Đánh giá sức mạnh lục quân Trung Quốc.
Quân đội Trung Quốc đang trang bị lại bằng binh khí hiện đại và đang tiến hành các cuộc tập trận tiến công.
Trong đó thập kỷ gần đây, khả năng chiến đấu của Trung Quốc sự gia tăng nhanh chóng, trong khi nhiều người ở Nga và phương Tây vẫn lầm tưởng rằng, Trung Quốc vẫn đang sản xuất binh khí kỹ thuật chất lượng thấp và cũng chỉ ở mức loạt nhỏ.
Người ta biết rõ là sản xuất vũ khí trang bị ở mức loạt nhỏ đơn giản là bất lợi về mặt kinh tế (bởi lẽ sản xuất số lượng càng lớn thì đơn giá sẽ càng rẻ) và hoàn toàn vô nghĩa về mặt quân sự. Nếu như sản xuất binh khí kỹ thuật số lượng ít thì mỗi mẫu vũ khí sản xuất ra sẽ trở nên quý như vàng kể cả về ý nghĩa kinh tế lần quân sự. Nhưng do Nga và châu Âu hiện đang thực thi đúng cách làm này nên họ nghĩ cả Trung Quốc cũng đang làm như vậy. Trên thực tế, Trung Quốc thường thí nghiệm với các loại vũ khí trang bị khác nhau thuộc cùng chủng loại trong thời gian khá lâu để chọn ra mẫu tối ưu và khắc phục các nhược điểm khác nhau. Những mẫu thử nghiệm này quả thực là đang được sản xuất loạt nhỏ. Trong trường hợp này, người Trung Quốc tuên theo nguyên tắc của mình là “ném đá, qua sông” vốn đang áp dụng các cải cách của họ. Sau khi đạt được kết quả mà theo họ là tối ưu, họ chuyển sang sản xuất hàng loạt mẫu thành công nhất. Mức độ sản xuất loạt lớn mà cả châu Âu lẫn Nga không thể tưởng tượng được.
Không thể bỏ qua một yếu tố nữa. Nếu như xảy ra một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ, nó sẽ diễn ra trên biển và trên không. Do đó, trên các ấn phẩm báo chí in của Mỹ và phương Tây nói chung, người ta dành sự chú ý nhiều nhất cho sự phát triển của hải quân và không quân Trung Quốc. Ở Nga, người ta đơn giản là chép lại các nguồn tin phương Tây này, điều có vẻ hơi lạ. Bởi lẽ, Nga có đường biên giới trên bộ dài 4,3 ngàn km với Trung Quốc. Hơn nữa, những yêu sách lãnh thổ lớn của Trung Quốc đối với Nga vẫn còn đó.
Với lục quân Trung Quốc cũng đang diễn ra điều đang xảy ra với không quân và hải quân của họ - đó là sự đổi mới chất lượng nhanh chóng trong khi vẫn duy trì các thông số số lượng.
Mặc dù có sự cắt giảm đáng kể về quân số trong thập kỷ 1980, quân đội Trung Quốc vẫn là quân đội lớn nhất thế giới về thông số này về số, trong khi đã cải thiện mạnh mẽ về chất. Nhờ quá dư thừa nguồn tuyển quân, lục quân thời bình kết hợp được những ưu điểm của quân đội chuyên nghiệp (ký hợp đồng) và nghĩa vụ. Một mặt, công dân nhập ngũ để phụng sự tổ quốc chứ không phải vì tiền (tức là theo nghĩa vụ), mặt khác sự thừa mứa nhân lực cho phép lựa chọn những ứng viên tốt nhất cho quân ngũ (trước hết đó là thanh niên thành phố), nhiều người trong số họ sau đó ở lại phục vụ theo hợp đồng.
Những thanh niên không được gọi nhập ngũ quân đội Trung Quốc (thường là thanh niên nông thôn với trình độ văn hóa thấp) thì được huấn luyện quân sự sơ bộ và rõ ràng sẽ tạo thành một quân đội đông đảo khi xảy ra chiến tranh lớn. Để phòng trường hợp chiến tranh lớn, Trung Quốc vẫn duy trì đầy đủ hệ thống động viên (đối với cả dân chúng, lẫn với công nghiệp). Vì lý do tương tự, phần lớn các binh đoàn lục quân Trung Quốc vẫn là các sư đoàn. Chỉ có một số lượng nhỏ các sư đoàn được cải tổ thành lữ đoàn. Các lữ đoàn này là dùng để tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ, nhưng nền tảng vẫn là các sư đoàn dùng cho chiến tranh quy mô lớn.
Hết tốc lực thay thế xe tăng
Trung Quốc đang xây dựng lực lượng xe tăng khổng lồ nhất thế giới chính là dành cho cuộc chiến tranh lớn này. Ở đây, ta cần một lần nữa lưu ý là không thể tiến hành một cuộc chiến bình thường nếu không có xe tăng. Chân lý cũ rích này cần phải nhắc lại bởi vì xe tăng liên tục bị người ta “chôn cất” khi nói rằng, nó đã lỗi thời. Trong những tuyên bố đó tồn tại một mâu thuẫn nội bộ sâu sắc mà vì sao đó không ai nhận ra. Từ giác độ “những người chôn cất” xe tăng, nó đã lỗi thời vì đã trở nên quá dễ tổn thương, nhưng không hề đưa ra những cáo buộc nào khác. Quả thực, trên toàn thế giới người ta đã đầu tư hàng tỷ đô la để phát triển vũ khí chống tăng và đã chế tạo ra nhiều vũ khí này. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ bất kỳ lớp binh khí kỹ thuật mặt đất nào khác cũng đều dễ bị tổn thương hơn xe tăng một vài chục lần. Nếu như xe tăng đã lỗi thời vì lý do dễ bị tổn thương, tức là hoàn toàn không thể tiến hành chiến tranh mặt đất nữa. Điều đó có mà có thể thảo luận một cách nghiêm túc. Không có và sẽ không có gì có thể sánh nổi xe tăng từ góc độ sự kết hợp sức mạnh hỏa lực, tính cơ động và khả năng bảo vệ.
Lục quân Trung Quốc đã nhận được không dưới 4.000 xe tăng hiện đại Туре-96 và Туре-99, hơn nữa việc thay thế xe tăng cũ bằng xe tăng mới đang thực hiện theo nguyên tắc một đổi một. Tức là sự đổi mới triệt để về chất không dẫn đến sự cắt giảm về số lượng. Các xe tăng Туре-96/96А đã được biên chế cho tất cả 7 đại quân khu của quân đội Trung Quốc, Туре-99 hiện mới trang bị cho 3 đại quân khu Thẩm Dương, Bắc Kinh và Lan Châu (chính là những đại quân khu tiếp giáp biên giới với Nga). Hơn nữa, Type-99 cũng sẽ dần xuất hiện ở tất cả các đại quân khu mặc dù trong sách báo của Nga đến nay vẫn có thể gặp những câu nói rằng, xe tăng này hiện chỉ được cung cấp với số lượng hạn chế cho các đơn vị tinh nhuệ. Làm sao mà trong quân đội Trung Quốc hiện nay lại có nhiều đơn vị tinh nhuệ thế…
Không thể không nói đến việc vào tháng 5/2012, trong các trận đánh giành thành phố tranh chấp Heglig, các xe tăng Туре-96 của quân đội Sudan đã bắn cháy không dưới 4 xe tăng Т-72 của Nam Sudan (mua từ Ukraine) mà không chịu tổn thất gì. Như vậy là các xe tăng có số lượng lớn nhất của Trung Quốc đã không thua kém gì loại xe tăng đông đảo nhất của Nga về chất lượng. Thật khó lý giải kết cục các trận đánh ở Heglig là do trình độ huấn luyện tồi của lính xe tăng Nam Sudan, vì không có cơ sở nào để nói rằng, lính xe tăng Sudan thì được huấn luyện tốt hơn. Dĩ nhiên là có thể giả định các kíp xe Туре-96 là lính Trung Quốc, nhưng cả các kíp xe Т-72 cũng hoàn toàn có thể là người Đông Slavơ…
Hệ thống rocket phóng loạt uy lực nhất
Trung Quốc đã chế tạo được cả một họ xe chiến đấu lội nước mà đi đầu là xe chiến đấu bộ binh WZ-502 (còn có tên là ZBD-04) lắp tháp của xe chiến đấu bộ binh Nga BMP-3 (lính thủy đánh bộ Trung Quốc đã được trang bị đến 300 xe này, việc sản xuất đang tiếp tục). Dĩ nhiên là đặc tính bơi nước bị tất cả các chuyên gia trên thế giới đánh giá dưới góc độ sự chuẩn bị cho cuộc đổ bộ lên Đài Loan, mặc dù các xe này có thể bơi ngon qua sông Amur hay Ussuri trên biên giới với Nga chẳng hạn.
Tuy nhiên, sau đó, quân đội Trung Quốc nhận ra là khả năng bơi nước dẫn tới khả năng bảo vệ bị suy yếu. Sau đó, họ đã chế tọ biến thể mới của xe chiến đấu bộ binh này là WZ-502G. Nhờ tăng cường vỏ giáp bảo vệ, xe WZ-502G không còn khả năng bơi nữa. Đổi lại, theo các nguồn tin Trung Quốc, tháp xe WZ-502G, cũng như phần trước thân xe chống chịu được đạn xuyên giáp 30 mm bắn từ cự ly 1 km, còn hai bên thân xe chịu được đạn 14,5 mm bắn từ cự ly 200 m.
Một sự trùng hợp thú vị là 30 mm là cỡ đạn của pháo 2А42, vũ khí chính của xe chiến đấu bộ binh BMP-2 của Nga. Trong khi đó, xe chiến đấu bộ binh Bradley của Mỹ lắp pháo M242 cỡ 25 mm. Còn 14,5 mm là cỡ đạn rất ít có. Chỉ có duy nhất một súng máy có cỡ đạn này là KPVT, vũ khí chính của tất cả các xe bọc thép chở quân cũng của Nga. Cỡ đạn lớn nhất của các súng máy phương Tây là 12,7 mm.
Ngoài các xe chiến đấu bộ binh mới nhất, Trung Quốc còn đưa vào trang bị cho quân đội các loại xe bọc thép chở quân và ô tô bọc thép, trong đó thú vị là có cả các xe chế tạo theo công ngệ MRAP, tức là xe dùng cho chiến tranh chống du kích.
Pháo có nòng đang phát triển nhanh, chẳng hạn đang đưa vào trang bị pháo tự hành 155 mm PLZ-05 (đã chuyển giao không dưới 250 khẩu).
Thông thường, mặt mạnh nhất của lục quân Trung Quốc là pháo phản lực. Nước này đã chế tạo nhiều mẫu hệ thống rocket phóng loạt trên cơ sở các mẫu của Liên Xô, cũng như các mẫu hoàn toàn tự phát triển. Điều logic là chính Trung Quốc đã phát triển được hệ thống rocket phóng loạt uy lực nhất và tầm bắn xa nhất thế giới là WS-2 (6х400 mm) mà các biến thể đầu của nó có tầm bắn 200 km, còn các biến thể cuối (WS-2D) có tầm bắn 350-400 km. Cả MRLS và HIMARS của Mỹ lẫn Smerch của Nga đều không có tính năng dù là gần gần với WS-2.
Nhìn chung, sử dụng hệ thống rocket phóng loạt bắn mục tiêu diện mặt đất có lợi hơn nhiều là sử dụng máy bay. Bởi lẽ, ở đây không có rủi ro mất chiếc máy bay cực kỳ đắt tiền và thêm nữa là tổ lái tốn kém còn hơn nữa cho huấn luyện, cũng không tốn nhiên liệu vốn cũng rất đắt. Chỉ có đạn dược là bị tiêu hao, nhưng đạn của hệ thống rocket phóng loạt cũng rẻ hơn bom đạn máy bay.
Độ chính xác bắn kém của hệ thống rocket phóng loạt được bù đắp bởi số lượng đạn lớn bắn trong một loạt. Ngoài ra, hiện nay cả đạn cho hệ thống rocket phóng loạt cũng đang trở thành đạn có điều khiển. Các loại đạn của WS-2 thuộc loại này. Hơn nữa, mỗi bệ phóng của hệ thống rocket phóng loạt này sẽ có một máy bay không người lái trinh sát riêng, nên tăng được hơn nữa độ chính xác bắn.
Hệ thống rocket phóng loạt có ưu thế đáng kể so với cả tên lửa chiến thuật về sức mạnh chiến đấu trong khi giá cả đạn dược lại rẻ hơn. Tầm bắn không đủ xa lâu nay vẫn bị coi là nhược điểm cơ bản của hệ thống rocket phóng loạt so với máy bay và tên lửa chiến thuật. Nhưng nay thì người Trung Quốc đã khắc phục được nhược điểm này.
Không thể không lưu ý đến việc từ sâu bên trong khu vực Mãn Châu Lý, WS-2D có khả năng tiêu diệt chớp nhoáng tất cả các đơn vị quân đội Nga tại các khu vực Vladivostok-Ussuryisk, Khabarovsk và Blagoveshchensk-Belogorsk. Còn từ các vùng giáp biên của Mãn Châu Lý (nhưng vẫn là từ lãnh thổ Trung Quốc), hệ thống rocket phóng loạt này sẽ tiêu diệt quân đội và các căn cứ không quân của Nga ở khu vực Chita và các xí nghiệp chiến lược ở Komsomolsk trên sông Amur. Hơn nữa, các quả đạn cỡ nhỏ của WS-2D lại có tốc độ siêu vượt âm, thời gian chúng bay hết tầm tối đa cũng không quá 5 phút. Phòng không Nga không chỉ không thể tiêu diệt, mà ngay cả phát hiện chúng cũng không thể.
Đồng thời, sẽ hoàn toàn không thể phát hiện việc triển khai các hệ thống rocket phóng loạt trên lãnh thổ Trung Quốc bởi lẽ các bệ phóng của chúng trông giống các xe tải bình thường, thậm chí các ống dẫn hướng cũng có hình hộp rất dễ ngụy trang thành thùng xe tải. Và đây không phải là hệ thống vũ khí phòng thủ mà là hệ thống thuần túy tấn công, đột kích.
Các tên lửa Tomahawk của Mỹ dĩ nhiên có tầm bắn xa hơn nhiều, nhưng chỉ có tốc độ dưới âm, bởi vậy, thời gian bay hết tầm tối đa không phải là 5 phút mà là 2 giờ. Ngoài ra, các bệ phóng của chúng (tàu tuần dương và tàu khu trục) chắc chắn là không dễ dàng ngụy trang. Ngoài ra, NATO không có cái gì khác có thể so sánh xa xôi về tính năng với WS-2.
Cho đến gần đây, mặt yếu của lục quân Trung Quốc là không có một trực thăng tiến công thực thụ. Z-9 chế tạo trên cơ sở trực thăng Pháp Dauphin có thể được coi là trực thăng tiến công một cách rất khiên cưỡng. Nhưng nay vấn đề này đã được vượt qua khi Trung Quốc đang đưa vào trang bị trực thăng WZ-10 được phát triển trên cơ sở sử dụng các công nghệ Nga và phương Tây. Lục quân Trung Quốc hiện đã có 60 trực thăng này, việc sản xuất đang được tiếp tục.
Trong đó thập kỷ gần đây, khả năng chiến đấu của Trung Quốc sự gia tăng nhanh chóng, trong khi nhiều người ở Nga và phương Tây vẫn lầm tưởng rằng, Trung Quốc vẫn đang sản xuất binh khí kỹ thuật chất lượng thấp và cũng chỉ ở mức loạt nhỏ.
Người ta biết rõ là sản xuất vũ khí trang bị ở mức loạt nhỏ đơn giản là bất lợi về mặt kinh tế (bởi lẽ sản xuất số lượng càng lớn thì đơn giá sẽ càng rẻ) và hoàn toàn vô nghĩa về mặt quân sự. Nếu như sản xuất binh khí kỹ thuật số lượng ít thì mỗi mẫu vũ khí sản xuất ra sẽ trở nên quý như vàng kể cả về ý nghĩa kinh tế lần quân sự. Nhưng do Nga và châu Âu hiện đang thực thi đúng cách làm này nên họ nghĩ cả Trung Quốc cũng đang làm như vậy. Trên thực tế, Trung Quốc thường thí nghiệm với các loại vũ khí trang bị khác nhau thuộc cùng chủng loại trong thời gian khá lâu để chọn ra mẫu tối ưu và khắc phục các nhược điểm khác nhau. Những mẫu thử nghiệm này quả thực là đang được sản xuất loạt nhỏ. Trong trường hợp này, người Trung Quốc tuên theo nguyên tắc của mình là “ném đá, qua sông” vốn đang áp dụng các cải cách của họ. Sau khi đạt được kết quả mà theo họ là tối ưu, họ chuyển sang sản xuất hàng loạt mẫu thành công nhất. Mức độ sản xuất loạt lớn mà cả châu Âu lẫn Nga không thể tưởng tượng được.
Không thể bỏ qua một yếu tố nữa. Nếu như xảy ra một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Mỹ, nó sẽ diễn ra trên biển và trên không. Do đó, trên các ấn phẩm báo chí in của Mỹ và phương Tây nói chung, người ta dành sự chú ý nhiều nhất cho sự phát triển của hải quân và không quân Trung Quốc. Ở Nga, người ta đơn giản là chép lại các nguồn tin phương Tây này, điều có vẻ hơi lạ. Bởi lẽ, Nga có đường biên giới trên bộ dài 4,3 ngàn km với Trung Quốc. Hơn nữa, những yêu sách lãnh thổ lớn của Trung Quốc đối với Nga vẫn còn đó.
Với lục quân Trung Quốc cũng đang diễn ra điều đang xảy ra với không quân và hải quân của họ - đó là sự đổi mới chất lượng nhanh chóng trong khi vẫn duy trì các thông số số lượng.
Mặc dù có sự cắt giảm đáng kể về quân số trong thập kỷ 1980, quân đội Trung Quốc vẫn là quân đội lớn nhất thế giới về thông số này về số, trong khi đã cải thiện mạnh mẽ về chất. Nhờ quá dư thừa nguồn tuyển quân, lục quân thời bình kết hợp được những ưu điểm của quân đội chuyên nghiệp (ký hợp đồng) và nghĩa vụ. Một mặt, công dân nhập ngũ để phụng sự tổ quốc chứ không phải vì tiền (tức là theo nghĩa vụ), mặt khác sự thừa mứa nhân lực cho phép lựa chọn những ứng viên tốt nhất cho quân ngũ (trước hết đó là thanh niên thành phố), nhiều người trong số họ sau đó ở lại phục vụ theo hợp đồng.
Những thanh niên không được gọi nhập ngũ quân đội Trung Quốc (thường là thanh niên nông thôn với trình độ văn hóa thấp) thì được huấn luyện quân sự sơ bộ và rõ ràng sẽ tạo thành một quân đội đông đảo khi xảy ra chiến tranh lớn. Để phòng trường hợp chiến tranh lớn, Trung Quốc vẫn duy trì đầy đủ hệ thống động viên (đối với cả dân chúng, lẫn với công nghiệp). Vì lý do tương tự, phần lớn các binh đoàn lục quân Trung Quốc vẫn là các sư đoàn. Chỉ có một số lượng nhỏ các sư đoàn được cải tổ thành lữ đoàn. Các lữ đoàn này là dùng để tiến hành các cuộc chiến tranh cục bộ, nhưng nền tảng vẫn là các sư đoàn dùng cho chiến tranh quy mô lớn.
Giống như hải quân và không quân, lục quân Trung Quốc đang đổi mới nhanh chóng chất lượng, trong khi vẫn giữ nguyên số lượng |
Hết tốc lực thay thế xe tăng
Trung Quốc đang xây dựng lực lượng xe tăng khổng lồ nhất thế giới chính là dành cho cuộc chiến tranh lớn này. Ở đây, ta cần một lần nữa lưu ý là không thể tiến hành một cuộc chiến bình thường nếu không có xe tăng. Chân lý cũ rích này cần phải nhắc lại bởi vì xe tăng liên tục bị người ta “chôn cất” khi nói rằng, nó đã lỗi thời. Trong những tuyên bố đó tồn tại một mâu thuẫn nội bộ sâu sắc mà vì sao đó không ai nhận ra. Từ giác độ “những người chôn cất” xe tăng, nó đã lỗi thời vì đã trở nên quá dễ tổn thương, nhưng không hề đưa ra những cáo buộc nào khác. Quả thực, trên toàn thế giới người ta đã đầu tư hàng tỷ đô la để phát triển vũ khí chống tăng và đã chế tạo ra nhiều vũ khí này. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ bất kỳ lớp binh khí kỹ thuật mặt đất nào khác cũng đều dễ bị tổn thương hơn xe tăng một vài chục lần. Nếu như xe tăng đã lỗi thời vì lý do dễ bị tổn thương, tức là hoàn toàn không thể tiến hành chiến tranh mặt đất nữa. Điều đó có mà có thể thảo luận một cách nghiêm túc. Không có và sẽ không có gì có thể sánh nổi xe tăng từ góc độ sự kết hợp sức mạnh hỏa lực, tính cơ động và khả năng bảo vệ.
Lục quân Trung Quốc đã nhận được không dưới 4.000 xe tăng hiện đại Туре-96 và Туре-99, hơn nữa việc thay thế xe tăng cũ bằng xe tăng mới đang thực hiện theo nguyên tắc một đổi một. Tức là sự đổi mới triệt để về chất không dẫn đến sự cắt giảm về số lượng. Các xe tăng Туре-96/96А đã được biên chế cho tất cả 7 đại quân khu của quân đội Trung Quốc, Туре-99 hiện mới trang bị cho 3 đại quân khu Thẩm Dương, Bắc Kinh và Lan Châu (chính là những đại quân khu tiếp giáp biên giới với Nga). Hơn nữa, Type-99 cũng sẽ dần xuất hiện ở tất cả các đại quân khu mặc dù trong sách báo của Nga đến nay vẫn có thể gặp những câu nói rằng, xe tăng này hiện chỉ được cung cấp với số lượng hạn chế cho các đơn vị tinh nhuệ. Làm sao mà trong quân đội Trung Quốc hiện nay lại có nhiều đơn vị tinh nhuệ thế…
Không thể không nói đến việc vào tháng 5/2012, trong các trận đánh giành thành phố tranh chấp Heglig, các xe tăng Туре-96 của quân đội Sudan đã bắn cháy không dưới 4 xe tăng Т-72 của Nam Sudan (mua từ Ukraine) mà không chịu tổn thất gì. Như vậy là các xe tăng có số lượng lớn nhất của Trung Quốc đã không thua kém gì loại xe tăng đông đảo nhất của Nga về chất lượng. Thật khó lý giải kết cục các trận đánh ở Heglig là do trình độ huấn luyện tồi của lính xe tăng Nam Sudan, vì không có cơ sở nào để nói rằng, lính xe tăng Sudan thì được huấn luyện tốt hơn. Dĩ nhiên là có thể giả định các kíp xe Туре-96 là lính Trung Quốc, nhưng cả các kíp xe Т-72 cũng hoàn toàn có thể là người Đông Slavơ…
Hệ thống rocket phóng loạt uy lực nhất
Tuy nhiên, sau đó, quân đội Trung Quốc nhận ra là khả năng bơi nước dẫn tới khả năng bảo vệ bị suy yếu. Sau đó, họ đã chế tọ biến thể mới của xe chiến đấu bộ binh này là WZ-502G. Nhờ tăng cường vỏ giáp bảo vệ, xe WZ-502G không còn khả năng bơi nữa. Đổi lại, theo các nguồn tin Trung Quốc, tháp xe WZ-502G, cũng như phần trước thân xe chống chịu được đạn xuyên giáp 30 mm bắn từ cự ly 1 km, còn hai bên thân xe chịu được đạn 14,5 mm bắn từ cự ly 200 m.
Một sự trùng hợp thú vị là 30 mm là cỡ đạn của pháo 2А42, vũ khí chính của xe chiến đấu bộ binh BMP-2 của Nga. Trong khi đó, xe chiến đấu bộ binh Bradley của Mỹ lắp pháo M242 cỡ 25 mm. Còn 14,5 mm là cỡ đạn rất ít có. Chỉ có duy nhất một súng máy có cỡ đạn này là KPVT, vũ khí chính của tất cả các xe bọc thép chở quân cũng của Nga. Cỡ đạn lớn nhất của các súng máy phương Tây là 12,7 mm.
Ngoài các xe chiến đấu bộ binh mới nhất, Trung Quốc còn đưa vào trang bị cho quân đội các loại xe bọc thép chở quân và ô tô bọc thép, trong đó thú vị là có cả các xe chế tạo theo công ngệ MRAP, tức là xe dùng cho chiến tranh chống du kích.
Pháo có nòng đang phát triển nhanh, chẳng hạn đang đưa vào trang bị pháo tự hành 155 mm PLZ-05 (đã chuyển giao không dưới 250 khẩu).
Thông thường, mặt mạnh nhất của lục quân Trung Quốc là pháo phản lực. Nước này đã chế tạo nhiều mẫu hệ thống rocket phóng loạt trên cơ sở các mẫu của Liên Xô, cũng như các mẫu hoàn toàn tự phát triển. Điều logic là chính Trung Quốc đã phát triển được hệ thống rocket phóng loạt uy lực nhất và tầm bắn xa nhất thế giới là WS-2 (6х400 mm) mà các biến thể đầu của nó có tầm bắn 200 km, còn các biến thể cuối (WS-2D) có tầm bắn 350-400 km. Cả MRLS và HIMARS của Mỹ lẫn Smerch của Nga đều không có tính năng dù là gần gần với WS-2.
Nhìn chung, sử dụng hệ thống rocket phóng loạt bắn mục tiêu diện mặt đất có lợi hơn nhiều là sử dụng máy bay. Bởi lẽ, ở đây không có rủi ro mất chiếc máy bay cực kỳ đắt tiền và thêm nữa là tổ lái tốn kém còn hơn nữa cho huấn luyện, cũng không tốn nhiên liệu vốn cũng rất đắt. Chỉ có đạn dược là bị tiêu hao, nhưng đạn của hệ thống rocket phóng loạt cũng rẻ hơn bom đạn máy bay.
Độ chính xác bắn kém của hệ thống rocket phóng loạt được bù đắp bởi số lượng đạn lớn bắn trong một loạt. Ngoài ra, hiện nay cả đạn cho hệ thống rocket phóng loạt cũng đang trở thành đạn có điều khiển. Các loại đạn của WS-2 thuộc loại này. Hơn nữa, mỗi bệ phóng của hệ thống rocket phóng loạt này sẽ có một máy bay không người lái trinh sát riêng, nên tăng được hơn nữa độ chính xác bắn.
Hệ thống rocket phóng loạt có ưu thế đáng kể so với cả tên lửa chiến thuật về sức mạnh chiến đấu trong khi giá cả đạn dược lại rẻ hơn. Tầm bắn không đủ xa lâu nay vẫn bị coi là nhược điểm cơ bản của hệ thống rocket phóng loạt so với máy bay và tên lửa chiến thuật. Nhưng nay thì người Trung Quốc đã khắc phục được nhược điểm này.
Không thể không lưu ý đến việc từ sâu bên trong khu vực Mãn Châu Lý, WS-2D có khả năng tiêu diệt chớp nhoáng tất cả các đơn vị quân đội Nga tại các khu vực Vladivostok-Ussuryisk, Khabarovsk và Blagoveshchensk-Belogorsk. Còn từ các vùng giáp biên của Mãn Châu Lý (nhưng vẫn là từ lãnh thổ Trung Quốc), hệ thống rocket phóng loạt này sẽ tiêu diệt quân đội và các căn cứ không quân của Nga ở khu vực Chita và các xí nghiệp chiến lược ở Komsomolsk trên sông Amur. Hơn nữa, các quả đạn cỡ nhỏ của WS-2D lại có tốc độ siêu vượt âm, thời gian chúng bay hết tầm tối đa cũng không quá 5 phút. Phòng không Nga không chỉ không thể tiêu diệt, mà ngay cả phát hiện chúng cũng không thể.
Đồng thời, sẽ hoàn toàn không thể phát hiện việc triển khai các hệ thống rocket phóng loạt trên lãnh thổ Trung Quốc bởi lẽ các bệ phóng của chúng trông giống các xe tải bình thường, thậm chí các ống dẫn hướng cũng có hình hộp rất dễ ngụy trang thành thùng xe tải. Và đây không phải là hệ thống vũ khí phòng thủ mà là hệ thống thuần túy tấn công, đột kích.
Các tên lửa Tomahawk của Mỹ dĩ nhiên có tầm bắn xa hơn nhiều, nhưng chỉ có tốc độ dưới âm, bởi vậy, thời gian bay hết tầm tối đa không phải là 5 phút mà là 2 giờ. Ngoài ra, các bệ phóng của chúng (tàu tuần dương và tàu khu trục) chắc chắn là không dễ dàng ngụy trang. Ngoài ra, NATO không có cái gì khác có thể so sánh xa xôi về tính năng với WS-2.
Cho đến gần đây, mặt yếu của lục quân Trung Quốc là không có một trực thăng tiến công thực thụ. Z-9 chế tạo trên cơ sở trực thăng Pháp Dauphin có thể được coi là trực thăng tiến công một cách rất khiên cưỡng. Nhưng nay vấn đề này đã được vượt qua khi Trung Quốc đang đưa vào trang bị trực thăng WZ-10 được phát triển trên cơ sở sử dụng các công nghệ Nga và phương Tây. Lục quân Trung Quốc hiện đã có 60 trực thăng này, việc sản xuất đang được tiếp tục.
Nguồn: Trung Quốc sẵn sàng đánh lớn / Aleksandr Khramchikhin, Phó Giám đốc Viện Phân tích chính trị và quân sự // VPK, 12.6.2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét