Cách đây tròn nửa thế kỷ, giữa hai quốc gia láng giềng cùng chế độ Xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Trung Quốc đã xảy ra xung đột đẫm máu ở biên giới xung quanh việc tranh giành một bãi nổi trên con sông nằm giữa biên giới hai nước khiến hai nước đứng bên bờ vực một cuộc chiến tranh tổng lực.
Khi đó bộ máy tuyên truyền của cả hai bên đều đổ lỗi cho nhau phải chịu trách nhiệm về sự kiện này. Gần đây, các tư liệu của hai bên về cuộc xung đột này đã lần lượt được công bố, sự thật về vụ xung đột cũng như cuộc khủng hoảng nghiêm trọng mới dần được sáng tỏ…
Tháng 3/1969, tại hòn đảo nhỏ Trung Quốc gọi là Trân Bảo, Liên Xô gọi là Damanski trên con sông biên giới Ô Tô Lý (Ussuri) phân chia biên giới hai nước đã xảy ra một vụ xung đột đẫm máu do tranh giành quyền sở hữu hòn đảo khiến hơn 200 người bị chết.
Sau đó hai quốc gia Xã hội chủ nghĩa láng giềng này đã tiến đến bên bờ vực của một cuộc chiến tranh hạt nhân. Hai bên đều bố trí một lực lượng quân đội đông đảo sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh tổng lực.
Tình hình chỉ dịu đi khi lãnh đạo hai bên gặp nhau bên lề lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh và đi đến thống nhất giải quyết trên tinh thần đoàn kết Xã hội chủ nghĩa.
Cho đến cuối thập niên 1980, nhà lãnh đạo Liên Xô Gorbachev thừa nhận đảo này thuộc về Trung Quốc. Đến năm 1991 Liên bang Nga chính thức ký văn bản công nhận Trân Bảo là của Trung Quốc…
Hai bên tố cáo lẫn nhau
Theo “Điều ước Trung - Nga” ký tại Bắc Kinh năm 1860 giữa Nga hoàng và nhà Thanh, biên giới hai nước đoạn phía Đông lấy sông Ussuri (hay Ô Tô Lý theo người Trung Quốc gọi) làm ranh giới.
Vấn đề quy thuộc đảo Trân Bảo nằm trên dòng sông trong gần suốt thế kỷ 20 chưa được xác định. Cả Trung Quốc và Liên Xô đều tuyên bố có chủ quyền đối với hòn đảo có diện tích 0,74 km2, phần lớn nằm ở phía Tây (tức phía Trung Quốc) này.
Phía Trung Quốc cho rằng, theo Điều ước thì đường biên giới nằm ở giữa dòng, đảo này lại nằm chủ yếu ở phía Tây nên phải thuộc về Trung Quốc.
Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, từ năm 1947, quân đội Liên Xô bắt đầu tiến hành lên đảo này tuần tra, phía Trung Quốc không lên tiếng phản đối.
Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập (1/10/1949), thời kỳ đầu quan hệ hai bên gắn bó thân thiết nên vấn đề biên giới được gác lại.
Cho đến cuối thập niên 1950, quan hệ Trung - Xô dần xấu đi bằng những cuộc tranh cãi về ý thức hệ và bất đồng về phương châm, chính sách.
Năm 1959, khi xảy ra xung đột biên giới Trung Quốc - Ấn Độ, Liên Xô đã ngả về phía Ấn Độ rồi rút chuyên gia, cắt viện trợ, chấm dứt mọi hạng mục hợp tác; quan hệ Trung - Xô trở nên xấu đi, vấn đề biên giới sau nhiều năm được gác lại, giờ được mang ra với những tranh cãi gay gắt.
Đầu thập niên 1960, khi hai bên tiến hành đàm phán về biên giới, Liên Xô có ý định trao trả Trân Bảo cho phía Trung Quốc, nhưng cuộc đàm phán đã gián đoạn nửa chừng do quan hệ hai nước ngày càng xấu đi.
Từ năm 1964, trên biên giới hai nước lẻ tẻ xảy ra các vụ xung đột bạo lực giữa lực lượng tuần tra của hai bên, nhất là trên các đảo Trân Bảo và Thất Lý Tẩm trên sông Ussuri.
Ban đầu là đấu khẩu, sau đến xô đẩy, rồi sử dụng gậy gộc, dao kiếm. Hai bên tố cáo lẫn nhau là thủ phạm gây ra tình hình căng thẳng trên biên giới hai nước.
Phía Trung Quốc tố cáo: tính từ tháng 10/1964 đến tháng 3/1969, Liên Xô đã gây ra 4.189 vụ việc trên biên giới.
Nghiêm trọng nhất là vụ ngày 5/1/1968, lực lượng biên phòng Liên Xô đã sử dụng xe thiết giáp đổ bộ lên đảo Thất Lý Tẩm, sát hại 4 người dân Trung Quốc, phía Trung Quốc cực lực phản kháng.
Phía Liên Xô cũng tố cáo Trung Quốc chủ động gây ra các vụ việc khiêu khích trên biên giới. Từ cuối tháng 3/1965, số vụ lính Trung Quốc sang chiếm đất Liên Xô ngày càng nhiều; tính từ ngày 1/10/1964 đến 1/4/1965 đã xảy ra 36 vụ với 150 lính Trung Quốc vượt qua biên giới gây hấn; chỉ riêng nửa đầu tháng 4/1965, đã có thêm 12 vụ với hơn 500 binh lính và dân thường Trung Quốc tham gia.
Đáng chú ý có vụ ngày 11/4/1965, 200 người Trung Quốc với 8 máy cày được quân lính yểm trợ đã sang cày cất trồng cây trên đất Liên Xô, khi gặp tổ tuần tra của lính biên phòng Liên Xô, họ đã có hành vi bạo lực và lăng nhục.
Bước sang năm 1967, số vụ xâm nhập, khiêu khích đột nhiên tăng lên tới hơn 2.000, kèm theo đó là làn sóng tuyên truyền chống Liên Xô…
Tháng 2/1967, khi nói về tương lai quan hệ Trung-Xô, Ngoại trưởng Trung Quốc Trần Nghị nói: “Quan hệ có thể tan vỡ, chiến tranh có thể nổ ra”. Tháng 3 cùng năm, Thủ tướng Chu Ân Lai công khai phát biểu: “Chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc với Liên Xô có thể xảy ra sớm hơn chiến tranh với Mỹ”…
Trung Quốc là bên chủ động gây sự
Về nguyên do xảy ra vụ xung đột đẫm máu này, Trung Quốc luôn tuyên truyền hoàn toàn do phía Liên Xô gây ra, Trung Quốc bị buộc phải “phản kích tự vệ”.
Tuyệt đại đa số người Trung Quốc và cộng đồng quốc tế đều chấp nhận sự giải thích đó bởi trước Liên Xô, Trung Quốc khi đó là phía yếu thế.
Tuy nhiên, qua các văn kiện lần lượt được cả hai bên giải mật gần đây và hồi ký của những người đương thời, những nhân chứng trong cuộc thì sự thật lịch sử khác hẳn.
Đó là: vụ xung đột, nói đúng ra là cuộc chiến tranh ở đảo Trân Bảo là do phía Trung Quốc chủ động hoạch định và tiến hành.
Do tình hình trang bị vũ khí và huấn luyện của Trung Quốc khi đó có sự chênh lệch lớn đối với Liên Xô, nên Trung Quốc chỉ có thể tiến hành theo kiểu ra tay “xuất kỳ bất ý” (bất ngờ, nhân lúc đối phương không đề phòng, hay nói nôm na là đánh trộm), đột nhiên tập kích và tập trung ưu thế binh lực để tiến hành đánh đòn phủ đầu tiêu diệt đối phương.
Năm 1969, sau khi được ông Mao Trạch Đông phê chuẩn, Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương đã lên kế hoạch “Chiến đấu phản kích đảo Trân Bảo” vào tháng 3/1969 để chào mừng Đại hội lần thứ 9 Đảng Cộng sản Trung Quốc họp vào tháng 4/1969.
Trong kế hoạch tác chiến ghi rõ “quy mô cố gắng khống chế ở phạm vi nhất định, mặc dù đây là một cuộc xung đột biên giới cục bộ!”.
Theo trang web “Qulishi” của Trung Quốc ngày 14/1/2015, việc soạn thảo kế hoạch và trực tiếp chỉ huy trận đánh được giao cho Thiếu tướng Tiêu Toàn Phu (Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu Thẩm Dương ).
Ban đầu, vào ngày 25/1/1969, phía Trung Quốc định sử dụng lực lượng 3 đại đội để tiến công. Trước Tết âm lịch, Tiêu Toàn Phu mang kế hoạch về Bắc Kinh báo cáo.
Ngày 29/2/1969, phương án tác chiến được báo cáo lên Bộ Tổng tham mưu (BTTM) và Bộ Ngoại giao, sau đó được ông Mao Trạch Đông phê chuẩn.
Ban đầu địa điểm tiến công (nhưng văn bản viết là “phản kích”) được lựa chọn không phải là đảo Trân Bảo, nhưng cuối cùng lại chọn nó là do xem xét từ nhiều mặt:
Thứ nhất, Liên Xô đã đồng ý trao đảo Trân Bảo cho Trung Quốc, Liên Xô chắc sẽ không liều chết lấy lại thứ mà họ đã xác định thuộc về Trung Quốc, theo luật quốc tế hay về lý, Liên Xô không thể mãi giữ đảo này được; thứ hai, từ năm 1947, Liên Xô đã cho quân tuần tra ở đảo Trân Bảo, ra tay ở đây sẽ gây tác động lớn ở Liên Xô; thứ ba, địa hình đảo Trân Bảo có lợi cho Trung Quốc, Trung Quốc dễ dàng ngụy trang tiếp cận, quân Liên Xô đến sẽ dễ bị phát hiện.
Trước khi tiến công, phía Trung Quốc đã chuẩn bị kỹ lưỡng, nắm chắc quân số, những địa điểm và thời gian lính biên phòng Liên Xô tuần tra, thậm chí ám hiệu, mật khẩu cũng đã chuẩn bị hoàn tất.
Phần 2: Kịch chiến, xuống thang, phân định biên giới
Sau khi Trung Quốc chiếm đảo, quan hệ Xô - Trung đã căng thẳng đến mức ở bên miệng hố một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Tuy nhiên, nhân sang Việt Nam dự lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Mình, phía Liên Xô đã bày tỏ thiện chí và một cuộc hội đàm bí mật giữa thủ tướng hai nước đã diễn ra tại sân bay Bắc Kinh dẫn đến việc hai bên xuống thang...
Xung đột đẫm máu, hai bên sử dụng cả xe tăng, đại bác
Trong trận này, phía Trung Quốc đã huy động sử dụng lực lượng tinh nhuệ lựa chọn từ 3 quân đoàn và 1 đại đội trinh sát trực thuộc quân đoàn (đều là các đại đội tăng cường quân số trên 200 người).
Đêm 1/3, lính Trung Quốc dầm mình trong giá rét dưới nhiệt độ âm 30 độ bí mật lên đảo mai phục. Sáng ngày hôm sau (2/3), một phân đội “nhử mồi” do Trạm trưởng biên phòng Tôn Ngọc Quốc lên đảo tuần tra; phía Liên Xô lập tức cho quân lên đảo xua đuổi.
Hơn 70 binh sĩ Liên Xô “mắc câu” lên đảo bị lính Trung Quốc đưa vào trận địa phục kích của họ. Bị đánh bất ngờ, phía Liên Xô triển khai chống trả nhưng ở thế bị động nên bị thiệt hại nặng.
Sau hơn một giờ kịch chiến, toán lính Liên Xô bị tiêu diệt hầu như toàn bộ: 38 người bị giết (Liên Xô công bố bị chết 31 người), 22 người bị thương, 2 xe quân sự bị phá hủy, 1 xe bị hỏng; phía Trung Quốc chết 17 người, bị thương 35.
Sau mấy ngày im ắng, các ngày 15 và 17/3, quân đội hai bên tiếp tục xung đột ác liệt. Phía Liên Xô sử dụng xe tăng, thiết giáp, máy bay và thứ “vũ khí bí mật” khi đó là pháo phản lực 40 nòng BM-21 “Grad”; phía Trung Quốc sử dụng pháo chống tăng, DKZ, B40, B41 và pháo mặt đất đặt sâu trong nội địa Trung Quốc.
Lần đầu tiên, Liên Xô đã sử dụng 1 tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 "Grad" 40 nòng tập kích hỏa lực kéo dài 10 phút vào sâu lãnh thổ Trung Quốc đến 20 km. (theo một thông tin khác, vùng tập kích là khu vực có diện tích 10km chiều rộng và 7 km chiều sâu trên lãnh thổ Trung Quốc).
Kết quả của đợt tập kích là toàn bộ lực lượng thê đội dự bị, kho tàng, trang thiết bị quân sự, các trạm cung cấp đạn và cơ sở vật chất cho tiền duyên cùng với binh lực của PLA bị tổn thất nặng nề, không có khả năng phục hồi.
Trong trận này, hai bên đều đổ lỗi cho nhau cố tình khiêu khích, nổ súng trước. Ngày 15/3, Liên Xô cho một tổ trinh sát 6 người do 1 sĩ quan chỉ huy tiến hành quan sát khu vực phía Nam đảo.
Đến khoảng 10h, tổ trinh sát báo cáo có lực lượng đối phương đi trên mặt sông đóng băng vượt qua biên giới. Họ tính toán lực lượng Trung Quốc có khoảng 1 trung đoàn bộ binh, có pháo binh cơ giới, súng cối và 2 xe tăng yểm trợ.
Lực lượng chủ lực Liên Xô được đưa tới, triển khai chiến đấu sau 30 phút. Theo lời Đại tá Nicolas Popov, người trực tiếp tham gia trận này của phía Liên Xô kể lại, trận đánh diễn ra suốt 9 giờ, hai bên giành đi giật lại hòn đảo đến 8 lần.
Khác với trận ngày 2/3 chỉ có lực lượng biên phòng tham gia, lần này khi Trung Quốc sử dụng lực lượng quân đội chính quy, phía Liên Xô cũng sử dụng 1 trung đoàn bộ binh cơ giới với hỏa lực phối thuộc mạnh, cuối cùng họ đã đuổi được quân Trung Quốc khỏi hòn đảo và cho gài mìn dày đặc trước khi rút lực lượng khỏi đảo.
Trong trận đánh ác liệt này, theo số liệu phía Trung Quốc công bố thì: Liên Xô chết hơn 60 người (có 1 Đại tá, 1 Trung tá), bị thương hơn 80, 14 xe quân sự bị phá hủy; phía Trung Quốc nói họ chết 12, bị thương 27 người, nhưng thực tế có lẽ cao hơn nhiều.
Đáng chú ý, 1 xe tăng T-62 được coi là hiện đại nhất của Liên Xô thời đó bị bắn hỏng nằm lại đảo. Từ ngày 17/3 đến 1/4, hai bên đã diễn ra cuộc chiến ác liệt nhằm chiếm và giữ chiếc xe tăng này, có thêm một số người nữa bị chết.
Phía Liên Xô không muốn bí mật quân sự của loại xe tăng hiện đại này rơi vào tay Trung Quốc nên đã cử tổ bộc phá định phá hủy nó nhưng bị phía Trung Quốc đẩy lui. Cuối cùng, Liên Xô đã dùng hỏa lực pháo binh bắn thủng lớp băng để chiếc T-62 chìm xuống lòng sông.
Đến ngày 27/4, phía Trung Quốc nhân đêm tối cho thợ lặn hải quân bí mật xuống sông móc cáp, trục vớt thành công chiếc xe tăng kéo về Nhà máy đại tu xe tăng 6409 ở Phủ Thuận tiến hành sửa chữa rồi đưa về Thẩm Dương; đến tháng 6/1969 thì đưa về Bắc Kinh trưng bày trong Bảo tàng quân sự Trung Quốc.
Từ nguyên mẫu chiếc xe tăng này, Trung Quốc đã mô phỏng chế tạo ra phiên bản xe tăng chủ lực của Trung Quốc. Trong cuộc chiến giành giật chiếc xe tăng này, Trung Quốc thương vong thêm 42 người bởi hỏa lực pháo binh của Liên Xô.
Kết thúc đợt xung đột, thực tế là một cuộc chiến tranh thực sự, hai bên đều sử dụng quân chính quy và vũ khí, khí tài hiện đại này, Trung Quốc nói họ đã bắn chết và bị thương 230 lính Liên Xô (Liên Xô công bố họ thương vong 152 người) phá hủy 19 xe tăng và thiết giáp.
Trung Quốc chỉ thừa nhận họ thương vong 92 người, trong khi phía Liên Xô cho rằng PLA tử thương gần 1000 binh sĩ, trong đó riêng ngày 15/3 phía Trung Quốc bị chết 600 người.
Sau đó hai bên đều tập kết số lượng lớn quân đội ở gần bờ sông, phía Trung Quốc kiểm soát thực tế hòn đảo. Từ tháng 8/1969, Trung Quốc cho người lên đảo xây dựng công sự kiên cố và thường xuyên cho 1 tổ chốt giữ.
Hai bên đứng bên bờ vực chiến tranh hạt nhân
Trong cuộc xung đột ngắn ngày ở đảo Trân Bảo lần này, quân đội Liên Xô đã chịu thiệt hại nặng nề nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai. Ban lãnh đạo Liên Xô rất kinh ngạc và phản ứng quyết liệt.
Đầu tiên, họ cướp thời gian đưa công hàm phản kháng trước; thứ hai, tổ chức họp báo tố cáo Trung Quốc; thứ ba, phát động các cuộc biểu tình thị uy; thứ tư, tố cáo với các nước phương Tây; thứ năm, chuẩn bị áp dụng “hành động tập thể”; thứ sáu, tiến hành đe dọa hạt nhân; thứ bẩy, đưa ra ý tưởng về thể chế an ninh chung châu Á.
Phía Trung Quốc cũng đưa ra các phản ứng khác thường: thứ nhất, tổ chức biểu tình quy mô lớn; thứ hai, ông Mao Trạch Đông phát biểu đề cấp đến sự kiện này tại Hội nghị gặp mặt các nhân vật lãnh đạo Cách mạng văn hóa; thứ ba, dấy lên cao trào chuẩn bị chiến tranh với Liên Xô trên phạm vi cả nước; thứ tư, không đếm xỉa đến yêu cầu đàm phán của phía Liên Xô.
Do Trung Quốc trong suốt thời gian dài không đáp lại yêu cầu ngồi lại đàm phán, nên Liên Xô phải áp dụng biện pháp tiếp theo.
Một mặt Liên Xô tuyên truyền trên báo chí chuẩn bị tiến công hạt nhân vào các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc; mặt khác, họ ráo riết chuẩn bị tiến hành trả thù về quân sự.
Theo tố cáo của Trung Quốc, ngày 13/8/1969, phía Liên Xô sử dụng hàng trăm quân được xe tăng, thiết giáp yểm trợ vượt biên giới sang phục kích lực lượng biên phòng Trung Quốc ở khu vực Tilekati, huyện Dục Dân, Tân Cương, diệt gọn đội tuần tra Trung Quốc gồm 38 người.
Những người chủ trương cứng rắn với Trung Quốc trong quân đội Liên Xô chủ động bố trí các tên lửa tầm trung mang đầu đạn hạt nhân ở khu vực Viễn Đông nhằm vào các mục tiêu quan trọng về quân sự và chính trị của Trung Quốc, đe dọa “đánh đòn hạt nhân để phẫu thuật ngoại khoa”.
Để tranh thủ Mỹ giữ lập trường trung lập, Liên Xô thông báo với Mỹ ý đồ tiến công hạt nhân Trung Quốc.
Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích toàn cầu của Mỹ và trước nguy cơ bùng phát nguy cơ chiến tranh hạt nhân, Mỹ tuyên bố không thể khoanh tay ngồi nhìn.
Mỹ cố ý ban hành chỉ lệnh bằng loại mật mã đã bị Liên Xô phá giải: nếu xảy ra chiến tranh hạt nhân Trung-Xô, Mỹ sẽ tiến công hạt nhân vào hơn 130 mục tiêu chiến lược của Liên Xô. Mỹ còn cố ý tiết lộ ý đồ chiến tranh hạt nhân của Liên Xô cho báo chí.
Lãnh đạo Trung Quốc khi đó mới ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, vội lấy chuẩn bị chiến tranh làm sự bố trí chiến lược mới.
Các nhà lãnh đạo quan trọng của Trung Quốc đều được sơ tán, các hồ sơ tài liệu quan trọng được đưa về cất giấu ở vùng Tây Nam. Quân đội sơ tán 94 vạn quân, không quân sơ tán hơn 4.000 máy bay, hải quân sơ tán hơn 6.000 tàu chiến.
Hàng trăm triệu dân ở các thành phố bị cuốn vào trạng thái hành động chuẩn bị chiến tranh: các thành phố lớn khẩn cấp tổ chức các cuộc diễn tập phòng không; các hầm ngầm trú ẩn, công sự được xây dựng khắp nơi; tất cả các trường đại học bị di chuyển ra ngoài thành phố hoặc đến các nơi an toàn; kinh tế quốc dân chuyển sang trạng thái thời chiến; nhiều nhà máy xí nghiệp chuyển sang sản xuất vũ khí, thiết bị quốc phòng; nhiều nhà máy phải sơ tán đến các vùng núi.
Liên Xô bố trí hàng triệu quân sát biên giới Trung Quốc, đưa 20 vạn quân sang đồn trú ở Mông Cổ; hàng trăm máy bay ném bom có thể mang bom hạt nhân được triển khai tới khu vực Viễn Đông.
Mấy năm đầu thập niên 1970, cả nước Trung Quốc sống trong không khí căng thẳng trước chiến tranh.
Trong mấy cuộc chiến tranh với bên ngoài của Trung Quốc kể từ sau 1949, cuộc chiến Trung - Xô ở đảo Trân Bảo tuy có quy mô nhỏ nhất, nhưng nó lại suýt đẩy cả thế giới đến bên bờ cuộc chiến tranh hạt nhân, ảnh hưởng và hậu quả của nó vượt xa quy mô các vụ việc đã xảy ra trước đó.
Việc hai nước Trung, Xô tuốt gươm khỏi vỏ, cung đã giương tên khiến Mao Trạch Đông cuối cùng ý thức được rằng Trung Quốc không thể cùng lúc đối đầu và gây chiến với cả hai cường quốc Mỹ, Xô được; ông ta nhanh chóng nắm lấy “cành ô-liu” mà Washington chìa ra.
Quan hệ Trung - Mỹ bắt đầu hòa dịu. Có thể nói chuyến thăm Bắc Kinh của Nixon bắt đầu từ khói súng đảo Trân Bảo. Việc Trung, Mỹ tiếp cận nhau đã phá vỡ cục diện hai cực Mỹ, Xô thống trị thế giới.
Hòa giải, xuống thang và giải quyết triệt để vấn đề biên giới
Ngày 11/9/1969, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Alexei Nikolayevich Kosygin sau khi tới Hà Nội tham dự lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường về nước đã ghé qua Bắc Kinh, gặp gỡ Thủ tướng Chu Ân Lai và tiến hành cuộc hội đàm lịch sử ngay tại sân bay Bắc Kinh.
Hai bên đạt được Thỏa thuận 4 điểm: duy trì hiện trạng biên giới; ngăn ngừa xung đột vũ trang; lực lượng vũ trang hai bên ở sát biên giới rút về phía sau, tránh tiếp xúc…Sau đó tình hình hòa dịu dần.
Năm 1990, vấn đề quy thuộc đảo Trân Bảo được giải quyết; năm 1991, Nga thừa nhận đảo Trân Bảo thuộc về Trung Quốc.
Năm 2004, Trung Quốc và Nga ký kết Hiệp định đảo Hắc Hạt Tử (đảo Bolshoi Ussuriysky), tức “Hiệp ước bổ sung về đoạn phía Đông đường biên giới Trung - Nga”, Nga trả cho Trung Quốc toàn bộ đảo Ngân Long (Tarabarov), một phần đảo Hắc Hạt Tử và bãi Abaheitu trên sông Argun (Nội Mông) mà họ đang chiếm giữ cho Trung Quốc.
Tháng 4/2005, chính phủ Nga đã phê chuẩn Hiệp định này, một tháng trước đó Ủy ban thường vụ Quốc hội Trung Quốc cũng đã phê chuẩn.
Việc chuyển giao các đảo hoàn thành xong vào ngày 2 tháng 6 năm 2005 khi một thỏa ước được Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Lý Triệu Tinh và Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Lavrov ký dưới sự chứng kiến của Tổng thống Vladimir Putin và Chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Đến đây, toàn bộ đường biên giới Trung-Nga dài 4.300km được xác định xong. Tháng 10/2008, chính phủ hai nước đã tổ chức lễ khánh thành cột mốc phân định biên giới đoạn Đông giữa hai nước trên đảo Hắc Hạt Tử; vấn đề biên giới trên bộ giữa Trung Quốc và Nga đã được giải quyết.
Hiện nay đảo Trân Bảo cùng các đảo Thất Lý Tâm, Kabozi gần đó đều đã quy thuộc Trung Quốc.
Trên đảo Trân Bảo hiện nay có một đơn vị biên phòng đồn trú và tỉnh Hắc Long Giang đã tôn tạo lại các địa điểm xảy ra cuộc chiến năm xưa cùng với một phòng trưng bày, biến nơi này thành một điểm thu hút khách du lịch.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét