Bình Định Vương dự đoán thấy viện binh đến, nhất định giặc trong thành sẽ kéo quân ra tiếp ứng. Quân ta liền lui về đóng ở huyện Đỗ La, đào cửa sông La, phục quân trên bờ sông để chờ giặc tới.

Quả nhiên khi Trần Trí mở cửa thành dẫn quân vượt sông La, bị quân phục của ta đánh úp tiêu diệt nhiều tên giặc. Trần Trí càng sợ hãi vội rút quân vào thành, đóng chặt cửa thành cố thủ.

Tháng 5/1425, được tin thuyền lương của giặc do Trương Hùng chỉ huy với 300 chiến thuyền chở lương từ Đông Quan đến. Đoán trước giặc nhất định phải mở cửa thành để đón lương thảo, Lê Lợi sai Lê Lễ đem phục binh áp sát thành chờ sẵn.

Khi thuyền lương đến, giặc trong thành kéo ra, phục binh của ta đổ ra đánh, chém đầu thiên hộ Tưởng. Trương Hùng thấy vậy vội cho thuyền tháo lui. Lê Lễ hô quân đuổi theo, thuyền giặc quay đầu chạy, bất ngờ bị quân ta chặn ở trước mặt, sau lưng lại có quân đuổi. Quân giặc bị đánh bất ngờ, nhiều tên bị giết hoặc nhảy xuống sông bị chết đuối. Quân ta thu được nhiều thuyền lương của giặc.

Sau chiến thắng, nhận thấy thành Tây Đô còn ít quân, Bình định Vương sai Lê Lễ, Lê Sát, Lê Nhân, Lê Bí đi đường tắt đánh úp thành Tây Đô, tiêu diệt và bắt sống hàng ngàn quân giặc. Nhân dân Thanh Hóa nô nức xin tòng quân cứu nước và tham gia cùng nghĩa quân vây chặt thành Tây Đô.

Trong khi vây thành Tây Đô và thành nghệ An, Lê Lợi cử tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Lễ đem quân giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa. Với việc vận dụng mưu trí sách lược “nhử người tới, chứ không để người nhử tới”, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng một vùng rộng lớn từ Tam Điệp đến đèo Hải Vân. Vây chặt quân Minh ở thành Tây Đô, ở thành Nghệ An.

Nhận thấy thế và lực của quân ta ngày càng vững mạnh, Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương tấn công ra Bắc tiêu diệt quân giặc và đánh chặn viện binh của chúng.

Trận Tốt Động - Vương Thông bạt vía kinh hồn

Sau khi đem quân đến tiếp viện cho thành Đông Quan, ngày 16/10/1426, Tổng binh Vương Thông chia quân Minh làm 3 đạo để tiến đánh quân ta. Vương Thông đóng quân ở bến đò Cổ Sở (đò Phùng - thuộc xã Yên Sở, Thạch Thất, Hà Nội), cho làm cầu phao để đưa quân qua sông. Phương Chính đóng quân ở cầu Sa Đôi, Sơn Thọ. Mã Kỳ đóng quân ở gần cầu Thanh Oai.

Quân giặc hạ trại liền nhau, kéo dài vài chục dặm, cờ xí rợp trời. Chúng hí hửng tin rằng với hàng chục vạn quân chỉ cần đánh một trận là bắt được Bình Định Vương Lê Lợi.

Mặc dù đội quân tiên phong của ta do tướng Lê Triện, Lê Bí chỉ huy ít hơn địch rất nhiều, nhưng nhận thấy không thể ngồi chờ địch tới, hai tướng liền chủ trương nhằm vào mũi đóng quân của Sơn Thọ và Mã Kỳ ở Thanh Oai để tấn công trước vì thực lực của đạo quân này yếu hơn hai đạo quân kia.

Quân ta bày kế nghi binh, nhử địch tới cầu Ba La (nơi đây có địa hình lầy lội, cây cối um tùm). Quân ta lại cho du binh đánh vào doanh trại của Mã Kỳ, Sơn Thọ rồi giả thua bỏ chạy.

Quân Minh đuổi theo, khi qua cầu Ba La, quân phục nổi dậy đánh ngang sườn đội hình giặc. Giặc bị bất ngờ, sa vào bùn lầy và bị tiêu diệt hàng ngàn tên. Số sống sót chạy về cầu Nhân Mục. Vương Thông vô cùng tức tối, y lên kế hoạch tấn công quân ta với ý đồ đặt pháo ở phía sau, chờ súng nổ. Thấy quân ta di động là địch xông vào tấn công.

Nắm được âm mưu của giặc, Lê Lễ được lệnh đem phục binh chờ giặc ở Thanh Đàm, mặt khác truyền lệnh cho ba quân, nếu nghe tiếng súng trận nổ thì ẩn náu, không đuợc manh động, chờ khi giặc tới gần, có hiệu lệnh mới được tấn công.

Quân giặc nổ pháo về phía quân ta, chúng thấy không có động tĩnh gì, tướng giặc liền xua quân tiến sâu vào. Khi chúng vào đến gần sông Yên Duyệt thì quân phục của ta ở ba phía đều nổi dậy, xông vào tấn công địch ở Chúc Động, Tốt Động phá tan quân giặc.

Thượng Thư Trần Hiệp, nội quan Lý Lượng cùng hàng vạn lính giặc bị tiêu diệt hoặc rơi xuống sông chết đuối. “Nước sông Ninh Kiều không chảy được, bắt sống được hơn 1 vạn người, thu giữ ngựa, khí giới, quân trang và xe cộ không kể xiết. Phương Chính theo đò khổ sở trốn về, bọn Vương Thông, Mã Kỳ chỉ thoát được thân chạy về thành Đông Quan” (ĐVSKTT).

Sau chiến thắng Tốt Động, làm bạt vía kinh hồn quân giặc, Bình Định Vương cho quân trấn giữ các đạo, bao vây thành Đông Đô (Đông Quan). Vương Thông cho người đưa thư xin hòa và xin cho đem tàn quân về nước.

Bình Định Vương thuận cho, nhưng Vương Thông bên ngoài thì cầu hòa, bên trong lại cho quân lính đào hào, đặt chông và cho người đem thư về nước xin viện binh. Quân ta bắt được người đưa thư của giặc, Bình Định Vương liền cắt quan hệ hòa hoãn với Vương Thông.

Để chặn đánh quân Minh ở các thành xung quanh Đông Quan, vua sai các tướng đi đánh thành Điêu Diêu và thành Thụy Cầu. Tướng Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang. Tướng Lê Sát đánh thành Xương Giang. Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu các thành trên đều rơi vào tay nghĩa quân. Bình Định Vương cho ổn định chính quyền ở các vùng đất đã được giải phóng, tuyển thêm quân, chuyển bị vũ khí sẵn sàng tiêu diệt viện binh của giặc đến giải vây cho thành Đông Quan.

Trận Chi Lăng - Liễu Thăng rơi đầu

Đầu năm 1427, vua Minh sai An viên hầu Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy 15 vạn quân, chia làm hai đường tiến vào nước ta. Trước tình hình trong nước vẫn còn giặc, ngoài biên ải thì giặc đang kéo vào, Lê Lợi để lại một số quân vây thành Đông Quan, sau đó cho tướng đem một vạn quân chặn Mộc Thạch ở ải Lê Hoa (Hà Giang). Một vạn quân được lệnh kéo lên mai phục ở ải Chi Lăng, hai vạn quân được lệnh sẵn sàng tiếp ứng cho mặt trận Chi Lăng. Đại quân thuỷ được lệnh tập trung ở sông Thương để chuẩn bị đánh địch.

Ngày 18, tổng binh nhà Minh là Chinh Lỗ tướng quân thái tử thái phó An Viễn Hầu Liễu Thăng đem 10 vạn binh và 2 vạn ngựa đánh vào cửa ải Pha Lũy. Lê Lợi chủ trương: “Đem quân nhàn rỗi, địch quân mỏi mệt, nhất định là thắng”.

Các tướng Lê Sát, Lê Nhân Trú, Lê Liệt... được lệnh nhử giặc vào sâu trong trận địa phục binh. Khi Liễu Thăng đánh ải Pha Lũy, Lê Lựu chống cự yếu ớt rồi lui quân về giữ cửa Ải Lưu.

Giặc đánh cửa Ải Lưu, quân ta lại lui về đóng ở Chi Lăng. Liễu Thăng hí hửng tưởng thắng liền thúc quân kỵ đuổi nhanh. Khi đến ải Chi Lăng, Lê Sát, Lê Nhân Chú lại sai Lê Lựu xông ra đánh. Đang đánh nhau Lê Lựu lại bỏ chạy, giặc đắc thắng ào đuổi theo.

Ngày 20 Liễu Thăng đánh quân ta ở Chi Lăng, Lê Lựu cho quân lui về đến núi Mã Yên. Khi giặc rơi vào trận địa phục kích, quân phục của ta từ các phía đổ ra. Quân giặc rối trận, bị đánh tơi bời. Liễu Thăng bị chém ở sườn núi Mã Yên cùng hàng vạn quân lính.

Chỉ trong 27 ngày, với tài dùng binh thao lược, nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt 10 vạn viện binh của địch do Liễu Thăng chỉ huy, làm thất bại âm mưu giải cứu thành Đông Quan của chúng.

Đạo quân thứ 2 của giặc Minh do Mộc Thạch chỉ huy, đến cửa ải Lê Hoa đã bị quân dân ta dưới sự chỉ huy của Phạm Văn Sảo và Trịnh Khải kìm chân. Vua (Lê Lợi) đoán biết Mộc Thạch là viên tướng tuổi cao, từng trải chiến trận, tất sẽ đợi xem Liễu Thăng thành bại ra sao, chứ không dám liều lĩnh tấn công.

Quả đúng như dự đoán, Mộc Thạch đã không dám mạo hiểm tung quân chiến đấu với quân ta ở ải Lê Hoa. Khi diệt được Liễu Thăng, Lê Lợi sai một viên tướng nhà Minh cùng ba viên thiên hộ bại trận – đem các sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến quân của Mộc Thạch. Mặt khác, ta cho quân áp sát trại giặc. Quân tướng nhà Minh thấy vậy hoảng sợ, không kịp đánh nhau đã vội vàng rút chạy, mạnh tên nào tên ấy đi, đội hình rối loạn.

Quân ta thừa thắng đuổi đánh, diệt được hàng ngàn quân giặc ở ngòi Nước Lạnh và Đan Xá, thu giữ nhiều vũ khí và ngựa chiến, bắt được hàng nghìn tù binh. Mộc Thạch hết hồn, chỉ còn một mình một ngựa chạy thoát về bên kia biên giới.

Vương Thông đầu hàng - Cấp ngựa cho về cố quốc mà tay rụng, chân rời

Vua (Lê Lợi) sai người đem Phù song hổ và ấn tín của Liễu Thăng đến thành Đông Quan cho Vương Thông. Quan quân giặc hoảng sợ. Quân ta lại sắp rào gỗ và đồ đánh trận để vây thành Đông Quan, khiến tổng binh nhà Minh là Vương Thông phải sai người mang thư đến giảng hòa, xin mở cho đường về nước.

Vua đồng ý, nhưng Vương Thông ngoài mặt xin giảng hòa mà trong lòng vẫn do dự chưa quyết. Thấy quân ta đắp lũy, Vương Thông liền đem hết quân trong thành ra đánh.

Quân ta mai phục sẵn, khi đánh giả thua bỏ chạy. Giặc Minh đuổi theo, quân phục đổ ra dốc sức đánh, phá tan quân giặc. Vương Thông ngã ngựa, suýt bị bắt, vội vã chạy về thành.

Vì quá hoảng sợ, Vương Thông vội viết tấu thư gửi về nước cho vua Minh, trình bày lý do xin giảng hòa với quân ta. Trong tấu có đoạn: “Chớ tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ được...” (ĐVSKTT-Tập2-Tr.72).

Các tướng xin đánh thành, Hành khiển Nguyễn Trãi vì xem được tấu thư của Vương Thông gửi về nước (do quân ta bắt được người đưa thư) nên khuyên vua (Lê Lợi) cần chuyên chú giải hòa. Vua nghe theo lời liền cho quân đang bao vây lùi ra xa ngoài thành.

Vương Thông xin hòa và cho Vương Thọ, Mã Kỳ ra làm con tin ở dinh Bồ Đề. Bấy giờ các tướng sĩ và nhân dân trong nước rất oán giặc Minh vì chúng đã giết hại bố mẹ, họ hàng, vợ con của họ, nên rủ nhau đến xin vua giết giặc đi.

Vua dụ rằng: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, mà không thích giết người là bản tâm của người nhân. Vả lại người ta hàng rồi mà giết thì việc bất tường, không gì lo bằng. Để thỏa lòng giận trong một buổi mà mang tiếng giết người đầu hàng mãi mãi muôn năm, chi bằng tha mạng cho ức vạn người mà tuyệt mối chiến tranh sau này, sử xanh ghi chép, tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn sao.” (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.74).

Sau khi có hòa ước, nhiều quan lại quân lính nhà Minh đã xin ở lại phương Nam, Vương Thông đều đồng ý.

Tháng 12, ngày 12 năm 1427 được quân ta cấp cho ngựa, cỏ, lương thực, lại có người dẫn đường nên Vương Thông đã sai quân bộ vượt sông Lô đi trước về nước (Trung Quốc).

Quân thủy gồm 8600 người do Mã Kỳ, Phương Chính theo đường thủy rút về nước với 500 chiếc thuyền được quân ta cấp phát và lương thực đầy đủ.

Minh sử Q.31 chép: “Tháng 11 (Vua Minh) dụ cho Thông và quan tam ti triệt hết quân dân về Bắc. Chiếu (chỉ) chưa đến thì Thông đã bỏ Giao Chỉ do đường bộ về Quảng Tây. Trung quân Sơn Thọ và Mã Kỳ cùng các quan tam ti là Thú Lệnh thì do đường thuỷ về Khâm Châu. Được về chỉ có 8 vạn 6 nghìn người. Bị giặc giết và giữ lại không xiết kể.” (SĐD)

“Trước khi về nước các tướng giặc đều đến dinh Bồ Đề lạy tạ (vua) mà về. Bọn Phương Chính, Mã Kỳ... vừa cảm ơn vừa xấu hổ đến chảy nước mắt”. (ĐVSKTT-Tập 2-Tr.75).

Sau chiến thắng chống quân xâm lược Minh, vua (Lê Lợi) sai Nguyễn Trãi soạn bố cáo (Bình ngô đại cáo) khắp thiên hạ. Đoạn kết của bài Bố cáo viết: “Oai thần không giết, ta thề lòng trời cao mà tỏ hiếu sinh/ Bọn tham chính Phương chính, nội quan Mã Kỳ, trước cấp cho 500 thuyền, đã qua sông mà hồn xiêu phách lạc/ Bọn tổng binh Vương Thông, tham chính Mã Anh, lại cấp cho mấy trăm ngựa, đã về nước mà còn tay rụng chân rời/ Ôi! Một gươm cả định rốt cuộc lên nghiệp khôn bì/ Xã tắc do đó vững bền/ Non sông do đó tươi đẹp/ Càn khôn đã bĩ mà thái lai/ Nhật nguyệt đã mờ mà sáng ra/ Để cho dựng thành nền muôn thuở thái bình…”.

Dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, với sự tham mưu tài tình của Nguyễn Trãi, sự trí dũng của các tướng, sự dũng mãnh, tinh luyện của binh lính, cuộc chiến tranh giải phóng của đất nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi.

Từ trận Lạc Thủy đầu tiên năm 1414 đến chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang (1427), toàn dân ta đã trải qua 10 năm “nếm mật nằm gai” đấu tranh cực kỳ anh dũng đánh đuổi quân xâm lược, viết lên những trang sử chói lọi vinh quang trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ non sông đất nước.

Nhà sử học Đặng Hùng

http://vtc.vn/394-343130/phong-su-kham-pha/tran-danh-khien-quan-tuong-phuong-bac-tay-rung-chan-roi.htm