Thứ Tư, 2 tháng 7, 2014

Cuộc chiến trên biển Đông và sự xuất thần của vị tướng

 Trận hải chiến đã nhấn chìm 500 chiến thuyền, 70 vạn hộc lương, vô số khí giới, cùng hàng vạn quân tiếp viện.

Trong một lần trò chuyện với nhà sử học Đặng Hùng (Hội sử học Thái Bình), ông Hùng cao hứng nói: “Người Việt tuy ít, nước Việt tuy nhỏ, nhưng chưa bao giờ chịu khuất phục trước người phương Bắc. Đừng tưởng họ có nhiều tàu, tàu to mà có thể khiến người nước Nam khiếp sợ. Bằng chứng là rất nhiều trận thủy chiến, đặc biệt là trận hải chiến ngoài Vịnh Bắc Bộ cách nay hơn 700 năm, đã tỏ rõ tài trí dũng mãnh vượt bậc của người Việt”.

Nghe nhà sử học Đặng Hùng nhắc đến chuyện hải chiến, quả thực tôi cũng thấy ngạc nhiên. Sử sách vốn nói nhiều đến những trận thủy chiến trên sông, những bãi cọc chôn xác thuyền bè của quân thù, chứ đâu có thấy nói đến chuyện hải chiến ngoài biển cả.

Chuyện chưa biết về trận hải chiến với giặc phương Bắc trên Vịnh Bắc Bộ
Đền Quan Lạn, nơi thờ ba vị tướng họ Phạm 

Nhà sử học Đặng Hùng tiết lộ thêm: “Tôi nghiên cứu nhiều về trận đánh trên sông Bạch Đằng trong lần thứ ba chống quân Nguyên, tức năm 1288, và tôi nhận ra rằng, điều kiện tiên quyết để nhà Trần chiến thắng lừng lẫy trên sông Bạch Đằng, đó là do thắng lợi của trận hải chiến trên Vịnh Bắc Bộ. Tôi đánh giá vai trò của trận hải chiến trên Vịnh Bắc Bộ quan trọng hơn thủy chiến trên sông Bạch Đằng. Chính trận hải chiến này đã quyết định sự thành công của cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ ba”.

Điều ông Hùng nói thật lạ. Vậy là tôi lên đường tìm ra vùng vịnh mù khơi. Con tàu cao tốc lao vun vút trên mặt biển hướng ra đảo Quan Lạn. Đảo Quan Lạn gồm xã Quan Lạn và Minh Châu nằm trong vịnh Bắc Bộ, cách thị trấn Cái Rồng (huyện đảo Vân Đồn) chừng 1 giờ tàu chạy. 

Từ xa, đảo Quan Lạn hình con thuyền khổng lồ hiện ra mờ ảo giữa sương mù giăng giăng khắp ngả. Ông Nguyễn Văn Đương, người dân trên đảo Quan Lạn, lái phụ tàu cao tốc chỉ tay về phía tây đảo Quan Lạn bảo: “Tôi vẫn nghe các cụ truyền lại rằng, vùng biển phía tây đảo Quan Lạn là nơi ông Trần Khánh Dư cùng ba tướng họ Phạm chỉ huy đánh tan hải quân, thuyền lương của giặc phương Bắc. Các cụ kể, vùng biển ấy thường xuyên có sương mù, che khuất tầm nhìn. Ông Trần Khánh Dư đã biết lợi dụng sương mù để đánh chìm tàu chiến của giặc.

Chuyện chưa biết về trận hải chiến với giặc phương Bắc trên Vịnh Bắc Bộ
Nơi diễn ra trận hải chiến với quân Nguyên vào năm 1288 

Mấy chục năm nay, giới săn đồ cổ lặn tìm ở đó kiếm được nhiều cổ vật lắm. Họ bảo, dưới đáy biển có nhiều xác tàu đắm, giáo mác, cung nỏ cũng vớt được nhiều, nhưng lâu năm quá nên phần lớn đã han gỉ”.

Ngôi đền Quan Lạn ngày cuối tuần đón nhiều du khách từ đất liền ra thắp nhang, khấn vái. Người ta rỉ tai nhau rằng, ngôi đền thờ ba anh em họ Phạm, có công đánh giặc Nguyên rất thiêng, cầu gì được nấy, nên ai ra đảo cũng tìm đến. 

Đền Quan Lạn, cùng với ngôi đình, là chốn linh thiêng bậc nhất của đảo. Ông Nguyễn Hữu Thuận, thủ từ đền tất tả tiếp khách, rồi tranh thủ trò chuyện với tôi. Ông bảo: “Vào ngày 18/6 (âm lịch) hàng năm, Quan Lạn lại tổ chức lễ hội rất lớn. Lễ hội sắp đến rồi, du khách ra đông hơn, chúng tôi cũng phải chuẩn bị kỹ lưỡng”.

Theo ông Thuận, từ xa xưa, các cụ ở Quan Lạn đã tổ chức lễ hội này, với ý nghĩa kỷ niệm ngày chiến thắng giặc Nguyên năm 1288 trên biển Vân Đồn, tức trận hải chiến trên Vịnh Bắc Bộ. Đền Quan Lạn thờ ba anh em họ Phạm, là phó tướng của Trần Khánh Dư, nên là nơi chính của ngày hội.

Chuyện chưa biết về trận hải chiến với giặc phương Bắc trên Vịnh Bắc Bộ
Ông Nguyễn Hữu Thuận, thủ từ đền Quan Lạn bên tấm bia ghi công ba tướng họ Phạm 

Lễ hội Quan Lạn quả thực rất độc đáo vì diễn ra trên biển, với thuyền rồng, với màn đánh trận giả giữa hai đội Đông Nam văn và Đoài Bắc võ, tái hiện lịch sử của cư dân trên đảo, thể hiện tinh thần thượng võ của hậu duệ nghĩa quân.

Hỏi về lai lịch của ba vị tướng họ Phạm, ông Thuận dẫn tôi đến chỗ tấm bia đá có vẻ như mới dựng vài năm nay, khắc chữ quốc ngữ. Tấm bia ghi rõ danh tính ba vị tướng họ Phạm, gồm Phạm Công Chính, Phạm Quý Công và Phạm Thuần Dụng. Ba ông là anh em một nhà. 

Theo đó, ba ông là người xã Quan Lạn, đều lập công lớn trong ba lần chiến thắng Nguyên Mông. Đặc biệt là trong lần thứ ba (tháng 1/1288), dưới sự chỉ huy tài tình của Trần Khánh Dư, ba tướng họ Phạm đã cùng với quân dân Vân Đồn tiêu diệt toàn bộ 500 chiến thuyền và trên 70 vạn hộc lương thực, cùng toàn bộ khí giới của triều đình nhà Nguyên.

Trận thắng trên biển Vân Đồn đóng góp to lớn để làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử tháng 4/1288. Bia đá viết: “Ba danh tướng tài năng, ba nhà quân sự sắc bén của quê hương Quan Lạn đã từng gắn bó sinh tử, ra sống vào chết để trấn giữ nơi cửa biển tiền tiêu phía đông bắc Tổ quốc và lập nên những chiến công to lớn trong công cuộc võ công vệ quốc”.

Chuyện chưa biết về trận hải chiến với giặc phương Bắc trên Vịnh Bắc Bộ
Tượng tướng Phạm Công Chính 

Bia đá ghi ngắn gọn như vậy, còn dân gian thì truyền nhiều câu chuyện liêu trai. Duy có điều khá đặc biệt, dù ba ông tướng này có đền thờ chung và đền thờ riêng trên đảo Quan Lạn, nhưng thân thế và sự nghiệp thì đến ông từ Nguyễn Hữu Thuận trông giữ, hương khói, kiêm cả hướng dẫn viên cũng không nắm được gì nhiều. 

Lược bỏ những chi tiết thần thánh hóa, thì chỉ biết rằng, ba ông là anh em ruột, sinh ra và lớn lên trên hòn đảo này. Tổ tiên đã ở đây, lấy nghề đánh cá làm kế sinh nhai, nên cả ba anh em đều giỏi nghề đi biển, hiểu từng luồng lạch, con nước. 

Trong lần thứ ba chống quân Nguyên, vị tướng Trần Khánh Dư mấy phen thất bại, nên bị triều đình vời về trị tội. Tướng Trần Khánh Dư đã nguyện mang tính mạng của mình để lấy công chuộc tội. Tướng Trần Khánh Dư đã đề xuất xin được mang quân thực hiện trận hải chiến ở cửa biển Vân Đồn. 

Chuyện chưa biết về trận hải chiến với giặc phương Bắc trên Vịnh Bắc Bộ
Tranh minh họa hải chiến chống quân Nguyên  (ảnh sưu tầm)

Đem quân ra Vân Đồn, nhưng Trần Khánh Dư cũng hoang mang lắm. Quân địch thì đông, tàu địch thì lớn, mà khí thế ngút trời, khiến cả thế giới phải khiếp sợ. Đúng lúc đó, ba anh em họ Phạm đến gặp Trần Khánh Dư, nguyện đem hết tài năng, kinh nghiệm biển cả của mình để phục vụ nhà Trần. Ba anh em họ Phạm đã thề nguyện rằng, nếu không đánh chìm được các chiến thuyền của giặc Nguyên, thì sẽ gieo mình xuống biển cho cá mập ăn, chứ nhất quyết không đem mạng sống của mình vào bờ để phải hổ thẹn với nhân dân.

Nhân huệ vương, tướng trấn ải đông bắc Trần Khánh Dư gặp được ba anh em họ Phạm thì khí thế như rồng gặp nước. 

Truyền thuyết kể rằng, ba vị tướng họ Phạm bằng kinh nghiệm và sự hiểu biết của mình, đã đề xuất đem thuyền giấu vào sương mờ dày đặc trên biển. Đoàn thuyền vận chuyển lương và quân tiếp vận của tướng giặc Trương Văn Hổ đi vào vùng biển Quan Lạn, đã bị những mũi tấn công thoắt ẩn thoắt hiện trong sương mù cắt đội hình, đánh cho tan tác. Toàn bộ 500 chiến thuyền, 70 vạn hộc lương và hàng vạn quân địch đã bị nhấn chìm xuống đáy biển. 

Trận hải chiến thắng lợi lẫy lừng, nhưng cả ba vị tướng họ Phạm đều đã hy sinh. Xác ba ông trôi dạt vào bờ, được người dân vớt lên, chôn tại đảo và ba địa điểm chôn xác tướng họ Phạm đều đã dựng đền thờ.


Hải chiến Vân Đồn đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng, một trong những trận thủy chiến vĩ đại nhất của lịch sử quân sự thế giới.

Ở đảo Quan Lạn (Vân Đồn, Quảng Ninh), ngoài ngôi đình, ngôi đền cổ, còn có một di tích lớn, đó là đền thờ Trần Khánh Dư. Ngôi đền mới được dựng lại khang trang giữa cánh đồng để tưởng nhớ danh tướng tuấn kiệt, người đóng góp rất lớn cho ba lần chiến thắng quân Nguyên, đặc biệt là sự xuất thần của ông trong cuộc chiến lần thứ ba. 

Nhân huệ vương Trần Khánh Dư là con trai Thượng tướng Trần Phó Duyệt, là dòng dõi của nhà Trần. 

Ông trực tiếp cầm quân tham gia cả ba lần chống quân Nguyên xâm lược và lập nhiều chiến công, nên được nắm giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong triều đình, như Phó đô tướng quân, Phiêu kỵ đại tướng quân, Trật hầu, Tử phục thượng vị hầu, quyền chức Phán thủ…

Cuộc chiến trên biển Đông và sự xuất thần của vị tướng
Đền thờ Trần Khánh Dư ở đảo Quan Lạn 

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba, năm 1287, ông được vua Trần tin tưởng nên giao cho nhiệm vụ rất quan trọng, là bảo vệ vùng Đông Bắc Tổ quốc. Ông có toàn quyền quyết định mọi vấn đề an ninh ở khu vực Vân Đồn cổ, chính là vùng đảo Quan Lạn bây giờ.

Thời Trần, vùng biển Vân Đồn là một thương cảng cực kỳ sầm uất. Đây không chỉ là vị trí trọng yếu về chính trị, chiến lược, mà còn là cảng biển giao thương toàn vùng châu Á. 

Để tiến hành xâm lược nước ta, quân Nguyên đã chuẩn bị nhiều năm trời. Chúng sai rất nhiều nội gián tìm sang, đóng giả thương nhân để do thám tình tình. Biết được điều đó Trần Khánh Dư đưa ra mệnh lệnh bắt buộc người dân ở Vân Đồn phải đội nón Ma Lôi, để phân biệt với nội gián.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Khánh Dư đã sai người nhà mua nón Ma Lôi từ trước, chở thuyền đến đậu trong cảng. Lệnh vừa ra, sai ngầm báo người dân trong trang: “Hôm qua thấy trước vụng biển có thuyền chở nón Ma Lôi đậu. Do đấy, người trong trang tranh nhau mua nón, ban đầu mua không tới 1 tiền, sau giá đắt, bán 1 chiếc nón giá 1 tấm vải, số vải thu được đến hàng nghìn tấm”.

Cuộc chiến trên biển Đông và sự xuất thần của vị tướng
Thương cảng Vân Đồn ngoài đảo Quan Lạn thời Pháp 

Sách chép, nội gián của nhà Nguyên vào nước ta đông đến nỗi bán hết cả thuyền nón. Trần Khánh Dư biết tâm địa của bọn chúng, nên lợi dụng để khai thác thông tin.

Đại Việt sử ký toàn thư chép tiếp: “Ngày 30-12-1287, thái tử Nguyên A Thai cùng Ô Mã Nhi họp 30 vạn quân đánh Vạn Kiếp rồi thuận dòng xuôi về đông. 

Cùng thời điểm đó, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi gồm 650 chiến thuyền đánh vào Vân Đồn. Trần Khánh Dư chỉ có 100 chiến thuyền nên không chống đỡ nổi địch, thất bại nhanh chóng. Tin đến tai triều đình, vua Trần sai trung sứ xiềng Khánh Dư giải về kinh. Khánh Dư nói: "Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn".

Vua Trần thấy được sự tự tin của Trần Khánh Dư, nên đã đồng ý cho Trần Khánh Dư lập công chuộc tội. Vì lợi dụng được bọn nội gián, nên ông biết được con đường tải lương của giặc. Ông lập tức thu thập tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, Khánh Dư đánh bại chúng, bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều...”.

Cuộc chiến trên biển Đông và sự xuất thần của vị tướng
Tượng Trần Khánh Dư trong đền 

Trong khi đó Khâm Định Việt sử thông giám Cương Mục chép: “Khánh Dư đoán chắc thuyền của giặc đã đi qua rồi, thì thuyền tải lương tất đi theo sau, liền thu thập tàn quân, sẵn sàng chờ đợi. Một lát sau, quả nhiên thuyền tải lương của Văn Hổ đến, Khánh Dư đón đánh, quân Nguyên bị thua to. Khi đi đến biển Lục Thủy Dương (nước biển vịnh Bắc Bộ màu xanh thẫm, nên người Tàu gọi như vậy), thuyền của quân Nguyên bị mắc cạn, sa lầy, không chở đi được, lương thực chìm cả xuống biển. Khánh Dư bắt được khí giới, quân nhu rất nhiều. Văn Hổ chỉ thoát được một mình, vội vàng chạy về Quỳnh Châu...”.

Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim viết khá kỹ: “Ô Mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân Đồn gặp quân của Trần Khánh Dư chặn đường không cho đi. Ô Mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương... 

Được mấy hôm Ô Mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương Văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường, Trương Văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau... Trương Văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục Thủy Dương. Khánh Dư đổ quân ra đánh, Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều...”.

Cuộc chiến trên biển Đông và sự xuất thần của vị tướng
Vùng biển Quan Lạn, nơi diễn ra trận hải chiến năm 1288 

Trận hải chiến trên Vịnh Bắc Bộ tiêu diệt nhiều giặc, phá hủy và cướp toàn bộ đoàn thuyền lương, binh khí của quân Nguyên có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến thắng quân Nguyên lần thứ ba. Sử thần Ngô Sĩ Liên đã đánh giá về Trần Khánh Dư như sau: “Ba đường tiến quân bằng thuỷ bộ của giặc Nguyên đều trông vào thuyền lương vận tải đường biển... Chẳng có ngờ đâu số lương 17 vạn thạch (theo truyền thuyết ở Quan Lạn thì có tới 70 vạn thạch) đã chìm hết ở Vân Đồn và Văn Hổ cũng đã chuồn từ lâu rồi. Đi đón đã lâu rốt cuộc lương không đến. Vì thế ba quân đói khát, lương thực đã không có, đồng nội cũng không cướp được gì. Tướng sĩ đều mang lòng căm phẫn. Ép họ chiến đấu thì họ trả lời: “Ốm đau không chiến đấu được”. Dụ họ ở lại thì họ trả lời: “Lương hết không thể ở lại được”. Họ đã quyết kế về thì không cần ta phải đuổi, tin thắng ở Bạch Đằng chỉ làm tăng thêm binh uy mà thôi…”. Còn Thượng hoàng Trần Thánh Tông thì nói: “Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo khí giới, nay đã bị ta bắt được, sợ nó chưa biết, có thể còn hung hăng chăng?”.

Để tưởng nhớ và ghi nhận công lao to lớn của Trần Khánh Dư, người dân địa phương đã tôn ông làm Thành hoàng và thờ tự tại đình Quan Lạn. Hàng năm, người dân trong vùng tổ chức lễ hội Quan Lạn vào trung tuần tháng 6 âm lịch để tưởng nhớ công lao của ông, cùng các tướng sĩ đã làm nên trận hải chiến oanh liệt. 

Nhà sử học Đặng Hùng nhận xét rằng, nếu không có chiến thắng trong trận hải chiến trên vịnh Vân Đồn, chắc không có cuộc rút lui của giặc Nguyên, dẫn giặc đến trận đại bại trên sông Bạch Đằng tháng 4-1288, một trong những trận thủy chiến vĩ đại nhất của lịch sử quân sự thế giới.

Theo tư liệu khoa học của sách Di tích lịch sử - văn hoá Vân Đồn, do Ban quản lý các di tích trọng điểm Quảng Ninh và Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 2010, thì đội quân thủy chiến mang tên Bình Hải của Trần Khánh Dư có 30 đô, biên chế mỗi đô 80 người lính, toàn quân có 30 chiến thuyền, mỗi thuyền có 30 lính chèo thuyền. Như vậy, có thể tính ra, toàn bộ đạo quân thủy chiến của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư có khoảng 3.300 người. So với số dân lúc bấy giờ, số quân đó đủ mạnh để bảo vệ cả một vùng biển đảo rộng lớn của vùng Đông Bắc.
http://vtc.vn/394-494692/phong-su-kham-pha/cuoc-chien-tren-bien-dong-va-su-xuat-than-cua-vi-tuong.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét