SGTT.VN - Trước vụ các nhà hoạt động Nhật Bản đến một
đảo đá thuộc quần đảo Senkaku để cắm cờ, tờ báo theo tinh thần chủ nghĩa
dân tộc cực đoan Trung Quốc là Thời báo Hoàn Cầu đe dọa sẽ sử dụng vũ
lực để phản kháng Nhật Bản. Phó giáo sư James Holmes của trường Cao đẳng
Hải quân Mỹ bình luận về khả năng xảy ra một cuộc chạm trán trên biển
giữa Trung Quốc và Nhật Bản, đồng thời phân tích tương quan lực lượng
hai nước.
Theo phó giáo sư James Holmes, trong cuộc chiến Trung -
Nhật năm 1894-1895, hạm đội của Hải quân hoàng gia Nhật Bản vừa được
thành lập dưới thời Minh Trị Duy Tân đã đập tan Hạm đội Bắc Dương của
Trung Quốc được coi là vượt trội hơn về mặt trang thiết bị. Cuộc chiến
này đã đảo ngược trật tự Trung Quốc là trung tâm của châu Á chỉ trong
một buổi chiều. Nhật Bản giành chiến thắng trong trận chiến trên sông Áp
Lục vào tháng 9-1984 nhờ nghệ thuật điều khiển tàu và thủy thủ trên
biển, pháo binh và tinh thần. Ngày nay lực lượng cảnh sát biển Nhật Bản
vẫn duy trì thành tích về mặt con người này từ cuộc chiến.
Xét về các con số, hải quân Nhật Bản tự hào có 48 tàu
chiến lớn trên mặt nước. Các tàu này được thiết kế để tấn công hạm đối
chính của kẻ thù trong khi đang lãnh đòn. Cảnh sát biển Nhật Bản (JMSDF)
còn có các tàu khu trục hạng nhẹ; các tàu khu trục có tên lửa dẫn đường
được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis, một radar kết hợp, máy tính và
hệ thống điều khiển hỏa lực; ngoài ra còn có một số ít tàu khu trục nhỏ,
tàu hộ tống; một phi đội 16 tàu ngầm chạy bằng diesel-điện.
Trong khi đó, Hải quân của Quân giải phóng nhân dân
Trung Quốc (PLA) có 73 tàu chiến lớn, 84 máy bay tuần tra trang bị tên
lửa và 63 tàu ngầm. Về mặt số lượng thì phía Trung Quốc vượt trội Nhật
Bản.
Tuy nhiên, những con số trên không bảo đảm một chiến thắng tuyệt đối vì 3 yếu tố.
Máy bay tuần tra của Nhật Bản canh gác quần đảo Senkaku. Ảnh: Reuters
|
Đầu tiên, như nhà chiến lược quân sự Edward Luttwak
(Trung tâm nghiên cứu chiến lược) nhận định, các vũ khí cũng giống như
những “chiếc hộp bí ẩn” cho đến khi chúng được đem ra sử dụng thực sự.
Một cuộc chiến, chứ không phải các cuộc thử nghiệm kĩ thuật, là trọng
tài công bằng về giá trị của công nghệ quân sự.
Điều này đặc biệt đúng khi xung đột nổ ra giữa một quốc
gia cởi mở với một quốc gia bí ẩn. Những quốc gia cởi mở thường công
khai tranh luận về các thất bại quân sự của mình, trong khi những quốc
gia khép kín sẽ tìm cách ém nhẹm nó đi.
Cuộc cạnh tranh giữa Hải quân Mỹ và Liên Xô (cũ) có thể
áp dụng trong tình hình tương tự với Nhật Bản và Trung Quốc. Hải quân
Liên Xô khi đó tỏ ra áp đảo trên mặt báo, nhưng tàu chiến Liên Xô trên
những vùng biển nóng suốt cuộc Chiến tranh lạnh thì lộ nhiều dấu hiệu
yếu kém như điều khiển tàu cẩu thả hoặc thân tàu bị gỉ. Tương tự vậy,
chất lượng và nguồn nhân lực của JMSDF có thể bù đắp một phần trước lợi
thế vượt trội về số lượng của Trung Quốc.
Điều thứ hai, trong cuộc chiến có những yếu tố con người không lường trước. Trong cuốn sách Trận chiến trên biển 1812 của
Theodore Roosevelt, ông lí giải Hải quân Mỹ thành công trong cuộc đối
đầu một - một với tàu của Hải quân Hoàng gia Anh nhờ các yếu tố về vật
liệu và con người.
Nói về yếu tố con người, ở đây có nghĩa là bàn về các
biện pháp điều khiển tàu biển, sử dụng pháo binh và vô số kĩ năng khác
của hải quân. Lính thủy đính bộ trau dồi các kĩ năng này không phải bằng
cách ngồi ở cảng và đánh bóng khí tài của mình, mà họ đi xuống biển và
luyện tập. Các đội tàu của JMSDF thường tổ chức luyện tập một mình hoặc
kết hợp với hải quân các nước khác, trong khi hải quân PLA thì trơ ra
đó!
Trong năm 2009, hải quân Trung Quốc cũng có triển khai
tàu đến vịnh Aden để tham gia chống cướp biển. Tuy nhiên hạm đội của
Trung Quốc đến đó chỉ để “diễu” hoặc thao diễn, khiến thủy thủ trên tàu
có rất ít thời gian để phát triển một nhịp hoạt động, học hỏi thêm về
nghề nghiệp của mình hay xây dựng các thói quen lành mạnh. Ở yếu tố con
người này thì Nhật Bản chiếm ưu thế.
Điều thứ ba, sẽ không chỉ có các tàu đối đầu với nhau.
Một phần đất đai rộng lớn của Nhật Bản gần với Trung Quốc, ngoài ra còn
có các đảo ở ngoại biên; Nhật Bản có các tàu sân bay trang bị nhiều tên
lửa; các căn cứ trên mặt đất được trang bị và củng cố cũng đóng góp sức
mạnh đáng gờm cho một cuộc chiến trên biển. Do vậy cũng cần phải tính
đến yếu tố hỏa lực từ mặt đất của hai quốc gia.
Nhật Bản tạo thành vòng cung phía bắc của chuỗi đảo đầu
tiên bao phủ bờ biển châu Á, tạo thành vùng biên giới phía Đông trên
biển Hoàng Hải và biển Hoa Đông. Trên eo biển Tsushima (ngăn cách Nhật
Bản với Hàn Quốc) không có hòn đảo nào, còn Đài Loan thì nằm cách bờ
biển Nhật Bản gần 805km. Trong vùng biển chật chội như vậy thì bất kỳ
chiến trường nào cũng sẽ rơi vào tầm bắn của hỏa lực trên bờ. Quân đội
cả hai nước đều sở hữu máy bay có bán kính chiến đấu không kích khắp các
vùng biển Hoàng Hải và biển Hoa Đông và đến tận phía Tây Thái Bình
Dương. Cả hai nước đều sở hữu tên lửa chống hạm bắn từ bờ biển (ASCM),
bổ sung cho sức mạnh hỗn hợp của mình.
Tuy nhiên vẫn có một số bất đối xứng. Tên lửa đạn đạo
thông thường của PLA có thể không kích mặt đất trên khắp châu Á, đặt
những tài sản của Nhật Bản và mối rủi ro trước khi có thể di dời. Nhánh
pháo binh thứ hai của Trung Quốc được cho là có sở hữu tên lửa đạn đạn
đạo chống hạm (ASBM) có thể bắn từ đất liền để hạ các mục tiêu tàu bè
đang di chuyển trên biển. Với tầm bắn ước tính hơn 1400km, ASBM có thể
tấn công bất cứ nơi nào trong vùng biển Trung Quốc, tại các cảng biển
khắp những đảo của Nhật Bản và xa hơn thế.
Quần đảo Senkaku được xem là tài sản khó bảo vệ nhất
trong quan điểm Nhật Bản. Quần đảo này nằm giữa cực tây nam của chuỗi
quần đảo Ryukyu, gần với Đài Loan hơn tỉnh Okinawa hay các đảo lớn của
Nhật Bản. Việc bảo vệ Senkaku từ các căn cứ ở xa không dễ dàng. Nhưng
nếu Nhật Bản triển khai hệ thống tên lửa di động Type 88 ASCM tới những
đảo nhỏ và các đảo gần chuỗi Ryukyu, đội quân mặt đất của Nhật Bản có
thể tạo ra các chiến trường hỏa lực chồng chéo và biến các vùng biển gần
đó thành vùng cấm đến đối với tàu Trung Quốc.
Bất kỳ quân đội nước nào kết hợp được sức mạnh lực
lượng hải quân, bộ binh, không quân để trở thành vũ khí sắt bén nhất cho
một cuộc đấu trên biển sẽ giành cơ hội chiến thắng. Cơ hội này có thể
thuộc về Nhật Bản nếu giới lãnh đạo chính trị và quân đội nước này suy
nghĩ sáng tạo, sắm sửa đúng loại vũ khí cần thiết và tận dụng được tối
ưu các khả năng của chúng. Rốt cuộc, Nhật Bản không cần phải đánh bại
quân đội Trung Quốc để giành chiến thắng trước một cuộc đối đầu trên
biển, vì nước này đang kiểm soát quần đảo Senkaku là mục tiêu tranh
chấp. Những gì Nhật Bản cần làm là chống Trung Quốc tiếp cận khu vực
này.
Nhật Bản có lợi thế là mật độ tập trung các lực lượng
của mình, trong khi Hải quân PLA thì phân tán thành ba hạm đội ra khắp
bờ biển dài của Trung Quốc. Các tướng lĩnh Trung Quốc đối diện với một
tình huống khó khăn: nếu họ huy động lực lượng để đạt số lượng lớn đè
bẹp Nhật Bản trong thì những khu vực khác của Trung Quốc sẽ không được
bảo vệ. Việc bỏ rơi biển Đông trong khi tham chiến ở Đông bắc á sẽ là
điều nguy hiểm với Trung Quốc.
Cuối cùng, các lãnh đạo Trung Quốc buộc phải xem xét
một cuộc chiến trên biển sẽ khiến sức mạnh hải quân của họ thụt lùi ra
sao. Trung Quốc đã đặt cược tương lai kinh tế và ngoại giao của mình vào
lực lượng hải quân. Tháng 12-2006, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã chỉ thị PLA
xây dựng “lực lượng hải quân hùng mạnh” để bảo vệ biên giới hàng hải
quốc gia - đặc biệt là các tuyến đường trên biển kết nối giữa những nhà
xuất khẩu năng lượng từ Ấn Độ Dương với Trung Quốc. Để thực hiện chỉ thị
này cần rất nhiều tàu, và Bắc Kinh có thể thấy vị thế cường quốc của
mình bị đảo ngược chỉ trong một buổi chiều sau khi đã mất nhiều đội tàu
trong cuộc đụng độ với Nhật Bản, cho dù là giành chiến thắng.
C.T. (Foreign Policy)
http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/sgtt.vn/Neu-xay-ra-chien-tranh-Trung--Nhat/9155748.epi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét