Tầu ngầm chiến đấu từng là cơn ác mộng của mọi hạm đội hùng mạnh nhất trên thế giới, ngay từ khi ra đời. Việc phát triển các loại vũ khí để chống lại hiểm họa tầu ngầm vốn là việc làm tất yếu của mọi chuyên gia quân sự.
Tháng 6/1914, trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra hai tháng, Percy Scott, đô đốc Anh gửi thư cho hai tòa soạn báo lớn trong nước. Lá thư thứ nhất, ông viết: “...cũng như ô tô đang thay thế dần những chiếc xe ngựa trên khắp mọi nẻo đường, tầu ngầm sẽ là phương tiện sớm thay thế các thiết giáp hạm trên chiến trường ngoài biển...”. Lá thư còn lại có nội dung: “...tầu ngầm và không quân sẽ là một cuộc cách mạng trong chiến lược hàng hải; không một hạm đội nào có thể thoát khỏi sự săn đuổi của không quân và những chiếc tầu ngầm có thể tung những đòn trí mạng một cách bất ngờ ngay giữa ban ngày...”.
Thế nhưng, những lá thư của Scott chỉ nhận được sự chế nhạo của công chúng, các đô đốc khác cũng như cả chính phủ Anh, những người này cho rằng, lý thuyết của ông đơn giản chỉ là “một giấc mơ ngu ngốc”.
Tuy nhiên, ngày 5/9/1914, người Đức đã chứng thực lời nói của Percy Scott khi chiếc tầu ngầm U-21 của nước này đánh chìm tuần dương hạm “Pathfinder” của Anh với một quả ngư lôi duy nhất; chỉ có 9 trong số 268 thủy thủ trên tầu sống sót! Khi đó, Hải quân Anh nhìn thấy bóng đen của tử thần ẩn nấp dưới biển sâu nhưng không thể làm gì nó.
Thế nhưng, những lá thư của Scott chỉ nhận được sự chế nhạo của công chúng, các đô đốc khác cũng như cả chính phủ Anh, những người này cho rằng, lý thuyết của ông đơn giản chỉ là “một giấc mơ ngu ngốc”.
Tuy nhiên, ngày 5/9/1914, người Đức đã chứng thực lời nói của Percy Scott khi chiếc tầu ngầm U-21 của nước này đánh chìm tuần dương hạm “Pathfinder” của Anh với một quả ngư lôi duy nhất; chỉ có 9 trong số 268 thủy thủ trên tầu sống sót! Khi đó, Hải quân Anh nhìn thấy bóng đen của tử thần ẩn nấp dưới biển sâu nhưng không thể làm gì nó.
Những chiếc tầu ngầm chiến đấu đầu tiên (U-boat) của Đức là cơn ác mộng của các hạm đội đồng minh trong thế chiến thứ nhất |
Những câu hỏi đầu tiên về vũ khí chống ngầm đã được đặt ra. Liệu vũ khí gì có thể tiêu diệt được những chiếc tầu ngầm Đức dài 70 mét, dãn nước 1.500 tấn, có tốc độ tối đa tới 28,3 km/h, tầm hoạt động 20.300 km, trang bị 19 ngư lôi, hai khẩu pháo 150 mm với 1.000 viên đạn và hoàn toàn “vô hình”?
Bom chìm - Vũ khí chống ngầm đầu tiên của loài người
Bom chìm (Depth Charge) là thứ đầu tiên các chuyên gia quân sự có thể nghĩ đến để đối đầu với tầu ngầm. Về kết cấu, bom chìm rất đơn giản, nó chỉ là một thùng chứa thuốc nổ mạnh, được đặt một cơ cấu thủy lực cho phép quả bom này tự phát nổ ở một độ sâu nhất định.
Độ sâu của tầu ngầm sẽ được xác định bằng một hệ thống các dây tín hiệu được thả xuống dưới. Những sợi dây tín hiệu này được gọi là ASDIC - hệ thống săn tìm và phát hiện tầu ngầm của quân đội đồng minh.
Bom chìm - Vũ khí chống ngầm đầu tiên của loài người
Bom chìm (Depth Charge) là thứ đầu tiên các chuyên gia quân sự có thể nghĩ đến để đối đầu với tầu ngầm. Về kết cấu, bom chìm rất đơn giản, nó chỉ là một thùng chứa thuốc nổ mạnh, được đặt một cơ cấu thủy lực cho phép quả bom này tự phát nổ ở một độ sâu nhất định.
Độ sâu của tầu ngầm sẽ được xác định bằng một hệ thống các dây tín hiệu được thả xuống dưới. Những sợi dây tín hiệu này được gọi là ASDIC - hệ thống săn tìm và phát hiện tầu ngầm của quân đội đồng minh.
Những quả bom chìm đầu tiên được chế tạo vào năm 1915 rất đơn giản, chỉ gồm một thùng thuốc nổ cùng một cơ cấu giúp nó nổ ở độ sâu nhất định. |
Khi có tầu ngầm, nó sẽ làm mất tín hiệu của hệ thống ASDIC đặt tại độ sâu của nó đi qua, do đó các tầu nổi phía trên sẽ xác định được độ sâu và vị trí tầu ngầm. Khi tầu ngầm bị phát hiện, các quả bom chìm sẽ được đặt chế độ nổ, sau đó lăn xuống bằng tay, hay bằng các cơ cấu phóng thô sơ.
Cơ cấu thủy lực sẽ cho phép bom chìm có thể nổ ở độ sâu tối đa lên tới 170 mét.
Bom chìm nằm trên bệ phóng. |
Mặc dù vậy, bom chìm không phát huy mấy hiệu quả do thường được thả "hú họa" trên diện rộng. Trong khi với vỏ thép dày, tầu ngầm của Đức khi đó, không hề hấn gì nếu bom chìm nổ cách tầu ngầm trên 5m. Trong suốt giai đoạn, từ năm 1915 - 1917, bom chìm chỉ phá hủy được 9 chiếc tầu ngầm U-boat trong số hơn 300 tầu ngầm của Đức.
Một số cải tiến về hệ thống dò tìm bằng từ trường cùng việc nâng cấp thiết bị phóng mới cho bom chìm, vũ khí này đã có bước cải tiến đáng kể khi đánh chìm được thêm 21 chiếc tầu ngầm U-boat nữa.
Nhiều tầu ngầm Đức trúng bom chìm, phải nổi lên mặt nước để làm mồi cho các cỡ súng từ tầu chiến đã đợi sẵn trên mặt biển, hay đơn giản là các tầu chiến khổng lồ chỉ cần chạy qua là có thể kết liễu chiếc tầu ngầm xấu số.
Một chiếc tầu săn ngầm đang rải bom chìm |
Trong quá trình tồn tại và phát triển, người ta đã nghĩ ra rất nhiều ý tưởng cho bom chìm, từ tăng khối lượng đến hàng tấn cho đến cả những ý tưởng như sử dụng đầu đạn hạt nhân cho vào bom, nhằm hủy diệt cả hạm đội tầu ngầm.
Nhờ tính hiệu quả nhất định và sự bế tắc trong chiến thuật chống ngầm, bom chìm vẫn là vũ khí chống ngầm duy nhất của các tầu nổi cho đến năm 1942, khi ngư lôi tự dẫn và rocket chống ngầm dần phát triển để thay thế nó.
Chiến tranh thế giới thứ hai cùng với chiến tranh lạnh chứng kiến sự phát triển các loại vũ khí chống ngầm có tầm bắn xa, chính xác và uy lực hơn. Nổi bật là súng cối và rocket chống ngầm.
Súng cối chống ngầm
Bom chìm chống ngầm ra đời năm 1915 đã khiến những chiếc tầu ngầm U-boat lặn sâu dưới nước không còn là một mục tiêu “bất khả xâm phạm”. Tuy vậy, những thành tích bom chìm làm được chưa thể khiến các sĩ quan hải quân Anh và Mỹ hài lòng, bởi nó bộc lộ quá nhiều khuyết điểm khiến cho giới quân sự phải nghĩ đến phương án hiệu quả hơn.
Trong suốt giai đoạn từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918) cho đến lúc bắt đầu chiến tranh thế giới thứ hai (1939), cơn ác mộng tầu ngầm đã tạm rơi vào quên lãng khi các nước đang mải lao đao đối phó với khủng hoảng kinh tế. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, người Đức với chiến thuật tầu ngầm kinh điển của mình đã khiến Anh và Mỹ phải vắt óc tìm cách đối phó.
Tháng 11/1940, Charles Frederich Goodeve, khoa học gia dân sự làm việc cho Hải quân Anh đã dựa trên loại súng cối bắn đạn lớn hơn cỡ nòng bố trí trên tầu (vốn thiết kế với mục đích phòng không) để phát triển súng cối chống ngầm.
Sau màn trình diễn ấn tượng của hệ thống Hedgehog đầu tiên trên tầu HMS Osprey, thủ tướng Anh Winston Churchil và đô đốc Pound rất hài lòng và hệ thống Hedgehog chính thức sản xuất hàng loạt, trang bị cho tầu chiến của hải quân Hoàng gia Anh.
Trong suốt giai đoạn từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1918) cho đến lúc bắt đầu chiến tranh thế giới thứ hai (1939), cơn ác mộng tầu ngầm đã tạm rơi vào quên lãng khi các nước đang mải lao đao đối phó với khủng hoảng kinh tế. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, người Đức với chiến thuật tầu ngầm kinh điển của mình đã khiến Anh và Mỹ phải vắt óc tìm cách đối phó.
Tháng 11/1940, Charles Frederich Goodeve, khoa học gia dân sự làm việc cho Hải quân Anh đã dựa trên loại súng cối bắn đạn lớn hơn cỡ nòng bố trí trên tầu (vốn thiết kế với mục đích phòng không) để phát triển súng cối chống ngầm.
Sau màn trình diễn ấn tượng của hệ thống Hedgehog đầu tiên trên tầu HMS Osprey, thủ tướng Anh Winston Churchil và đô đốc Pound rất hài lòng và hệ thống Hedgehog chính thức sản xuất hàng loạt, trang bị cho tầu chiến của hải quân Hoàng gia Anh.
Charles Frederick Goodeve - Cha đẻ của súng cối chống ngầm Hedgehog. |
Hệ thống súng cối chống ngầm Hedgehog gồm 24 khẩu bắn đạn lớn hơn cỡ nòng, mỗi nòng cối được nạp sẵn một quả đạn chống ngầm cỡ 183 mm chứa 14 kg thuốc nổ TNT.
Khi hệ thống sonar (thường là loại ASDIC) phát hiện ra tầu ngầm đối phương; 24 quả đạn cối được phóng đồng loạt và sẽ rơi xuống biển, tạo thành vòng tròn đường kính 70 mét phía trên khu vực nghi có tầu ngầm với tầm bắn lên đến 230 - 250 mét.
Chính vì những chiếc ống chứa thuốc phóng còn lại sau khi phóng đạn lông nhím nên hệ thống này được đặt tên là Hedgehog, tiếng Anh có nghĩa là “Con nhím”. Những thủy thủ có kinh nghiệm có thể nạp đạn lại cho hệ thống chỉ trong ba phút là có thể bắn loạt thứ hai.
Khi hệ thống sonar (thường là loại ASDIC) phát hiện ra tầu ngầm đối phương; 24 quả đạn cối được phóng đồng loạt và sẽ rơi xuống biển, tạo thành vòng tròn đường kính 70 mét phía trên khu vực nghi có tầu ngầm với tầm bắn lên đến 230 - 250 mét.
Chính vì những chiếc ống chứa thuốc phóng còn lại sau khi phóng đạn lông nhím nên hệ thống này được đặt tên là Hedgehog, tiếng Anh có nghĩa là “Con nhím”. Những thủy thủ có kinh nghiệm có thể nạp đạn lại cho hệ thống chỉ trong ba phút là có thể bắn loạt thứ hai.
Hệ thống súng cối chống ngầm Hedgehog trên tầu chiến của Canada. |
So với các loại bom chìm, hệ thống súng cối chống ngầm thực sự là một cuộc cách mạng.
Đầu tiên, do đạn của hệ thống này phát hỏa theo cơ chế chạm nổ nên thủy thủ có thể bắn Hedgehog mà không cần phải tính toán độ sâu của tầu ngầm.
Thứ hai, bom chìm khi được sử dụng sẽ đồng thời phá hủy luôn hệ thống sonar phát tín hiệu cho dù có đánh trúng tầu ngầm hay không. Điều này sẽ tạo ra một khoảng thời gian “mù” lên đến 15 phút cho các tầu săn ngầm trước khi có thể thả xuống biển một hệ thống sonar khác, cho phép tầu ngầm dễ dàng bỏ chạy hoặc đánh trả. Những thủy thủ tầu ngầm U-boat có kinh nghiệm thậm chí có thể nhận biết được những biểu hiện trước khi thả bom chìm của tầu săn ngầm và tránh né hiệu quả bằng cách đổi hướng hoặc tăng tốc đột ngột.
Còn những quả đạn Hedgehog sẽ không phát nổ khi đánh trượt tầu ngầm, do đó sau loạt đạn thứ nhất, thiết bị sonar vẫn có thể theo dõi tầu ngầm và dẫn đường cho loạt đạn tiếp theo.
Ưu thế thứ ba của Hedgehog là khả năng hủy diệt của nó. Mặc dù đầu đạn chỉ chứa 14 kg thuốc nổ (rất nhỏ so với hàng trăm kg của bom chìm) nhưng nó vẫn có thể đánh hỏng tầu ngầm chỉ với quả đạn duy nhất do khoảng cách phát nổ quá gần. Nhờ những ưu thế của mình, ngay khi ra mắt Hedgehog đã mang lại thành tích chiến đấu đáng kinh ngạc. Xác suất tiêu diệt mục tiêu lớn nhất của nó lên đến 25% trong khi với loại bom chìm tốt nhất xác suất này cũng chỉ là 7%.
Đầu tiên, do đạn của hệ thống này phát hỏa theo cơ chế chạm nổ nên thủy thủ có thể bắn Hedgehog mà không cần phải tính toán độ sâu của tầu ngầm.
Thứ hai, bom chìm khi được sử dụng sẽ đồng thời phá hủy luôn hệ thống sonar phát tín hiệu cho dù có đánh trúng tầu ngầm hay không. Điều này sẽ tạo ra một khoảng thời gian “mù” lên đến 15 phút cho các tầu săn ngầm trước khi có thể thả xuống biển một hệ thống sonar khác, cho phép tầu ngầm dễ dàng bỏ chạy hoặc đánh trả. Những thủy thủ tầu ngầm U-boat có kinh nghiệm thậm chí có thể nhận biết được những biểu hiện trước khi thả bom chìm của tầu săn ngầm và tránh né hiệu quả bằng cách đổi hướng hoặc tăng tốc đột ngột.
Còn những quả đạn Hedgehog sẽ không phát nổ khi đánh trượt tầu ngầm, do đó sau loạt đạn thứ nhất, thiết bị sonar vẫn có thể theo dõi tầu ngầm và dẫn đường cho loạt đạn tiếp theo.
Ưu thế thứ ba của Hedgehog là khả năng hủy diệt của nó. Mặc dù đầu đạn chỉ chứa 14 kg thuốc nổ (rất nhỏ so với hàng trăm kg của bom chìm) nhưng nó vẫn có thể đánh hỏng tầu ngầm chỉ với quả đạn duy nhất do khoảng cách phát nổ quá gần. Nhờ những ưu thế của mình, ngay khi ra mắt Hedgehog đã mang lại thành tích chiến đấu đáng kinh ngạc. Xác suất tiêu diệt mục tiêu lớn nhất của nó lên đến 25% trong khi với loại bom chìm tốt nhất xác suất này cũng chỉ là 7%.
Đạn chạm nổ của Hedgehog mang rất nhiều ưu điểm khi so sánh với bom chìm truyền thống |
Một loạt đạn của Hedgehog tạo thành một vòng tròn đường kính lên tới 70 mét, đem lại xác suất tiêu diệt mục tiêu cao gấp hơn ba lần so với bom chìm. |
Nhờ việc phát minh ra thứ vũ khí hiệu quả này, Charles Goodeve đã được tặng thưởng huân chương Order of British Empire và trở thành trợ lý riêng của đô đốc Wake Walker.
Nối tiếp thành công của Hedgehog, các phiên bản tiếp theo của hệ thống này như MK.4 Squid phát triển năm 1944 gồm ba súng phóng sử dụng đầu đạn loại 90 kg; hệ thống MK NC10 Limbo sử dụng đạn 90 kg, có thể điều chỉnh được tầm bắn từ 300 - 1000 mét.
Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, các hệ thống chống ngầm tương tự cũng được sử dụng trong hải quân Liên Xô từ cuối những năm 1940 như MBU-200 và MBU-600.
Nối tiếp thành công của Hedgehog, các phiên bản tiếp theo của hệ thống này như MK.4 Squid phát triển năm 1944 gồm ba súng phóng sử dụng đầu đạn loại 90 kg; hệ thống MK NC10 Limbo sử dụng đạn 90 kg, có thể điều chỉnh được tầm bắn từ 300 - 1000 mét.
Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, các hệ thống chống ngầm tương tự cũng được sử dụng trong hải quân Liên Xô từ cuối những năm 1940 như MBU-200 và MBU-600.
Súng cối chống ngầm Squid, phiên bản cải tiến hiện đại của Hedgehog.
|
Rocket chống ngầm
Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, rocket chống ngầm đã ra đời sớm ngay sau đó, sử dụng động cơ tên lửa cho mỗi quả đạn thay vì phóng đi từ súng cối giúp vũ khí này có tầm bắn xa hơn và độ chính xác cao hơn.
Trong số các hệ thống rocket chống ngầm sớm nhất phải kể đến hệ thống Mousetrap (Bẫy chuột) của Mỹ được phát triển chỉ sau Hedgehog một năm, bao gồm từ bốn đến 8 quả đạn rocket khối lượng 29 kg với đầu đạn nặng 15 kg được bắn đi từ các ray phóng.
Tuy nhiên, tầm bắn hiệu quả của Mousetrap cũng chỉ trong khoảng 280 mét, không khá hơn là mấy so với hệ thống Hedgehog nguyên bản.
Dựa trên nguyên lý của Hedgehog, rocket chống ngầm đã ra đời sớm ngay sau đó, sử dụng động cơ tên lửa cho mỗi quả đạn thay vì phóng đi từ súng cối giúp vũ khí này có tầm bắn xa hơn và độ chính xác cao hơn.
Trong số các hệ thống rocket chống ngầm sớm nhất phải kể đến hệ thống Mousetrap (Bẫy chuột) của Mỹ được phát triển chỉ sau Hedgehog một năm, bao gồm từ bốn đến 8 quả đạn rocket khối lượng 29 kg với đầu đạn nặng 15 kg được bắn đi từ các ray phóng.
Tuy nhiên, tầm bắn hiệu quả của Mousetrap cũng chỉ trong khoảng 280 mét, không khá hơn là mấy so với hệ thống Hedgehog nguyên bản.
Mousetrap của hải quân Hoa Kỳ chính là hệ thống rocket chống ngầm đầu tiên trên thế giới.
|
Các phiên bản rocket chống ngầm sau thế chiến thứ hai được sử dụng rộng rãi trong hải quân Mỹ và các nước thuộc khối NATO có tên chung là ASROC (Anti Submarine ROCket).
Hệ thống này được phát triển từ những năm 1960 gồm các ống phóng rocket cỡ 422 mm có thể phóng nhiều loại rocket chống ngầm khác nhau, kể cả loại ngư lôi hoặc rocket mang đầu đạn hạt nhân 10 Kiloton W-44 với tầm bắn 22 km.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, đây là vũ khí cơ bản để đối phó với lực lượng tầu ngầm chiến lược hùng hậu của hải quân Liên Xô.
Hệ thống này được phát triển từ những năm 1960 gồm các ống phóng rocket cỡ 422 mm có thể phóng nhiều loại rocket chống ngầm khác nhau, kể cả loại ngư lôi hoặc rocket mang đầu đạn hạt nhân 10 Kiloton W-44 với tầm bắn 22 km.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, đây là vũ khí cơ bản để đối phó với lực lượng tầu ngầm chiến lược hùng hậu của hải quân Liên Xô.
Hệ thống ASROC trang bị trên hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk của Mỹ.
|
Sự phát triển rocket chống ngầm hiện đại không thể không kể đến các hệ thống RBU-2500, RBU-1000, RBU-6000 và RBU-12000 của hải quân Liên Xô.
Ra đời sớm nhất trong series này là hệ thống RBU-2500 (Smerch-1) được trang bị trên hộ tống hạm lớp Petya từ năm 1957. Hệ thống này gồm hai hàng, 16 ống phóng rocket, đạn được nạp bằng tay với tầm bắn hơn hẳn hệ thống Hedgehog nguyên bản, lên đến 2.500 mét.
Không những thế, với sonar chủ động Pegas 24 kHz, RBU-2500 có độ chính xác cao và là hệ thống chống ngầm cực kỳ hiệu quả trong thời đại của nó.
Hiện nay, tuy không còn được sản xuất nhưng hệ thống rocket chống ngầm RBU-2500 vẫn đang được sử dụng trong lực lượng hải quân một số nước như Ấn Độ, Syria và Việt Nam.
Ra đời sớm nhất trong series này là hệ thống RBU-2500 (Smerch-1) được trang bị trên hộ tống hạm lớp Petya từ năm 1957. Hệ thống này gồm hai hàng, 16 ống phóng rocket, đạn được nạp bằng tay với tầm bắn hơn hẳn hệ thống Hedgehog nguyên bản, lên đến 2.500 mét.
Không những thế, với sonar chủ động Pegas 24 kHz, RBU-2500 có độ chính xác cao và là hệ thống chống ngầm cực kỳ hiệu quả trong thời đại của nó.
Hiện nay, tuy không còn được sản xuất nhưng hệ thống rocket chống ngầm RBU-2500 vẫn đang được sử dụng trong lực lượng hải quân một số nước như Ấn Độ, Syria và Việt Nam.
Rocket chống ngầm RBU-2500 trang bị trên tầu chiến lớp Petya-III.
|
Hộ vệ hạm lớp Petya đang bắn thử rocket chống ngầm RBU-2500.
|
Hệ thống RBU-1000 và RBU-6000 là những hệ thống được phát triển từ giữa thập niên 60 của thế kỷ trước (Số hiệu 1000, 6000 ở đây dựa trên tầm bắn của vũ khí tính bằng mét) hiện là loại rocket chống ngầm phổ biến nhất trong hải quân Nga hiện nay.
Đạn rocket cỡ 300 mm (RBU-1000) hay 213 mm (RBU-6000) được phóng đi có thể được điểm hỏa do va chạm hay xuống đến độ sâu nhất định. Sau khi bắn hết một loạt đạn từ bốn đến 12 rocket, đạn rocket được nạp lại hoàn toàn tự động nhờ cơ cấu nạp phía dưới boong tầu.
Những loại rocket chống ngầm này có thể tấn công được cả tàu ngầm ở độ sâu tới 450 mét. Hiện nay, phiên bản cải tiến của RBU-6000 là RPK-8 sử dụng đạn rocket 90R có đầu dò tự dẫn có khả năng tự động bám đuổi và tấn công tầu ngầm ở độ sâu tới 1000 mét với xác suất đánh trúng lên tới 80%. Đầu nổ lõm 19,5 kg của rocket 90R cho phép nó có khả năng đánh thủng cả hai lớp thân của những tầu ngầm hiện đại nhất.
Hiện tại hệ thống RBU-6000 được sử dụng rất rộng rãi ở các nước khối Vacsava cũ và một số nước khác như Algeria, Cuba, Indonesia và Việt Nam.
Đạn rocket cỡ 300 mm (RBU-1000) hay 213 mm (RBU-6000) được phóng đi có thể được điểm hỏa do va chạm hay xuống đến độ sâu nhất định. Sau khi bắn hết một loạt đạn từ bốn đến 12 rocket, đạn rocket được nạp lại hoàn toàn tự động nhờ cơ cấu nạp phía dưới boong tầu.
Những loại rocket chống ngầm này có thể tấn công được cả tàu ngầm ở độ sâu tới 450 mét. Hiện nay, phiên bản cải tiến của RBU-6000 là RPK-8 sử dụng đạn rocket 90R có đầu dò tự dẫn có khả năng tự động bám đuổi và tấn công tầu ngầm ở độ sâu tới 1000 mét với xác suất đánh trúng lên tới 80%. Đầu nổ lõm 19,5 kg của rocket 90R cho phép nó có khả năng đánh thủng cả hai lớp thân của những tầu ngầm hiện đại nhất.
Hiện tại hệ thống RBU-6000 được sử dụng rất rộng rãi ở các nước khối Vacsava cũ và một số nước khác như Algeria, Cuba, Indonesia và Việt Nam.
Rocket chống ngầm RBU-6000 được trang bị trên khu trục hạm lớp Neutrasimiy của Nga.
|
Xu thế hiện nay rocket chống ngầm được sử dụng là một trong những thành phần của các hệ thống chống ngầm và chống ngư lôi; trong đó phải kể đến rocket RBU-12000 được sử dụng trong hệ thống Udav-1 của Nga trang bị trên tầu sân bay Kuznetsov hoặc hệ thống VL-ASROC của hải quân Mỹ có khả năng chống cả tầu ngầm và ngư lôi với tầm bắn xa và xác suất bắn trúng cực kỳ cao.
Nếu bom chìm, súng cối, rocket chống ngầm có tính chất phòng vệ thụ động thì máy bay, tên lửa tầm xa săn ngầm là những vũ khí tấn công tầu ngầm có tính chủ động.
Tên lửa tầm xa chống ngầm
Các phiên bản ngư lôi chống ngầm trang bị đầu dò tự dẫn hạng nhẹ thường được dùng làm đầu đạn trên các tên lửa đối hạm để đối phó với tầu ngầm ở khoảng cách xa.
Điển hình của dòng vũ khí này có thể kể đến tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC phóng từ tầu nổi, UUM-44 SUBROC phóng từ tầu ngầm của Mỹ và các dòng RPK của Nga như RPK-6 Vodopad, RPK-9 Medvedka phóng từ tầu nổi; RPK-2 Viyuga, RPK-7 Vorobei phóng từ tầu ngầm.
Những loại tên lửa này có thể phóng đi từ những ống phóng chuyên dụng hoặc các loại ống phóng ngư lôi 533 mm hay 650 mm; có tầm bay vượt trội so với rocket chống ngầm (UUM-44 SUBROC có tầm bay tới 55km hay tên lửa nhiên liệu rắn của hệ thống RPK-6/7 có tầm bay tới 100 km). Các phiên bản ngư lôi chống ngầm trang bị đầu dò tự dẫn hạng nhẹ thường được dùng làm đầu đạn trên các tên lửa đối hạm để đối phó với tầu ngầm ở khoảng cách xa.
Điển hình của dòng vũ khí này có thể kể đến tên lửa chống ngầm RUM-139 VL-ASROC phóng từ tầu nổi, UUM-44 SUBROC phóng từ tầu ngầm của Mỹ và các dòng RPK của Nga như RPK-6 Vodopad, RPK-9 Medvedka phóng từ tầu nổi; RPK-2 Viyuga, RPK-7 Vorobei phóng từ tầu ngầm.
Ống phóng tên lửa chống ngầm RPK-6 trên khu trục hạm Neutrasimiy của Nga. |
Tên lửa VL-ASROC đang được bắn thử nghiệm. |
Đầu đạn sau khi phóng đến vị trí phát hiện tầu ngầm sẽ tự tách ra và được thả bằng dù xuống biển và tự tìm mục tiêu bằng thiết bị định vị âm thanh gắn kèm.
Máy bay săn ngầm
Sự phát triển của không quân trong thời kỳ hiện đại đã mang đến một giải pháp chống ngầm hữu hiệu, đó là các máy bay chống ngầm. Nhiệm vụ chủ động săn tìm và tiêu diệt tầu ngầm thường được giao cho các loại máy bay cánh cố định, có tốc độ bay vừa phải và thời gian bay lớn.
Điển hình cho loại máy bay này là máy bay săn ngầm P3C - Orion của Mỹ và Ilyushin IL-38 của Nga. P3C Orion có tốc độ bay hành trình khi làm nhiệm vụ là 610 km mỗi giờ và có thể bay liên tiếp 14 tiếng liên tục, còn thông số này đối với IL-38 là 645 km mỗi giờ trong 12 tiếng hành trình.
Các loại máy bay săn ngầm này thường có tải trọng lớn, vì bên trong chứa các thiết bị phát hiện và theo dõi tầu ngầm hiện đại như các loại sonar; radar tìm và diệt mục tiêu, cảm biến địa từ trường.
Máy bay săn ngầm P3C-Orion của Hải quân Mỹ. |
Máy bay săn ngầm IL-38 của Nga đang phục vụ cho không quân Ấn Độ. |
Ngoài ra, chúng cũng được trang bị các loại vũ khí như ngư lôi tự dẫn chống ngầm, bom chìm, tên lửa chống hạm (AGM-86 Harpoon trên P3C) và thậm chí là tên lửa không đối không để tự vệ như AA-11 Archer trên IL-38).
Năng lực hoạt động của những chiếc máy bay săn ngầm này rất lớn; những chiếc IL-38SD mới của Hải quân Nga có khả năng phát hiện và tấn công tầu ngầm ở khoảng cách lên đến 150 km.
Nhiệm vụ của các tầu săn ngầm hay tự vệ trước tầu ngầm của những tầu chiến thông thường khác cũng được san sẻ cho những chiếc trực thăng chống ngầm trang bị đi theo tầu. Những chiếc trực thăng đảm nhận nhiệm vụ này có thể kể đến như SH-60B Seahawk của Hoa Kỳ, AW101 Merlin của Anh hay Ka-27 Helix của Nga.
Trực thăng chông ngầm AW-101 Merlin của Anh với các thiết bị điện tử chứa trong khoang bụng có hình dáng đặc trưng. |
Trực thăng chống ngầm SH-60B Seahawk của Mỹ đang bắn một quả ngư lôi MK-46. |
Phi đội săn ngầm tiêu chuẩn của Ka-27. |
Chúng cũng được trang bị các loại radar, cảm biến điện từ trường, sonar ... để phát hiện tầu ngầm và các loại vũ khí chống ngầm như ngư lôi, bom chìm hay tên lửa chống hạm.
Phát triển kỹ thuật phát hiện và theo dõi tầu ngầm.
Phát triển song song cùng vũ khí tiêu diệt là các loại thiết bị do thám, giúp phát hiện chính xác sự hoạt động của tầu ngầm. Với mục tiêu chủ động phát hiện, theo dõi và tiêu diệt các tầu ngầm đối phương, những hệ thống phao thủy âm (sonar) đơn giản như ASDIC không còn đáp ứng được yêu cầu chiến tranh hiện đại.
Dù ngày nay kỹ thuật sử dụng sonar chủ động và bị động đều có những tiến bộ vượt bậc nhưng các tầu ngầm hiện đại đều được trang bị những thiết bị khử âm hiệu quả.
Những tầu ngầm tấn công như loại Akula của Nga có lớp phủ cách âm dày đến 100 mm, gồm nhiều loại vật liệu khác nhau có thể ngăn chặn âm thanh ở tất cả các tần số, giúp tiếng động nó phát ra giảm đến 100 lần. Do đó, việc sử dụng những kỹ thuật khác để phát hiện tầu ngầm là điều tất yếu.
Các phương pháp theo dõi và phát hiện tầu ngầm phổ biến hiện nay |
Radar: Các tầu ngầm hoạt động bằng động cơ diesel thường có thời gian lặn liên tục kéo dài từ vài ngày đến một tuần, sau đó chúng phải nổi lên để vận hành động cơ diesel, sạc lại các bộ pin trong tầu.
Tại thời điểm này, chúng dễ bị phát hiện bởi radar gắn trên các loại máy bay săn ngầm. Dù chỉ phát hiện tầu ngầm khi chúng nổi lên trên mặt nước, nhưng radar có thể giúp phát hiện được các tầu ngầm ở khoảng cách cực kỳ xa để khoanh vùng và sử dụng các biện pháp đối phó bổ sung.
Hiện nay, một số hệ thống radar hiệu quả đang được Hải quân Mỹ sử dụng phải kể đến AN/APS-115 trên máy bay P3C Orion và AN/APS - 124 gắn trên trực thăng SH-60B Seahawk.
Cảm biến địa từ trường (MAD - Magnetic Anomaly Detector): Về nguyên tắc cơ bản, cảm biến MAD hoạt động tương tự như những thiết bị dò kim loại: Một vật làm bằng kim loại có kích cỡ lớn như tầu ngầm sẽ tạo ra một khu vực địa từ trường khác thường xung quanh nó.
Các cảm biến MAD sẽ tính toán dựa trên cường độ của điểm thay đổi địa từ trường này các thông số như kích cỡ, chất liệu vật cản để xác định đó có phải là tầu ngầm hay không.
Trước sự phát triển mãnh liệt của tầu ngầm Liên Xô, và sau này là của Nga, Trung Quốc, Mỹ đã kịp "chạy theo" những bước dài và phát triển công nghệ cảm biến điện từ trường gồm các hệ thống AN/ASQ-81 sử dụng trên máy bay săn ngầm S3B Viking và hệ thống AN/ASQ-208 trên máy bay P3C Orion.
Cảm biến điện từ: Các thiết bị cảm biến điện từ sẽ kiểm tra và phát hiện các tần số “lạ” của sóng radio phát ra khi tầu ngầm đối phương liên lạc với căn cứ. Loại cảm biến này không những gắn được trên các tầu nổi và máy bay, mà chúng thậm chí có thể gắn trên cả những tầu ngầm tấn công để phát hiện và tiêu diệt tầu ngầm đối phương.
Cảm biến hồng ngoại (IR-Infra Red sensor): Các cảm biến hồng ngoại (FLIR hay IRDS) có thể phát hiện được những vùng nước ấm tạo ra do động cơ tầu ngầm phát nhiệt khi vận hành. Đặc biệt là về đêm khi các hệ thống khác hoạt động kém hiệu quả.
Không những thế, các cảm biến hồng ngoại gắn trên máy bay săn ngầm còn có thể sử dụng để theo dõi các phương tiện hoạt động trên biển khác như tầu nổi, người nhái...
Thiết bị quan sát quang điện: Được dùng để cải thiện tầm nhìn của mắt thường, giúp dễ dàng phát hiện ra các tầu ngầm hoặc kính tiềm vọng của chúng nổi trên mặt nước.
Tại thời điểm này, chúng dễ bị phát hiện bởi radar gắn trên các loại máy bay săn ngầm. Dù chỉ phát hiện tầu ngầm khi chúng nổi lên trên mặt nước, nhưng radar có thể giúp phát hiện được các tầu ngầm ở khoảng cách cực kỳ xa để khoanh vùng và sử dụng các biện pháp đối phó bổ sung.
Hiện nay, một số hệ thống radar hiệu quả đang được Hải quân Mỹ sử dụng phải kể đến AN/APS-115 trên máy bay P3C Orion và AN/APS - 124 gắn trên trực thăng SH-60B Seahawk.
Cảm biến địa từ trường (MAD - Magnetic Anomaly Detector): Về nguyên tắc cơ bản, cảm biến MAD hoạt động tương tự như những thiết bị dò kim loại: Một vật làm bằng kim loại có kích cỡ lớn như tầu ngầm sẽ tạo ra một khu vực địa từ trường khác thường xung quanh nó.
Các cảm biến MAD sẽ tính toán dựa trên cường độ của điểm thay đổi địa từ trường này các thông số như kích cỡ, chất liệu vật cản để xác định đó có phải là tầu ngầm hay không.
Trước sự phát triển mãnh liệt của tầu ngầm Liên Xô, và sau này là của Nga, Trung Quốc, Mỹ đã kịp "chạy theo" những bước dài và phát triển công nghệ cảm biến điện từ trường gồm các hệ thống AN/ASQ-81 sử dụng trên máy bay săn ngầm S3B Viking và hệ thống AN/ASQ-208 trên máy bay P3C Orion.
Cảm biến điện từ: Các thiết bị cảm biến điện từ sẽ kiểm tra và phát hiện các tần số “lạ” của sóng radio phát ra khi tầu ngầm đối phương liên lạc với căn cứ. Loại cảm biến này không những gắn được trên các tầu nổi và máy bay, mà chúng thậm chí có thể gắn trên cả những tầu ngầm tấn công để phát hiện và tiêu diệt tầu ngầm đối phương.
Cảm biến hồng ngoại (IR-Infra Red sensor): Các cảm biến hồng ngoại (FLIR hay IRDS) có thể phát hiện được những vùng nước ấm tạo ra do động cơ tầu ngầm phát nhiệt khi vận hành. Đặc biệt là về đêm khi các hệ thống khác hoạt động kém hiệu quả.
Không những thế, các cảm biến hồng ngoại gắn trên máy bay săn ngầm còn có thể sử dụng để theo dõi các phương tiện hoạt động trên biển khác như tầu nổi, người nhái...
Thiết bị quan sát quang điện: Được dùng để cải thiện tầm nhìn của mắt thường, giúp dễ dàng phát hiện ra các tầu ngầm hoặc kính tiềm vọng của chúng nổi trên mặt nước.
http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/Vu-khi-diet-tau-ngam-qua-cac-thoi-ky-ky-1/20099/141079.datviet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét