Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

Hoa Kỳ thông qua thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự giữa Mỹ và Việt Nam

"... thỏa thuận này không cấm Việt Nam tự làm giàu uranium hoặc tái chế plutonium, những chất liệu có thể được dùng để phát triển vũ khí hạt nhân..."
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Theo hãng tin AP, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ vừa thông qua thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự giữa Mỹ và Việt Nam, điều này chứng tỏ cả Washington và Hà Nội đang tìm cách mở rộng quan hệ.
Thỏa thuận này đã được Ủy ban Đối ngoại Thượng viện thông qua hôm thứ Ba, 22 tháng 7, cho phép các công ty của Mỹ thâm nhập thị trường điện hạt nhân đang mở rộng của Việt Nam. Thỏa thuận hạt nhân này được Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh ký kết hồi tháng 10 năm ngoái bên lề Hội nghị thượng đỉnh Đông Á tại Brunei, và được Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama phê chuẩn hồi tháng 2 năm nay.
Ủy ban do Ðảng Dân chủ lãnh đạo trông coi về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ này đã thông qua thỏa thuận vừa nêu bất chấp những lo ngại của các nhà hoạt động chống phổ biến vũ khí hạt nhân và một số nhà lập pháp về việc thỏa thuận này không cấm Việt Nam tự làm giàu uranium hoặc tái chế plutonium, những chất liệu có thể được dùng để phát triển vũ khí hạt nhân.
Phía Việt Nam đã ký một bản ghi nhớ không có tính cách ràng buộc pháp lý với Mỹ rằng Hà Nội không có ý định tìm kiếm những năng lực đó và sẽ mua nhiên liệu hạt nhân trên thị trường quốc tế.  Việt Nam cũng là nước tham gia các hiệp ước quốc tế chống phổ biến hạt nhân và an toàn hạt nhân.
Hiện Việt Nam đã ký hợp đồng với Nga để xây dựng hai lò phản ứng hạt nhân trước năm 2020, và ký hợp đồng với Nhật Bản để xây dựng thêm hai lò phản ứng hạt nhân khác.
Thị trường điện hạt nhân của Việt Nam được đánh giá đứng thứ hai tại Đông Á, và ước tính sẽ đạt doanh thu 50 tỷ đôla trong hai thập kỷ tới. Năng lượng hạt nhân là phương án mà Việt Nam đang theo đuổi nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt năng lượng hiện nay, với mục tiêu sản xuất 10.000 megawatt điện hạt nhân, để đáp ứng trên 10% nhu cầu điện năng của nước này vào năm 2030.
Viện Nghiên cứu Năng lượng Hạt nhân có trụ sở ở Washington ước tính thỏa thuận mà chính quyền Tổng thống Barack Obama đã ký với Việt Nam sẽ mở cửa thị trường Việt Nam cho lĩnh vực xuất khẩu hạt nhân của Mỹ từ 10-20 tỷ đôla. Việt Nam cũng đã có thỏa thuận hạt nhân với Canada, Trung Quốc, Pháp, và Nam Triều Tiên.
Diễn biến này cũng phản ánh nỗ lực của chính quyền Tổng thống Obama tăng cường sự hiện diện của Hoa Kỳ ở Ðông Nam Á.
http://dannews.info/2014/07/24/hoa-ky-thong-qua-thoa-thuan-hop-tac-hat-nhan-dan-su-giua-my-va-viet-nam/

Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

Trung Quốc quyết dồn Mỹ-Nhật vào chân tường

Trong cuộc điện đàm ngày 14/7, Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhất trí giải quyết mang tính xây dựng những bất đồng đang ngày càng gia tăng giữa hai nước. Cũng trong ngày 14/7, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cho biết, muốn tổ chức gặp thượng đỉnh với lãnh đạo Trung Quốc bên lề Hội nghị APEC tại Bắc Kinh vào tháng 11/2014 nhằm cải thiện quan hệ song phương. Kể từ khi nhậm chức (cuối năm 2012), ông Shinzo Abe chưa gặp chính thức lãnh đạo Trung Quốc.
Cùng ngày 14/7, Trung tâm nghiên cứu Pew của Mỹ dẫn kết quả thăm dò ý kiến, có khoảng 5-6 nước trong 11 quốc gia châu Á được thăm dò ý kiến cho rằng, những tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc với các nước láng giềng sẽ dẫn tới một cuộc xung đột quân sự. Trong đó, người Philippines lo ngại nhiều nhất (93%), tiếp theo là Nhật Bản (85%), Việt Nam (84%) và Hàn Quốc (83%). Ngay cả ở Trung Quốc, con số này cũng là 62%. Trong khi đó, tỉ lệ coi Trung Quốc là siêu cường thế giới tăng từ 19% (2008) lên 31%. Những thông tin và con số kể trên cho thấy, Trung-Mỹ-Nhật đã và đang tạo thành một tam giác khó tách rời trong bối cảnh hiện nay bởi nhiều nguyên nhân khác nhau.
Kỳ I: Quyết giành ngôi vị bá chủ
Ngày 15/7, trang web Bộ Ngoại giao Trung Quốc đăng phát biểu của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi phản đối đề nghị của Phó Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề chiến lược và đa phương Fuchs (11/7) về các biện pháp hạ nhiệt căng thẳng ở Biển Đông. Cũng trong ngày 15/7, Tham mưu trưởng hải quân Mỹ, Đô đốc Jonathan Greenert đã gặp Tư lệnh hải quân Trung Quốc Ngô Thắng Lợi bàn việc cải thiện quan hệ hợp tác giữa các hạm đội của hai bên trong bối cảnh lo ngại về tranh chấp lãnh hải trong khu vực có thể bùng phát xung đột. Đây là cuộc gặp thứ tư trong vòng một năm qua giữa lãnh đạo hải quân hàng đầu Mỹ-Trung. Cùng ngày 15/7, hãng CNN dẫn lời chuyên gia Trung Quốc Jaime FlorCruz cho rằng, sau gần 2 năm cầm quyền, ông Tập Cận Bình đã thất bại trong việc tạo ấn tượng tốt về Trung Quốc đối với thế giới.
Tổng thống Mỹ Barack Obama gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 6/2013.
Chủ tịch tiểu ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, ông Dana Rohrabacher cho rằng, việc cho phép Trung Quốc tham dự cuộc tập trận hải quân đa quốc gia lớn nhất thế giới Vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC) ngoài khơi Hawaii, Mỹ (từ 26/6 đến 1/8) sẽ đe dọa an ninh quốc gia Mỹ. Ngày 14/7, Đô đốc hải quân Nhật Bản Katsutoshi Kawano cùng Đô đốc Harry Harris, chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ đã hội kiến bên lề RIMPAC và cho rằng, hải quân hai nước đang chia sẻ nhiều thông tin hơn trước và đang đẩy mạnh hợp tác trong bối cảnh căng thẳng tại châu Á gia tăng do tranh chấp lãnh thổ.
Giới truyền thông Nhật Bản đưa ra 6 điểm đặc biệt của RIMPAC 2014. Thứ nhất, lần đầu tiên Trung Quốc tham gia. Thứ hai, có sự tham gia của siêu mẫu hạm Reagan (lớn nhất của hải quân Mỹ với chi phí lên tới 4,5 tỉ USD). Thứ ba, Trung Quốc tham gia 7 hoạt động của cuộc tập trận. Thứ tư, lần đầu tiên có sự tham gia của tự vệ lục quân. Thứ năm, các hoạt động tập trận mang tính hạt nhân chủ yếu sẽ diễn ra giữa Mỹ và các nước đồng minh Nhật, Anh, Australia, Hàn Quốc và Canada. Thứ sáu, các nước tham gia có mục đích khác nhau. Giới quân sự cho rằng, việc tham gia RIMPAC 2014 không thay đổi bản chất của Trung Quốc.
Tờ Defense News Weekly của Mỹ cho biết, Philippines vừa quyết định chi 1,5 tỉ USD để mua sắm vũ khí phục vụ chương trình hiện đại hóa quân đội, sau khi cho phép hải quân Mỹ và Nhật Bản tăng khả năng tiếp cận các căn cứ hải quân của Manila. Tướng Jeffrey Delgado, chỉ huy lực lượng không quân Philippines cho biết, Manila sẵn sàng mở cửa 8 căn cứ không quân cho không lực Washington sử dụng một khi các rào cản trong hiệp định hợp tác quốc phòng nâng cao giữa hai nước được loại bỏ. Philippines hy vọng, tới năm 2027 có thể kiểm soát toàn bộ không phận và tăng cường khả năng tuần tra, giám sát quanh vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Giai đoạn mua sắm vũ khí đầu tiên của chương trình hiện đại hóa quân sự đã bắt đầu và sẽ kéo dài đến năm 2017.
Tổng thống Philippines Benigno Aquino từng đến Tokyo (24/6) và hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe về tranh chấp trên biển trong khu vực, đặc biệt là giữa hai nước với Trung Quốc. Đây là lần thứ 5 ông Benigno Aquino đến Nhật Bản kể từ khi nhậm chức năm 2010. Được biết, Bộ Quốc phòng Philippines cũng đã đạt được thỏa thuận tiếp tục đàm phán mua 3 bộ radar với tổng trị giá 57 triệu USD của Israel phục vụ mục tiêu giám sát Biển Đông. Bởi Bộ trưởng Quốc phòng Israel Moshe Yaalon đã cam kết cung cấp và viện trợ một số trang thiết bị quân sự dư thừa cho Philippines.
Thiếu tướng Richard L. Simcock, Phó Tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ ở Thái Bình Dương đã kêu gọi Australia đảm nhiệm vai trò giữ gìn an ninh lớn hơn tại khu vực này trong bối cảnh dư luận đang lo ngại về cách thức duy trì nguyên trạng an ninh ở châu Á sau khi Trung Quốc gia tăng gây hấn, bất chấp sự phản đối của dư luận thế giới. Tờ The Star (Malaysia) từng dẫn nhận định của Giáo sư, Tiến sĩ David Arase, chuyên gia tại Trung tâm Đại học Nam Kinh (Trung Quốc) cho rằng, Malaysia (sẽ đảm nhiệm vị trí Chủ tịch ASEAN năm 2015) có thể giúp giảm căng thẳng trên Biển Đông. Theo tờ Jane’s Defence Weekly, hải quân Trung Quốc đã biên chế 2 tàu hộ vệ tên lửa lớp Type 056 cho Hạm đội Nam Hải (chủ yếu tác chiến gần bờ, tuần tra cảnh giới, hộ tống, độc lập hoặc hiệp đồng với các lực lượng khác) để tác chiến săn ngầm, tăng cường lực lượng tác chiến phòng vệ cho hải quân Trung Quốc.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương từng tuyên bố, Bắc Kinh đã ngừng các hoạt động của Nhóm công tác mạng Trung-Mỹ do Washington "thiếu chân thành trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến an ninh mạng thông qua đối thoại và hợp tác". Nhóm công tác này do Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị thiết lập từ tháng 4/2013. Hơn 1 năm trước (20/2/2013), Washington từng công bố chiến lược nhằm đối phó với tình trạng đánh cắp bí mật thương mại ngày càng gia tăng và nghiêm trọng. Chiến lược này được ban hành chỉ 1 ngày sau khi Washington bày tỏ quan ngại sâu sắc về các cuộc tấn công tin tặc có xuất xứ từ Trung Quốc liên tục nhắm vào các cơ quan và tổ chức ở Mỹ. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta từng nhận định: an ninh mạng thực sự quan trọng khi một số nước đang có khả năng tạo ra một “vụ Trân Châu cảng trên mạng”.
Tạp chí Học giả ngoại giao từng đăng bài “Cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân ở châu Á” của biên tập viên Zachary Keck, trong đó nhấn mạnh: tương lai của các loại vũ khí hạt nhân thực sự sẽ được đặt ở châu Á chứ không phải ở Trung Đông. Theo mạng rusnews, trong khi số lượng vũ khí hạt nhân thế giới giảm, nhưng Trung Quốc vẫn sở hữu tới 250 đầu đạn. Giới quân sự cho rằng, Mỹ đã châm ngòi cho một cuộc chạy đua vũ trang mới bằng việc đặt chế tạo 10 tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Virginia SSN 774 trị giá 17,6 tỉ USD. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Thụy Điển Mikael Odenberg cho rằng, việc cắt giảm ngân sách quốc phòng là một tính toán sai lầm. Tướng Petr Pavel, Tổng tham mưu trưởng quân đội Cộng hòa Czech cũng đưa ra cảnh báo tương tự.
Theo kết quả thăm dò dư luận do Trung tâm nghiên cứu Pew của Mỹ thực hiện tại 44 quốc gia với khoảng 50.000 người được hỏi và công bố hôm 14-7. Theo đó, 65% số người được hỏi đánh giá tích cực vai trò của Mỹ, cao hơn 16% so với tỷ lệ ủng hộ cường quốc đang trỗi dậy Trung Quốc. Nhưng cũng có 50% số người cho rằng, Trung Quốc sẽ hoặc đã thay thế vị trí siêu cường của Mỹ.
Kỳ II: Cuộc đua giữa 2 nền kinh tế nhì ba thế giới
Ngày 15-7, hãng Kyodo cho biết, máy bay tiếp liệu KC-130 của quân đội Mỹ đã đến căn cứ không quân Iwakuni ở tỉnh Yamaguchi, Nhật Bản. Đây là đợt luân chuyển đầu tiên theo thỏa thuận song phương nhằm giảm gánh nặng đối với các căn cứ quân sự Mỹ đóng tại tỉnh Okinawa. Đây cũng là lần đầu tiên binh sỹ Mỹ được điều động từ Okinawa đến khu vực khác ở Nhật Bản.
Hãng Reuters cho rằng, Nhật Bản đang có kế hoạch thành lập một cơ cấu mua bán vũ khí, để nâng cao hiệu quả trong chi phí quốc phòng của nước này, đồng thời thúc đẩy nghiên cứu chế tạo và xuất khẩu vũ khí tiên tiến. Giới truyền thông cho biết, Australia đang hợp tác với Nhật Bản phát triển tàu ngầm để kiềm chế Trung Quốc.
Bộ trưởng Quốc phòng Australia David Albert Lloyd Johnston cho biết, tàu ngầm lớp Soryu của Nhật Bản gần với yêu cầu của chương trình tàu ngầm mới SEA 1000 (thay thế cho 6 tàu ngầm lớp Collins) trong tương lai của hải quân Australia. Đây là lần đầu tiên trong 44 năm qua, Bộ Quốc phòng Nhật Bản thay đổi chính sách cơ bản về sản xuất trang thiết bị quân sự và công nghệ, giúp tăng cường năng lực giám sát và bảo vệ các đảo xa của nước này.
Binh sĩ của Lực lượng phòng vệ Nhật Bản tham gia cuộc tập trận chung với Lính thủy đánh bộ Mỹ ở California, Mỹ.
Ngày 15-7, Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tuyên bố, sẽ cân nhắc việc xây dựng một đạo luật lâu dài để cử các lực lượng vũ trang ra nước ngoài. Trước đó (10-7), tạp chí The Diplomat đăng bài phân tích của nhà nghiên cứu Mina Pollmann chuyên ngành chính trị, chính sách đối ngoại quốc tế tại Đại học Ngoại giao Georgetown bình luận, việc Trung Quốc biến đường 9 đoạn thành 10 đoạn ở Biển Đông, mở rộng yêu sách của cái gọi là "lợi ích cốt lõi" không phải thủ đoạn mới. Theo giới truyền thông, Ấn Độ lo ngại Trung Quốc sau khi độc chiếm Biển Đông, sẽ quay ra ngậm nhấm Ấn Độ Dương
Giới quân sự coi quần đảo Senkaku/Điếu Ngư là “đột phá khẩu” trong quan hệ giữa quốc gia đông dân nhất giới với đất nước mặt trời mọc. Ngày 5-7, Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản (JCG) cho biết, sáng 5-7, 2 tàu hải cảnh Trung Quốc (2101 và 2151) đã xâm nhập lãnh hải gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư ở biển Hoa Đông. Đây là lần thứ 16 tàu Trung Quốc xâm nhập lãnh hải Nhật Bản trong năm 2014. Trước đó (30-6), 2 tàu công vụ của Trung Quốc đã đi vào vùng biển tranh chấp ngoài khơi quần đảo Senkaku/Điếu Ngư sáng 30-6. Gần 2 tháng trước (31-5), 2 tàu Trung Quốc đã tiến vào đường lãnh hải 12 hải lý của một hòn đảo nằm trong quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và đây là lần thứ 12 tàu Trung Quốc tiến vào vùng tranh chấp kể từ đầu năm 2014.
Ngày 26-4, Lực lượng tuần duyên Nhật Bản cho biết, 2 tàu tuần duyên Trung Quốc đã đến gần một hòn đảo thuộc quần đảo Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông, chỉ 2 ngày sau khi Tổng thống Mỹ Barack Obama rời Tokyo. Việc này diễn ra đúng thời điểm Trung Quốc phóng thích tàu Baosteel Emotion sau khi nhận tiền bồi thường (28 triệu USD tiền bồi thường và 384.600 USD tiền phí vận chuyển).
Ngày 24-4, Tòa án Hải sự Thượng Hải (Trung Quốc) tuyên bố, đã thả tàu chở hàng Baosteel Emotion của Nhật Bản sau khi chủ sở hữu (công ty vận tải biển Mitsui O.S.K. Lines Ltd) nộp phạt 2,9 tỷ yên. Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Itsunori Onodera cho biết, Tokyo sẽ cân nhắc trang bị tàu tấn công đổ bộ cho Lực lượng hải quân phòng vệ (MSDF) để chuẩn bị sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ như tái chiếm các đảo xa bờ.
Trong bài viết trên tạp chí National Interest hôm 21-6, chuyên gia quốc phòng Mỹ Harry Kazianis đã phân tích cách thức Washington nên làm nếu xảy ra chiến tranh Trung-Nhật xung quanh quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư trên biển Hoa Đông. Và khi đó Mỹ sẽ tiếp tục duy trì chính sách tái cân bằng, tăng cường sự hiện diện quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương, không can thiệp trực tiếp vào chiến sự.
Hãng Kyodo dẫn khuyến cáo của Đảng Dân chủ Tự Do Nhật Bản (LDP) khi yêu cầu chính phủ cần mở thêm nhiều phái bộ ngoại giao ở nước ngoài bởi phái bộ ngoại giao của Nhật Bản ít hơn nhiều so với Trung Quốc. Tờ Mainichi Shimbun từng đưa tin, để Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản kịp thời ứng phó với tình hình xấu, Tokyo đã thảo luận việc "Thủ tướng quyết định khả năng điều động Lực lượng Phòng vệ", nhằm thay đổi thể chế hiện hành.
Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại Trung Quốc, đầu tư của doanh nghiệp Nhật Bản vào Trung Quốc trong quý I giảm 46,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Còn theo số liệu từ Tổ chức Thương mại Đa phương Nhật Bản (JETRO), trong năm 2013, doanh nghiệp Nhật Bản chỉ đầu tư 9,09 tỷ USD vào Trung Quốc, giảm 33% so với cùng kỳ năm 2012.
Theo một con số thống kê khác, kể từ khi phát động cải cách-mở cửa (năm 1979), tỉ lệ phụ thuộc vào ngoại thương của Trung Quốc so với GDP đã tăng từ 10% lên hơn 70% và từ năm 1998, Bắc Kinh đã là nước nhập siêu về năng lượng. Những số liệu này cho thấy, nền kinh tế Trung Quốc sẽ sụp đổ nếu bị cắt đứt các liên kết thương mại với bên ngoài. Do đó, việc Trung Quốc tìm mọi cách để hướng ra biển là khách quan, nhưng không thể diễn tiến theo kiểu mà Bắc Kinh đang tiến hành.
Trong khi dư luận coi cách giải quyết tranh chấp biển giữa Ấn Độ với Bangladesh (9-7) và Indonesia với Philippines (23-5) là mô hình tham khảo tốt để giải quyết những bất đồng về biên giới trên bộ cũng như trên biển giữa các quốc gia hữu quan, thì Trung Quốc tiếp tục quan điểm nước lớn, không chấp nhận thoả hiệp với bất cứ nước nào. Ngoài ra, Bắc Kinh còn coi Washington và Tokyo là những trở ngại cần loại bỏ trong chiến lược độc bá Biển Đông và biển Hoa Đông nói riêng, cũng như trở thành vị trí số một trên thế giới thời gian tới.
Ngày 9-7, Ấn Độ và Bangladesh cùng hoan nghênh phán quyết phân định biên giới biển giữa 2 nước (19.467 km2 trong vùng biển rộng 25.602 km2 ở vịnh Bengal thuộc về Bangladesh) của Tòa trọng tài thường trực Liên hợp quốc bởi chấm dứt cuộc tranh chấp kéo dài mấy chục năm qua. Trước đó (23-5), Indonesia và Philippines đã ký thỏa thuận phân định biên giới trên biển sau 20 năm đàm phán.
Tân Hồng-Tiên Du
http://petrotimes.vn/news/vn/quoc-te/trung-quoc-quyet-don-my-nhat-vao-chan-tuong-ky-ii.html

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

Một vài thông số về hệ thống phòng không BUK (Russia)

Das Flugabwehrsystem Buk

Một vài thông số về hệ thống phòng không BUK (Russia):

- Độ cao vươn tới: Từ 30 m đến 25 km.
- Khoảng cách tới mục tiêu: Từ 3-50 km
- Độ quét Rađa của hệ thống: 85 km
- Tốc độ bay của tên lửa: ~ 2.988 km/h
- Độ chính xác tiêu diệt mục tiêu:
  1. Máy bay: Tới 90 %
  2. Tên lửa:   Tới 80%
  3. Trực thăng: Tới 80 %
- Đầu đạn tên lửa: Nặng 70 kg và phát nổ khi tới gần mục tiêu


Sơ đồ khả năng bắn hạ máy bay của tên lửa Buk

Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Nỗi đau và nỗi nhục của người Pháp trong thế chiến thứ hai...

Lược trích:

"...
Nhân kỷ niệm 70 năm cuộc đổ bộ của đồng minh ở Normandie- mồng 6 tháng sáu năm 1944 mà mục đích chính là-để tưởng nhớ và vinh danh những người đã chết và vinh danh con số ít oi những những người lính còn sống sót-.Buổi lễ nói lên cái hào quang chiến thắng áp đặt của đồng minh và cố gắng tránh né không hề đề cập đến kẻ thắng người thua cũng như bóng tối lịch sử của nước Pháp.. Phải rồi một buổi lễ kỷ niệm 70 năm, đâu phải là lúc thuận tiện để nói về những điều như thế!!
Và người ta có cảm tưỡng như là lịch sử đã sang trang? Và ngưới ta cần quên và xóa bỏ tất cả để chỉ giữ lại cái gì tích cực nhất?
Nhưng cái tích cực, cái phần tốt đẹp, cái hào quang thực chất có phải là lịch sử không ?.Đôi khi những điều không muốn nói lại cần thiết hơn những điều đã được nói ra.
Vì thế, những lời hay ý đẹp của các nhà lãnh đạo Mỹ, Anh, Canada và của chính tổng thống Pháp- đại diện cho cái lịch sử đã qua- thật sự không cho phép chiếu sáng những góc tối phiền muộn, mà chính người Pháp coi là những năm tháng đen tối (Les années noires) của họ.
· Lịch sử như vậy chính yếu là cái bi kịch. Bi kịch của con người với hằng trăm hệ lụy đủ kiểu..
· Bi kịch quan trọng nhất là những tổn thất sinh mạng hàng triệu người chết-chết đủ kiểu- Tôi đã nhìn thấy những người gốc Do Thái trần truồng, lếch thếch, lang thang, mỗi người một cái xẻng tự đảo hố chôn mình-. Về sự tàn ác dã man thì không bút mực nào nói hết được-. Về kẻ thua người thắng- Về cái mất, cái được.
· Và bi kịch của nước Pháp dù sao cũng chỉ giới hạn trong 4 năm bị Đức chiếm đóng. Bi kịch ấy được biểu tượng qua hai nhân vật lịch sử chính yếu là: Thống chế Pétain và tướng Charles De Gaulle. Đó là hai biểu tượng trái nghịch của một nước Pháp bại trận..
· Nhưng nếu mang cái bi kịch của nước Pháp quy chiếu vào hoàn cảnh V.N thì phải nhân cái mức độ bi kịch, đen tối lên đến 10 lần. Việt Nam không phải chỉ có một cuộc chiến mà nhiều cuộc chiến. Hết chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đến lần thứ hai. Hết đánh Pháp lại đánh Mỹ. Đánh Mỹ vừa xong, nòng súng chưa nguội thì đánh Campuchia rồi đánh Tầu... 
Thống chế Pétain- người anh hùng trong thế chiếnI-chấp nhận hợp tác với Đức để hy vọng mong manh cứu vãn đất nước khỏi tình trạng bị tiêu diệt toàn diện và tướng De Gaulle- một thuộc cấp của Pétain- lúc bấy giờ mới là một đại tá ít được ai biết tới và vừa được thăng cấp tướng-. Ông quyết định đào nạn sang Anh bằng mọi giá, để tiếp tục cuộc chiến đấu chống lại kẻ xâm lược.
Một người với uy tín quá khứ- nhưng nay đã có nhiều dấu hiệu già nua, mòn mỏi và lão hóa- đã chấp nhận thua cuộc. Và một người trẻ, dù chưa tiếng tăm, dù vốn liếng chính trị chưa được ai biết tới đã cương quyết chống lại kẻ xâm lược-. Và cuối cùng kẻ không chấp nhận đấu hàng đã đem lại sự giải phóng cho nước Pháp!!
· Bài học cho nước Pháp cũng là bài học cho Việt Nam!! Bài học hiện nay. Ai là De Gaulle, ai là Pétain? Xem ra Pétain thì có nhiều người dơ tay. De Gaulle thì không có.
Sau này, cho dù tòa án đã kết tội và giam tù tướng Pétain, nhưng dư luận của chính nước Pháp cũng không có một sự đồng thuận chung về trường hợp của Pétain và rất nhiều trường họp khác. Có thể đã có quá nhiều huyền thoại bao quanh nhân vật này. Và công việc ngày hôm nay là giải mã, bạch hóa những huyền thoại, những sự kiện lịch sử bị che giấu!!
Tại sao nước Pháp phải tạo ra huyền thoại chung quanh Pétain và tại sao phải che dấu? Câu trả lời bởi vì nước Pháp yếu, kẻ khác mạnh.
Và tôi nhận thức ra được một điều là: Khi người ta yếu kém, khi con người bất lực, khi một đất nước suy vy, khi một chính quyền bất lực trước thời cuộc, khi họ bị bên ngoài áp lực, bạo hành ức hiếp, khi vì quyền lợi cá nhân hay đảng phái. Người ta cố tình tạo ra huyền thoại và sống huyền thoại. Và Pétain đúng là biểu tượng huyền thoại của nước Pháp đang trên đà suy vi, tụt dốc sau thế chiến một. Nhất là kể từ 1939 trở đi.
Sống huyền thoại đôi khi là lẽ sống của kẻ bất lực, kẻ yếu kém. Nước Pháp trong thời gian bị Pháp chiếm đóng từ 1940-1944, họ không phải được nuôi dưỡng bằng bánh mì, bằng rượu nho mà bằng sự nhẫn nhục và những huyền thoại lớn nhỏ!!! Thật tội nghiệp cho một dân tộc bị xâm chiến mà không thức tỉnh được tình tự dân tộc, tình yêu quê hương xứ sở để vùng dậy!!
Sau này, có dịp đọc lại lịch sử nước Pháp, người ta rơi vào tình trạng không biết đâu là sự thật vì bị bức màn huyền thoại che đậy. Công việc nhỏ nhoi chúng ta làm là cố gắng giải mã những huyền thoại ấy do những tài liệu lịch sử còn để lại.
Một mặt, có một số người cho rằng có thể nào Thống chế Pétain, người anh hùng thắng Đức trong thế chiến I ở trận Verdun- đã bắt người Đức phải nhục nhã cúi đầu vào năm 1918, kết thúc thế chiến thứ I-, chẳng lẻ nào chỉ là một kẻ hèn và nhất là mang tội bán nước, phản bội tổ quốc? Chỗ nào là công là tội? Nếu gọi Pétain là người phản bội lại tổ quốc thì phải gọi hằng trăm, hàng ngàn người Pháp khác là gì?
Nhưng nhìn lại tình hình nước Pháp năm 1940 đã rối như tơ vò trong nỗi bất lực yếu kém với nguy cơ mất nước, mỗi người mỗi ý.
Ngày 16 tháng 5- 1940 mở đầu cho một thảm kịch nước Pháp. Khi Hitler xâm chiếm Bỉ thì quốc vương Bỉ, Paul Baudouin ra lệnh quân đội buông súng. Chiến xa của Guderian và Rommel xông xáo như chỗ không người.
Trung tá De Villelume viết lại trong Journal d’une défaite(nhật ký một cuộc bại trận) của ông là quân lính của chúng ta tan hàng. Người ta nhìn thấy một viên tướng bỏ trốn trên đường. Trận chiến coi như đã thua. Xe thiết giáp Đức tiến tới Laon.. Đánh Hòa Lan trong một ngày. Ngày hôm sau, quân Đức vào Bỉ. Đó là một cuộc tiến quân thần tốc.W. Churchill đã hỏi tướng Gamelin: thế còn quân trừ bị chiến lược của Pháp đâu? Không, không có gì cả.
Đường dẫn đến Paris hầu như mở rộng mà quân địch không gặp một trở ngại nào..Hàng đoàn lính Pháp đã vứt bỏ súng ống, chạy xuống phía Nam để trốn chạy sức tiến công của những xe Panzers..Quân lính Đức đã không có đủ thì giờ để bắt những binh lính Pháp này làm tù binh. Cuộc tháo chạy thật kinh hoảng và nhục nhã.
Cảnh bại trận đã diễn ra như thế!!
Người ta mới hiểu được tại sao chỉ trong vòng 6 tuần lễ, nước Pháp đã phải quy hàng, xin ký Hiệp đình đình chiến vào tháng sáu- 1940..và rút về miền Nam tại Bordeaux.
Thế rồi cuộc chiến tranh xâm lược trong thế chiến hai của Hitler hầu như không tránh được.
Rồi đến lượt Calais bốc cháy. Lần này là đội quân Anh với đội lính ‘ tiền đồn’ và một số nhỏ binh lính Pháp. Họ cũng thua cuộc, nhưng chỉ tìm cách rút ra bãi biển Dunkerque để rút về Anh. Đây là một cuộc rút quân thê thám với xác người bị đốt cháy, trước mặt là quân địch, sau lưng là biển cả…Có thể nói đó là một hoả ngục trong biển lửa.
Nói về cuộc rút quân này, không gì bằng đọc lại W.Churchill để thấy rằng trong hoàn cảnh bi kịch nhất, nếu có lòng với đất nước, vẫn có cơ cứu vãn.
‘Nước Pháp sụp đổ. Hòa Lan bị đè bẹp. Bỉ đầu hàng. Bị dồn vào chân tường, quân đội Anh cũng đã tìm được lối thoát tháo gỡ và rút quân về hướng Manche, tập trung tất cả về về một thành phố chủ yếu làm nghề chài lưới có tên là Dunkerque.
Đây là bi kịch lớn nhất trong lịch sử chiến trận nước Anh từ trước tới giờ. Nếu quân Đức vượt qua đuợc đến Manche- như trạm đấu cầu mà không bị cản trở thì tất cả sẽ mất hết. Hơn 200.000 ngàn quân tập trung về bãi biển Dunkerque như những kẻ vô vọng vì không cách nào có đủ tầu bè rút ra biển. Người ta dự đoán và báo cho vua George VI là chỉ có thể cùng lắm cứu được 17.000 người.
Vậy mà từ các cửa sông Kent vả Douvres, một đội các tàu bè như sà lan, thuyền đánh cá, các loại ca nô, các du thuyền, các tàu kéo, tàu đánh lưới rê, tàu kéo, các phà như Gracie Fields..tất cả đồng lỏng kéo ra biển..
Đúng là một phép lạ. Người ta đã cứu được tất cả 338682 trong đó có một số chiến binh Pháp.
· Để đối đẩu với sự hung bạo của Hitler. Sự hèn nhát, nhượng bộ không giải quyết được gì.
Nước Anh trong thế chiến hai, cần có một người lãnh đạo có tầm nhin xa. Trong con người ấy phải thể hiện tinh thần danh dự, trách nhiệm bổn phận, hành động, cương quyết và quả cảm.
Để đối đầu với Hitler, phải có một người hơn Hitler.
Con người ấy là một thiên tài chiến lược, quân sự, biết vận dụng truyền thống anh hùng chủng tộc, biết thúc đẩy lòng ái quốc của toàn dân.
Con người ấy hiện lúc ấy đang ngồi ở Anh, ngậm điếu sì gà nghĩ đến chuyện cứu nước.
· So W.Churchill với Pétain thì Pétain chỉ là thứ tướng gà chết, nuốt giây thung. W. Churchill đã cứu được nước Anh còn Pétain của nước Pháp thì không?
Chính cuộc rút quân thua trận khỏi Paris thảm bại này đã làm nao núng quân đội Pháp mặc dù từ La Somme đến chiến lũy Maginot chỉ còn là một huyền thoại về sức mạnh quân sự của Pháp. Cuối tháng 6, Hitler nghênh ngang vào Paris diễn hành với bộ tướng của ông. Hai bên đường, thường dân Pháp vỗ tay hoan hô! Ôi còn có cái gì nhục bằng.
Không lạ gì rạng đông ngày 17 tháng sáu, Hitler còn đang đặt Tổng hành dinh của ông tại một làng nhỏ bên Bỉ thì nhận được giấy xin đình chiến của Thồng chế Pétain. Đây là hiệp định đình chiến với Đức như một thứ giây thòng lọng siết cổ dần những kẻ có tinh thần chủ bại (défaitiste) tính toán, hoặc thái độ trông chờ một cách bất lực, (attentiste) hy vọng sự tiếp tay của người Mỹ và nhất là thái độ khôn ngoan xảo quyệt(Machiavélisme), tính toán nhượng bộ chính trị để tránh phải đương đầu trực diện với Đức và chờ cơ hội.
Nhưng cũng cùng ngày ấy, ở Bordeaux, có một người sau này được coi là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Đức. Tướng De Gaulle cảm thấy ông là một người cô độc. Chung quanh ông chỉ là những người đả mỏi mệt kiệt lực, không còn một chút nhuệ khí, chỉ muốn thương lượng với kẻ thù hoặc bỏ cuộc và họ rơi vào tình trạng tuyệt vọng .
Phần De Gaulle cương quyết bảo vệ Paris bằng mọi giá. Và ông cho rằng, không bảo vệ Paris thì cũng sẽ không bảo vệ được nơi nào khác. Ít ra chặn quân Đức ở khu vực sông Seine thì cũng làm chậm bước tiền công của quân Đức. Ông cũng đề nghị chọn De Lattre De Tassigny- một sĩ quan còn trẻ đầy năng lực bảo vệ Paris-, nhưng rất tiếc Paul Reynaud lại chỉ định một viên tướng già Hering.
Sau đó, chính De Gaulle cũng được thăng tướng và chỉ huy bình đoàn 4 thiết giáp trừ bị-một thứ binh đội tập họp rải rác các binh đội đã tan hàng. Một tập hợp hỗn độn đủ các binh chủng không đủ sức kháng cự trước sức mạnh của quân đội Dức. Ông viện dẫn phải bảo vệ Paris như chúng ta đã làm vào năm 1870. Hầu như tiếng nói của De Gaulle không có trọng lượng. Mọi người lo chạy thoát thân. Vì thế, ông đã thú nhận trong Hồi ký chiến tranh Mémoires de guerre của ông như sau: Tôi cảm thấy tôi chỉ còn một mình và mất hết mọi thứ như một người ở bên bờ đại dương và quyết định bơi vượt đại dương. Và ngay trong đêm, ông đã quyết định một mình bỏ đi.. Chán nản và cô độc. Nhưng nhìn lại người lãnh đạo tiêu biểu cho nước Pháp, ông nhận Pétain là người phản bội lại tổ quốc, kẻ bán nước.
Kể từ đó, nhiều lúc họ coi nhau như kẻ thù.
Và không theo Pétain, De Gaulle chỉ còn một con đường hy vọng cứu nước là xa lánh Pétain và tìm con đường đào tỵ sang Anh. De Gaulle đã một mình xử dụng chiếc xe Peugeot 402 của quân đội dành cho ông và do anh tài xế tên Marcel Hutin lái ra phi trường. Vì lý do gia đình, viên tài xế đã xin ở lại Pháp. Phần De Gaulle đã lên một chiếc máy bay riêng ba chỗ ngồi dành cho ông với hộ vệ viên bay sang Anh. De Gaulle cũng đã lên tiếng trên đài phát thanh BBC tại Luân Đôn vào tháng sáu. Có 50 chục ngàn dân Pháp ở Anh, nhưng đã không có mấy người hưởng ứng lời kêu gọi của De Gaulle. Có một khoảng trống lớn những người tình nguyện. BBC ngày 18 tháng sáu, 1940, De Gaulle kêu gọi toàn dân- đặc biệt các thành phần dân Pháp lưu trú ở Anh quy tụ chung quanh ông để kháng chiến chống Đức.. Nhưng đã có bao nhiêu trí thức Pháp dám đối đầu lên tiếng phản kháng. Người ta được biết có những trí thức khoa bảng như ông Hàn Lâm Viện André Maurois đã bỏ trốn sang Anh, rồi di cư sang Mỹ cho an toàn.. Nhà văn phi công St. Exupéry đã quyết định ở lại Pháp cộng tác với chính phủ Pháp ở Vichy và sau đó tử nạn máy bay tại sa mạc trong một chuyến bay đêm đi Bắc Phi..
Thái độ ấy tóm tắt nhận xét chán chường và tuyệt vọng được ghi lại của Eduard Daladier về các tướng lãnh Pháp: Thật là khủng khiếp, tôi chỉ thấy những tướng lãnh với tinh thần bại trận. ( C’est terrible. Je ne vois que des généraux qui ne veulent pas se battre).
Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
Phần W. ChurChill, một lãnh tụ chính trị có tầm nhìn xa chia sẻ quan điểm của De Gaulle đã viết những dòng khuyến cáo sau đây cho Pétain:
Tôi khích lệ chính quyền Pháp bảo vệ Paris bằng cách nhấn mạnh rằng để cung cấp vật tư tiêu thụ cho một đội quân xâm lăng là lớn lắm, vì họ phải chiến đấu chiếm từng căn nhà, từng căn phố..Tôi cũng nhắc ông ta những lời của Clémenceau tuyên bố trong thế chiến I: Tôi sẻ chiến đấu đàng trước Paris, trong Paris và đằng sau Paris..Tôi cũng nhấn mạnh phải thiết lập một Stalingrad ở Paris.
Nhưng Pétain đã điềm tĩnh trả lời: trong thế chiến thứ nhất, tôi có trong tay 60 binh đoàn, nay thì không có gì..Biến Paris thành đống đổ nát sẽ không thay đổi gì cục diện cuối cùng”. Câu nói nguyên văn của Pétain là:Réduire Paris en ruine ne changerait rien au résultat final.(Biến Paris thành đống vụn đổ nát, khộng thay đổi gì toàn cục diện cuối cùng).
Nhưng chính trong hoàn cảnh bi kịch nước Pháp bại trận mà cuộc chiến tranh biến thành cuộc chiến tranh thế giới.
Ngày 16 tháng 5, TT Roosevelt gửi thông điệp cho Quốc Hội yêu cầu tái võ trang quân độ Mỹ. Phần W.ChurChill cho rằng nếu Pháp bại trận, nước Anh vẫn tiếp tục chiến đấu trong khi chờ đợi sự tiếp tay của nước Mỹ. Và rồi chúng tôi sẽ đốt những thành phố của họ, đốt mùa màng và phá tan hoang rừng của họ.
Tinh thần chủ bại của nước Pháp từ Pétain đến dân chúng.
Nước Pháp rơi vào tình trạng khủng hoảng quyết định hòa hay chiến. Một số nhỏ muốn chiến đấu, nhưng nhiều người khác có tinh thần chủ bại muốn bảo vệ Paris khỏi bị xóa sổ và hy vọng còn giữ được một Paris với những di sản văn hóa còn nguyên vẹn.Phần đông giữ thái độ trông chờ- một thái độ thụ động và bất lực-.
Theo Alain Peyrefitte thì phần đông dân chúng Pháp ngả theo Pétain trong thời gian 1940-1942. Dân chúng hô hào: Vive Pétain. Say mê và cuồng nhiệt Thanh niên thiếu nữ cùng hát to: Maréchal, nous voilà.. Trong số những vị tướng trẻ theo Pétain, có một vị tướng trẻ sau này lừng danh trong trận đánh Vĩnh Phúc Yên, đụng mặt với Võ Nguyên Giáp: tướng De Lattre De Tassigny. Nhưng vào năm 1942, De Lattre đã quay trở lại chống Đức. Bị bắt làm tù binh, ông thoát được ra khỏi tù và chỉ huy đệ nhất binh đoàn sang đánh Đức.
· Càng hoan hô Pétain bao nhiêu càng cho thấy dân chúng Pháp mất tinh thần bấy nhiêu.
Thái độ chủ bại này xem ra chiếm ưu thế và cũng là tiêu biểu trong tình thế lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, thực tế nước Pháp bao giờ cũng có kẻ theo tả phái và hữu phái. Quân đội thì có khuynh hướng hữu phái còn trí thức thường ngả theo tả phái! Hữu phái có khuynh hướng bảo thủ, giữ gìn trật tự hiện có trong sự liên tục, tôn trọng thẩm quyền chính đáng. Tả phái mang một niềm hy vọng nên chống đối, đòi cải tổ thay đổi, đòi công lý.
Hai khuynh hướng ấy cứ đối chọi đến bệnh hoạn, đưa dến chia rẽ thay vì đưa đến đối thoại hợp tác.
Thật vậy, vào ngày 11 tháng 6, lúc 11 giờ, Tướng Héring, người có trách nhiệm quân sự bảo vệ Paris còn mạnh dạn tụyên bố với công chúng: Thủ đô Paris phải được bảo vệ tới cùng. Nhưng cũng chính ngay buổi chiều hôm đó Weygand, người lãnh đạo chính phủ lúc bấy giờ lại tuyên bố: Paris, thành phố bỏ ngỏ.( Paris, ville ouverte). Thật trái cựa, thật mâu thuẫn.
Khi tuyên bố Paris bỏ ngỏ có nghĩa: Bỏ ngỏ có nghĩa là buông súng!!!. Là đầu hàng, là để cho Đức vào Paris không tốn một viên đạn!!
Đọc lịch sử nước Pháp- là đọc lịch sử, con người Việt Nam hiện nay- trong thế chiến thứ hai, chúng ta rút ra được hai bài học:
· Bài học thứ nhất là nước Pháp thua cuộc vì yếu kém, chế độ cộng hòa đã rũa mòn, tinh thần dân chúng thụ động, nản chí. Họ chỉ hy vọng vào trông chờ vào những mơ mộng không tưởng, vào hào quang quá khứ. Có nghĩa là sống bằng huyền thoại, dựng lên huyền thoại như Pétain để tự tự an ủi, tự bào chữa, rơi vào tình trạng suy nhược thần kinh. Cái tác hại duy nhất mà Pétain đem lại cho nhân dân Pháp là sự an tâm có ta đây- cứ nhẫn nhục, cứ chịu đựng, cứ chờ đợi, rồi một ngày mai sẽ tươi sáng.
Huyền thoại về một nước Pháp anh hùng
Tôi có thể nói thế này, Pétain chỉ cho nước Pháp mượn cái tên hão và những hào quang chói lòa che đậy cái hèn yếu, cái huyền thoại về ông. 
Đất nước Pháp trong nhiều thập kỷ, trong tâm thức người dân đã từng được nhồi nhét vào đầu, coi là đất nước vĩ đại- một nước đại Pháp như người ta quen gọi-. Một đất nước đã từng đánh tan đạo quân nước Phổ hùng mạnh trong một chiến dịch thần tốc dưới quyền điều khiển của Napoléon năm 1800.
Đó cũng là một đất nước đã từng đi chinh phục xâm chiếm đất đai trải rộng đến 12.898.000 cây số vuông với số 110.631.000 triệu dân tính đến năm 1936.
Và gần hơn nữa, một đất nước mới ngày nào trong thế chiến thứ nhất với những người lãnh đạo như Clémenceau, như Foch, như Joffre, như Lyautey.. nay đều đã chết hoặc hết thởi để lại khoảng trống lãnh đạo không lấp đầy được.Trong số bảy tướng lãnh Pháp làm nên sự nghiệp hiển hách, nay chỉ còn mình Pétain(Tướng Francet d’Espérey chết 1942). Phải chăng thống chế Pétain nay chỉ là kẻ trám chỗ vì không có ai khác đủ uy tín-. Pétain tiêu biểu cho một nước Pháp đã hết thời. Pétain chỉ sống cái hào quang của quá khứ do Joffre, Lyautey để lại? Nhưng thời đại hoàng kim của những vị tướng này đã chấm dứt.
Đất nước ấy đã từng có những giây phút vinh quang và thay vì để tang cho quá khứ ấy, họ vực cho nó sống dậy.
Nói đúng như Paul Valéry là: Không một dân tộc nào chịu nhìn nhận những bất hạnh của đất nước mình như những đứa con của dòng chính.
Những hào quang quá khứ ấy cứ được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc. Nước Pháp như cái rốn của vũ trụ không bao giờ thoát ra được khỏi mình.Nhưng đôi khi thực tế thì yếu kém, không khả năng lèo lái, bất lực trước thời cuộc, chậm lụt và bị các nước khác bỏ xa. Đó là một tình thế lưỡng nan, lui không xong mà tiến thì không được. Chính trị nước Pháp qua các chính quyền chỉ tính từ mồng 6 tháng 2 năm 1934 đến 1940 lần lượt 13 lần thay đổi nội các chính phủ.
Đó là sự phá sản chính trị của guồng máy chính trị nước Pháp..Nói cho chính xác hơn, đó là sự phá sản của nền đệ tam cộng hòa- một nền cộng hòa đã thối rữa, mục nát không dáp ứng lại được tình thế.
Tâm trạng người dân Pháp đâm mỏi mệt, bất mãn chán chường và thất vọng. Nước Pháp cần một người lãnh đạo có lòng yêu nước, can trường và dám đương đầu với kẻ thù.
Họ không tìm ra được người lãnh đạo nên sinh ra bất mãn chế độ cộng hòa, bất mãn với hoàn cảnh thực tế, với những khó khăn đủ loại, nhất là với kinh tế suy thoái. Cuối cùng họ bất mãn với gia đình và đôi khi với chính bản thân họ. Và chỉ cần một chút xíu bất đồng, một ngọn lửa nhen nhúm cũng đủ gây thành đám cháy.
Ngay hiện nay nếu có dịp cứ nhìn cảnh xe cộ chạy trên đường phố ở xa lộ và ở ngay chính Paris cho thấy một vô thức tập thể điên khùng. Người ta chèn lấn nhau, tâm lý muốn vượt kẻ khác, từ chối đặc quyền ưu tiên của dòng luu lượng xe phải nhường nhau như vượt đèn đỏ, bảng cấm. Tính hung hăng quá khích thể hiện khi lái xe là một thứ giải tỏa bất mãn, bực bội. Cứ có hai người Pháp đủ ồn ào tranh cãi. Tệ hơn nữa họ tự hành xử thay cho pháp luật.
Không lạ gì, nước Pháp là nơi diễn ra nhiều cuộc rối loạn nhất, nhiều thay đổi chính phủ nhất, nhiều cuộc tranh đấu chính trị nhất, nhiều cuộc biểu tình xuống đường, nhiều cuộc đình công xảy ra mỗi ngày. Alain Peyrefitte đã dành hẳn một cuốn sách nhan đề Le Mal Francais để viết về những cái tệ hại của nước Pháp. .
Một đất nước như thế là cơ hội cho đủ loại phe phái, đủ loại mặt trận, đủ loại các thành phần khuynh tả mọc lên. Đâu đâu cũng thấy bất mãn.biểu tình xuống đường, đình công, hô hào, đả đảo.
Trong một tình hình chính trị bất ổn như thế, nước Pháp không còn ai khác có khả năng đối mặt với kẻ thù đã phải triệu hồi một viên tướng già 83 tuổi- tuổi hào quang cũng là tuổi xế chiều từ Tây Ban Nha trở về- để điều khiển đất nước!!Người ta chỉ còn tin vào ông như cái phao hy vọng..
Cái thua cái được thì rõ rệt- không lật ngược được thế cờ được nữa-. Quân Đức làm chủ nước Pháp nhưng đồng thời cũng phá tan hoang tất cả những giá trị tinh thần của nước Pháp để lại. Tại sao một dân tộc hiển hách với những cuộc viễn chinh thập tự quân (Croisades) và những cuộc cách mạng tinh thần với Pascal, với Voltaire lại chỉ cho thấy cảnh tượng chia rẽ, gấu ó và bất lực?
Phần viên tướng già, ông bắt buộc phải chơi trò chơi hai mặt. Ông thù ghét Hitler, khinh miệt là đằng khác. Ông thường trong chỗ riêng tư coi đó là thằng vô lại, thằng tầm thường, nhưng nguy hiểm vì nó không đọc, không suy nghĩ và không biết gì về lịch sử. Nhưng ông vẫn phải chìa tay ra xin hòa với Đức, nhân nhượng để giữ những gì còn giữ được.Ông giữ im lặng khi cần, soay sở, khôn khéo, ông giữ cho riêng mình một vẻ bí mật miễn sao để khỏi bị kẻ thù tiêu diệt. Hitler cũng phài nhìn nhận ông là một thứ cáo già. Con cáo già ấy bắt buộc phải thương nhượng, phải quanh co, phải che dấu.
Nhưng cái hy vọng duy nhất ông có thể làm được là giảm thiểu những tàn phá, những đổ vỡ có tính cách hủy diệt do chiến chiến tranh gây ra. Và xem ra điều đó có đúng một phần sau khi chiến tranh chấm dứt. Paris còn nguyên vẹn, còn nguyên các bảo tàng viện, các đền đài.
Và điều ông đã làm là xin đình chiến giữ cho Paris còn nguyên vẹn. Các lâu đài, các tài liệu cổ, các cổ vật các bức tranh vô giá và ngay cả những mảnh vườn hoàng gia được thiết lập từ 350 năm trước, thởi Louis XIII vẫn còn nguyên vẹn. Giữ vườn hoa từ thế kỷ 18 còn nguyên vẹn thì tốt rồi. Nhưng Paris đã mất cái danh dự, cái căn cước của một dân tộc vốn tự hào từ lâu đời..
Nhưng tình tự dân tộc, hãnh diện vì có một tổ quốc thì bán rẻ? Cho nên sau này, nhiều tài liệu bí mật được Raymond Tournoux thu thập được công bố cho thấy ông cũng đã phải trả một giá rất đắt. Quá đắt là đàng khác. Và ai sau này sẽ trả cho ông đây?
Phần Hitler cũng chỉ muốn có thế, không muốn đẩy Pétain vào chân tường cũng như người Pháp vảo một cuộc kháng chiến tuyệt vọng. Vì thế, Hitler nhận và đồng ý ký thỏa hiệp đình chiến. Cái lợi thế là với thỏa hiệp này, Hitler có thể chia rẽ hai sức mạnh Pháp và Anh. Lực lượng hải quân Pháp buộc phải tỏ ra trung lập, được chỉ định ở những bến cảng do Đức cho phép.
Và nhờ thế Đức có thể cô lập, vô hiệu hóa hạm đội Anh. Sau này, 40 tầu ngầm của Đức tha hồ tung hoành, phá hủy nhiều tầu hàng của Anh Quốc và hầu như làm chủ trên biển. 4 triệu tấn hàng hóa của Anh đã bị hải quân Đức đánh chìm.
Không tốn hao thêm binh lực, Hitler làm chủ trên đất và trên biển, lấy nước Pháp làm chỗ hậu cần cung cấp lương thực, sản xuất hàng hóa phục vụ chiến tranh, chuyên chở công cụ cho chiến tranh mà mục tiêu chiến lược là nhắm vào nước Anh.
Tôi cho đây là cái giá trả cao nhất nước Pháp phải trả: mất chủ quyền, mất độc lập và gián tiếp làm tay sai cho giặc. Nếu không có Mỹ can thiệp vào liệu nước Pháp với Pétain bao giờ lấy lại được độc lập?
Pétain và những đồng đảng như Darlan, Laval  : Những tội ác bán nước còn để lại
Người ta còn nhớ trong thế chiến I, Hitler mới chỉ là một anh đội xếp. Vậy mà nay ông trở thành một lãnh tụ sáng giá nhất và đầy tham vọng, điên cuồng đẩy nước Đức vào một cuộc chiến tranh tàn khốc. Ngay từ năm 1938, ông đã chuẩn bị cuộc chiến tranh rửa nhục ấy rồi qua cuốn sách Mein Kampf . Winston Churchill khi có dịp đọc cuốn sách của Hitler xuất bản, cuốn Mein Kampf đã cảnh cáo thế giới và nước Pháp rằng:
" Những giấc mơ giải phóng và trả thù đả được ấp ủ trong tâm hồn của người Đức rồi. Sự hận thù gia tăng với người Pháp sẽ đoàn kết tất cả dân tộc Đức lại thành một khối thống nhất. Sớm hay muộn gì thì nước Đức cũng sẽ tái võ trang.."
Phần Pétain, ông thú nhận với người bạn tâm giao là triết gia Gillouin là ông chưa hề bao giờ đọc cuốn Mein Kampf của Hitler.
Người ta cần biết rằng sau chiến tranh thứ nhất, 5 triệu dân Đức thất nghiệp. Người ta nhìn thấy nhiều cựu chiến binh trong thời chiến đi lang thang ăn mày trên các đường phố. Lạm phát hầu như làm phá sản tầng lớp trung lưu. Tổng thống Hinderburg- giống như Pétain- đã 84 tuổi sống trong tình trạng hoảng sợ lão suy và bất lực.
Cảnh tượng ấy lại lặp lại sau chiến tranh lần thứ hai một cách kinh hoàng hơn, Berlin bị chia ra thành 4 vùng với cảnh hoang tàn đổ nát, những người dân Berlin thẫn thờ, ngơ ngác, quần áo dơ dáy thất thểu trên đường phố. Cảnh đó giúp chúng ta hiểu được tâm trạng dân Đức sau chiến tranh 1918 và những phản ứng của họ.
Giới trẻ mới lớn lên ở Đức đi tìm một thần tượng như một chỗ dựa để xóa bỏ sự ô nhục của hòa ước Versailles. Tôi đã thấy hình ảnh hàng trăm ngàn thanh niên cùng đứng lên, cùng hô vang dậy: Hitler, c’est l’Allemagne. Hitler, chính là nước Đức.
Hitler với cuốn Mein Kampf đáp ứng những nguyện vọng ấy. Theo Hitler, chỉ có sức mạnh bạo tàn giải cứu được nước Đức. Dân tộc Đức là một giống dân phải tìm lại được cái nguyên chất (pureté) của nòi tộc. Muốn thế, cần phải tẩy trừ những giống dân ngoại tộc làm vấy bẩn nòi tộc..Phải làm thế nào cho quân đội Đức hiểu rằng họ là những thành phần tinh hảo không bao giờ bị khuất phục.(Invincibilité). Muốn thế, phải tái võ trang. Chính cái lòng ái quốc, tài ăn nói của Hitler đã quy tụ dân Đức thành một khối..
Hơn ai hết, W. ChurChill hiểu được con người thực của Hitler. Hiểu được Hitler là biểu tượng của điều xấu, tồi tệ nhất.(Incarnation du mal) với những tham vọng mang tính cách hủy diệt như ngày tận thế,(Apocalyptique)
Cho nên, những thông tin về việc tái võ trang quân đội Đức đều được phúc trình đầy đủ về bộ Tham quân sự của Pháp.Tướng Pétain là người hiểu rõ hơn ai hết về sức mạnh hàng đầu của việc võ trang. Thắng Đức trong thế chiến thứ nhất là nhờ chiến xa và súng chống chiến xa của Pháp. Vì thế nước Pháp phải sản xuất cho bằng được những chiến xa kiểu mới như BI đang trong giai đoạn thử nghiệm để sản xuất và những súng chống chiến xa 47 được cho biết là tối tân nhất thế giới.
Pétain lúc ấy là bộ trưởng bộ chiến tranh, năm 1934, đã có đủ các sơ đồ, bản vẽ, các bản dự toán, tất cả các chi tiết kỹ thuật, tất cả các mẫu mã của những chiếc chiến xa BI.. tân tiến nhất trên bàn giấy của ông. Nhưng ông giảm chi tiêu quốc phòng từ 630 triệu xuống còn 400 triệu, 20% ít hơn. Cuối cùng chỉ có phần nhỏ các chiến xa được sản xuất..
Đức đã chế tạo loại súng 130 ly mà tầm bắn xa là 14 kilômét, trong khi quân đội Pháp vẫn sử dụng loại súng cổ điển 75 ly mà tầm bắn khoảng 8 đến 9 cây số.
Rất tiếc, người hùng của trận Verdun đã rơi vào tình trạng bi quan và bị động. Khi còn ở Tây Ban Nha, ông chỉ lo chống lại sự tuyên truyền của Đức bôi nhọ nước Pháp. Mặc dù hơn ai hết, thống chế Pétain hiểu rất rõ, mối nguy hiểm sống còn giữa nước Đức và nước Pháp.
Ông không dám can đảm và công khai báo nguy những mối hiểm nguy vốn tiềm tàng như một mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc.Thái độ của Pétain đối với cuộc chiến giữa khối đồng minh và Đức là thái độ trung lập.
Trở lại câu chuyện nước Pháp. Thế rồi cuộc chiến tranh xâm lược trong thế chiến hai của Hitler hầu như không tránh được.
Không lạ gì rạng đông ngày 17 tháng sáu, Hitler còn đang đặt Tổng hành dinh của ông tại một làng nhỏ bên Bỉ thì nhận được giấy xin đình chiến của Thồng chế Pétain. Đây là hiệp định đình chiến với Đức như một thứ giây thòng lọng siết cổ dần những kẻ có tinh thần chủ bại (défaitiste) tính toán, hoặc thái độ trông chờ một cách bất lực, (attentiste) hy vọng sự tiếp tay của người Mỹ và nhất là thái độ khôn ngoan xảo quyệt(Machiavélisme), tính toán nhượng bộ chính trị để tránh phải đương đầu trực diện với Đức và chờ cơ hội.
Mãi khi Pétain ra tòa thì các sự kiện lịch sử thời Đức chiếm đóng mới dân dần được tiết lộ nhờ vào một số tài liệu do phụ tá của Pétain viết- ông Abetz trong Memorandum..Và sau cùng là công sưu tập của Raymond Tournoux trong cuồn Pétain et la France..
Tài liệu tiết lộ sau này cho thấy những người như Darlan đã phản bội đất nước như thế nào.
Darlan, một viên tướng phản bội lại quyền lợi nước Pháp, làm tay sai cho giặc
Nước Pháp qua Darland đã trình bầy về sách lược phải ngả về với Đức bằng cách tương nhượng. Theo Darland:
- Cái cơ may cuối cùng của chúng ta là sáp gần lại với Đức.

- Nếu chúng ta nghiêng về phía người Anh, nước Pháp sẽ bị tiêu diệt và phân xẻ ra từng mảnh và không còn tồn tại như một quốc gia nữa

- Nếu chúng ta áp dụng thái độ đi giây, nước đôi( Politique de bascule) với cả hai, nước Đức sẽ gây cho chúng ta muôn vàn khó khăn khó có thể giữ được chủ quyền. Trong mọi tình huống, chúng ta không thể có được hòa bình, ổn định.

- Nếu chúng ta chấp nhận hợp tác với người Đức chống lại người Anh, có nghĩa là chúng ta làm việc cho họ trong các nhà máy của chúng ta, cung cấp cho họ những phương tiện thì chúng ta có thể cứu vãn được nước Pháp, giảm thiểu đến tối đa các thiệt hại về lãnh thổ, lãnh thổ chính quốc và các thuộc địa, đóng vai trò xứng đáng nếu không phải là quan trọng trong một Âu Châu tương lai.
Và Đô Đốc Darland kết luận: 
Chọn lựa của tôi là dứt khoát và tôi sẽ không thay đổi lập trường chỉ vì một tầu chở lúa mì hay một tầu chở dầu.(có nghĩa là nhận sự trợ giúp của Hoa Kỳ).[1] Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
Thật ra, vì quyền lợi cá nhân, Darlan đã ve vãn Hitler và hy vọng có thế thay chỗ của thống chế Pétain. Điều này do chính Pétain tiết lộ. Darlan đã chọn lựa theo Đức và ký những thỏa hiệp nhượng bộ cho Đức như sau đây:
Đô đốc Darlan đã ký một biên bản tại Paris cho phép Đức được xử dụng các phi trường ở Irak và Syrie.. Cứ hết nhượng bộ này đến nhượng bộ để đổi lấy hai chữ bình an. Một cách nào đó thì đây là những kẻ lãnh đạo bán nước phải bị treo cổ. Chúng đã để cho Hitler xây dựng được một căn cứ tiếp liệu phục vụ cho chiến tranh với 500.000 chuyên viên, thợ thuyền phục vụ sản xuất cho nhu cầu chiến tranh của Đức tại chính nước Pháp. Mỗi ngày có 1500 toa tầu chở hàng hóa đủ loại ra khỏi nước Pháp. Mà một số lớn những toa tầu ấy không bao giờ quay trở lại..
Theo phúc trình của Abetz- Mémorandum d.Abetz – một phụ tá của tướng Pétain- cho thấy, nước Pháp phải cung cấp số lượng thực phẩm đồ sộ để nuôi từ 500.000 người đến 1.500.000 người. Hằng ngày, quân lính Đức tiêu thụ một phần ba số thịt, cá và rau cỏ của nước Pháp. Còn lai hai phần ba số thực phẩm đo để nuôi 39.500.000 người Pháp.
Ủy ban đình chiến Wiesbaden, do tướng Doyen cũng đã gửi một lá thư phản kháng lên tướng Đức Volg muốn đòi lại 85.000 toa tầu đã được chuyển giao cho Dức ‘ mượn’ và 25 ngàn toa tầu ở vùng Alsace-Lorraine đã không bao giờ được hoàn trả. Chưa kể 6300 xe hơi chở khách của Pháp được giữ lại ở bên Đức.
Về việc đòi lại các toa xe lửa, phúc trình của viên phụ tá Abetz của Pétain ghi lại như sau:
Trong dịp hội kiến với Goering, Pétain đã yêu cầu trả lại 800.000 nông dân bị bắt làm tù binh cho Đức. Pétain cũng đòi lại những toa xe lửa chở hàng sang Đức. Những toa xe lửa không được trả lại chiếm một phần ba số lượng toa xe lửa của nước Pháp..
Việc đòi trả lại này hẳn là không đi đến đâu và không bao giờ những toa xe lửa ấy có dịp quay lại nước Pháp.
Darlan tin tưởng rằng một trật tự mới Ordre nouveau sẽ do Hitler điều khiển. Và Darlan tin chắc rằng Anh quốc sẽ bị Hitlet xâm chiếm trong vòng năm tuần lễ. Và ngay cả trong trường hợp chưa bị xâm chiếm thì nó cũng sẽ chết ngạt không lối thoát. Vì vậy, Hải quân Pháp sẽ bằng mọi giá không trao vào tay Đức, nhưng cũng không bao giờ giao cho hải quân Anh. Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
Kết lụận, nước Pháp trở thành con tin giữa các nước đồng minh và Đức và nước Pháp trong vùng tạm chiến trở thành nguồn cung cấp vật tư cho quân đội chiếm đóng..
· Trong khi đó, Hitler, trong cuộc gặp gỡ với Darlan đã phủ dụ với những lời hứa hẹn viển vông như sau:
“Hitler nhấn mạnh rằng, ông ta không có một tham vọng quân sự nào và tuyên bố một cách thành khẩn rằng những chiến lợi phẩm thắng được trong một cuộc chiến thì không bao giờ bù lại được những mất mát. Và ông không có một tham vọng hành xử như một bạo chúa đối với nước Pháp (..). Đồng thời ông mong mỏi có sự thống nhất Âu Châu và điều đó cho phép Darland có thể có cơ hội nhờ nước Đức tổ chức bảo vệ lục địa Âu Châu. Tuy nhiên, rõ ràng là số phận Anh Quốc phải được giải quyết một cách rõ ràng.. Hitler nói thêm, nước Pháp cần bằng mọi cách giúp nước Đức đạt được mục đích này..Nước Pháp có thể bắt đầu một cách khiêm tốn giúp nước Đức trong lãnh vực kinh tế và hợp tác với Đức trong vấn đề Syrie. Và nước Pháp nếu đi theo con đường này thì cũng yêu cầu Đức nhượng bộ để làm cho sự hợp tác này có thể chấp nhận được với dân chúng Pháp.
· Giống như Trung Quốc bây giờ, Hitler và Phát Xít Đức vừa đánh trống vừa ăn cướp. Hitler la hoảng rằng: Nước Đức bị bao vây. Nước Đức chỉ là thành lũy chống lại bọn Bôn Sơ Vích. Nước Anh tiến hành một cuộc chiến tranh để cướp đi cái quyền tồn tại của nước Đức..
Trong khi đó tài liệu mật tịch thu được cho biết, ngay từ năm 1939, Hitler định xử dụng 1000 phi cơ tấn công nước Anh, trong đó mỗi phi cơ cho thả dù 4 lính nhảy dủ nhốt trong một thùng sắt khép kín. Khi được thả xuống đất, những người lính nhảy dù này sẽ tổ chức cho 200 phi cơ cỡ lớn chở theo vũ khí nhẹ và súng đạn.. 4000 lính nhảy dù này rất có thể bị hy sinh, nhưng sẽ gây được một ấn tượng không nhỏ. Việc thực tập này đã được thao diễn ở Berlin với 1000 phi cơ và 400 lính dù. Có 65 lính dù nhảy xuống đất đã bị chết vì va chạm mạnh. Một số các trang bị vũ khí đã bị hư hại bất khiển dụng.
Việc tấn công sang Anh gặp quá nhiều trở ngại và Hitler đã đổi hướng quyết định tấn công sang Liên Xô.
Quan điểm này của Darlan cũng được Pétain và chính phủ của ông đồng ý.
Pétain còn lo sợ một sự thỏa hiệp giữa Đức và Anh sẽ biến nước Pháp bị cô lập . Nhìn lại thỏa hiệp cho thấy có điều khoản là các tàu của hải quân Pháp phải được tập trung vào các cảng đã được chỉ định dưới quyền kiểm soát của Đức hoặc của Ý. Cũng trong những điều khoản được ghi trong thỏa ước, người Pháp phải trao trả mấy trăm phi công Đức bị bắt từ hồi 1939..Đây là những điều khó có thể tha thứ cho Darlan và Pétain được.
Tài liệu sau này đồng minh bắt được cho thấy sự thông đồng của Darlan với Đô đốc Raeder của Đức. Darlan đã chia xẻ những quan điểm chiến lược với Hải quân Đức và sẵn sàng hợp tác trong mọi tình huống. Ngày này đọc lại phúc trình của đô đốc Raeder, người Đức với Darlan, người ta không thể nào tránh khỏi cảm giác khó chịu và bực bội. Mặc dầu, Darlan đã bị ám sát chết, tướng Weygand trong cuộc điều trần trước Quốc Hội điều tra tội phạm tứ 1933 đến 1945 đã kết án nặng lời cả Darlan và Laval.
Laval, kẻ phản bội thứ hai của nước Pháp
Nhưng Pierre Laval còn tệ hơn Darlan một bậc. Laval bày tỏ sự hợp tác với Đức một cách công khai, lộ liễu, với một cung cách thật hèn hạ. Ông ta tin rằng thắng lợi cuối cùng thuộc về nước Đức. Vì thế, vào ngày 20 tháng 10 năm 1940, Hitler nhận được một lá thư của Laval gửi với nội dung bày tỏ lòng biết ơn của ông như sau:
"Tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu xa tới ngài và cám ơn vị đại sứ của ngài đã đến thăm tôi tại Chanteldon, Vichy. Tôi tin rằng việc bắt giam tôi sẽ mau chóng được thả ra và chính ngài mà tôi bày tỏ lòng biết ơn do sai lầm nặng nề của chính quyền Pháp..
Chính sách hợp tác với Đức được đa số dân chúng Pháp ủng hộ.. Và nhiều người tin rằng đây là giải pháp duy nhất mà mọi người phải theo..Sự hợp tác này phải tỏ ra sự trung thành, không nước đôi và không có hậu ý. Chính vì thế, tôi đã hiểu như thế và đã áp dụng.. Không gì vĩ đại, không gì có thể bền vững có thể thực hiện được nếu chỉ bằng tính cách hai mặt..
Tôi yêu đất nước tôi và tôi tin rằng do quá khứ của nó, nó sẽ có một chỗ xứng đáng trong một Âu Châu mới mà ngài đang xây dựng."
Trong nhiều dịp khác, Pierre Laval còn tuyên bố nhiều câu đến vô sỉ: Lãnh tụ Hitler là một nhân vật vĩ đại, vì ông biết rằng, ông không thể kết hợp được một Âu Châu mà không có nước Pháp. Hoặc nếu Đức và Pháp hợp tác tạo thành Âu Châu thì Đức sẽ thắng trận. Tôi mong muốn Đức thắng trận , vì nếu không có họ thì trong tương lai bọn Bôn Sơ Vích sẽ có mặt khắp nơi.
Trong thời kỳ Đức chiếm đóng nước Pháp, Laval đã trực tiếp dính dáng vào việc bắt giữ lưu đầy những người Do Thái. Trong đó có 22.000 người Do Thái mà 40% là Do Thái gốc Pháp.Và hàng vài chục ngàn người Do Thái ngoại quốc sống trên đất Pháp
· Nếu Laval biết số phận của những người Do Thái này ra sao khi dời nước Pháp, hoặc sang Ba Lan, hoặc được đầy sang Liên Xô thì ông ta sẽ nghĩ gì?
· .Laval cũng là người trách nhiệm tổ chức hằng nửa triệu công dân Pháp bị bắt buộc phải đầy sang Đức làm việc. Tháng 11, năm 1940, Laval đã giao số vàng của ngân hàng nước Bỉ gửi nước Pháp cũng như nhượng lại những cổ phần của nước Pháp về những mỏ đồng ở Bor, Nam Tư.. Đây là thứ nguyên liệu chiến lược cho việc đúc đạn dược cho chiến tranh.
· Laval đã phạm vào những lỗi lầm phản quốc không thể tha thứ được.
Khi mà chiến cuộc đã ngả về phía thuận lợi cho đồng minh, ông cùng với Pétain bị Hitler đưa về Đức, vùng Belfort. Cho đến khi bị giải ra tòa án tối cao, Laval vẫn tin rằng mình làm những điều có lợi cho nước Pháp. Tiết kiệm được xương máu. Tiết kiệm được tiền bạc. Người Pháp không bị phá sản. Kho vàng vẫn còn đó, các xí nghiệp kỹ nghệ vẫn hoạt động.
Ông cho rằng 4 năm dưới sự chiếm đóng của Đức thì ít tốn kém hơn 3 tháng chiến tranh.
Và ông tin rằng một ngày nào đó, người dân Pháp sẽ nhỉn nhận ra ông là người có ích cho xứ sở.
Ông bị tòa án tối cao Pháp kết án tử hình về tội phản quốc và sau đó bị đem ra xử bắn ngày 15 tháng 10 1945.
Tướng Pétain, công hay tội của ông với nước Pháp?
Phần tướng Pétain thì có nhiều chi tiết cần phải nói rõ hơn. Dưới quyền ông lúc bấy giờ có khoảng 2000 người gồm có lính canh phòng và hiến binh bảo vệ ông. Ông đã chối từ không chịu ra đi theo lệnh của Hitler. Ông thề sẽ ở lại trừ khi được đưa về Paris. Hitler đã dọa nếu không chịu ra đi, y sẽ cho máy bay Stukas và pháo binh oanh tạc nát Vichy.. Nghĩ tới đàn bà và trẻ con bị chết oan vô tội, ông đành thúc thủ sang Đức..Đồng thời ông cũng gửi thư chúc mừng tướng De Gaullle và yêu cầu mọi ngưởi theo De Gaulle..Ngày 26 tháng sáu 1944, ông cũng gửi đến Tổng thống Mỹ được viết trên một miếng vải dù và khâu trong một chiếc áo vét để có thể vượt qua biên giới Pháp để đến tay ngoại trưởng Allen Dulles.
Sau khi đồng minh thắng trận, ông được giải cứu và sang Thụy Sĩ. De Gaulle không muốn đưa ông về nước để tránh mọi rắc rối chính trị và pháp lý.
Nhưng Pétain quả là người quá chu đáo. Người ta còn nhớ ông còn yêu cầu Thụy Sĩ chuyển ông về Pháp để ông có thể đối chất với tư cách của một người cầm đầu có trách nhiệm.. Ông bị giam giữ ở Montrouge. Ông Chết sau vài năm và khi chết cũng vẫn được một số người quý mến và tiễn đưa ông.
Về Pétain, ông là loại chính trị gia quỷ quyệt, mánh lới, mưu mẹo, kiên trì. Ông là thứ cáo già-một thứ nửa nạc nửa mỡ- một trò chơi hai mặt, đi giây-sát với ranh giới của sự phản bội.
Khi đồng minh sắp sửa đổ bộ lên đất Pháp, thống chế Pétain còn đủ cái hèn hạ mất danh dự khi ông gửi dân Pháp một thông điệp tạm dịch sau đây vào ngày 28 tháng tư, 1944, hai tháng trước khi đồng minh đổ bộ:
" Quốc dân đồng bào, cái được gọi là giải phóng chỉ là một sự lừa phỉnh về một ảo tưởng mà đồng bào sắp chịu nhường bước chấp nhận. Cái ảo tưởng ấy cũng là điều đã thúc đẩy những người Pháp đã phủ nhận những lời nói và lời tuyên thệ để hy sinh cho một thứ ái quốc giả hiệu mà chúng ta đã có dịp chứng kiến những gì đã xảy ra ở Bắc Phi.. Lòng ái quốc chân chính phải được thể hiện bằng một sự trung thành toàn diện. Những ai đó, từ xa xôi, đã tung ra những quân lệnh tạo ra sự rối loạn đã muốn lôi kéo nước Pháp vào vào một cuộc phiêu lưu mới mà mục tiêu thật là đáng ngờ vực. Hỡi Quốc dân đồng bào, bất kể là ai, là công chức, quân đội hay chỉ là một dân thường đang tham dự vào các nhóm kháng chiến là đang làm nguy hại đến đất nước.."
Quá chán nản và ê chề trước lời tuyên bố của Pétain, viên sĩ quan tùy viên, đại tá Longeau Saint-Michel đã xin từ nhiệm và gia nhập quân đội bí mật.
Nhận được lời hiệu triệu của Pétain, De Gaulle chỉ còn biết đưa ra nhận xét: Tuổi già là một sự suy sụp không tránh khỏi.
Sợ viên tướng cáo già bị đồng minh bắt, Hitler ra lệnh dẫn giải ông ta về vùng Paris, ở lâu đài Voisins vào ngày 7 tháng năm..Có 12 xe mật vụ Đức dẫn đường. Phải chăng đây là chặng đường cuối cùng của một kẻ phản quốc?
Mỗi người trong bọn ba người trên ngả theo Đức theo cách thức của họ. Pétain cũng chẳng ưa gì Laval, cũng như Darlan.. Sự ngả theo Đức như một thứ bầy tôi đã tự nó quyết định số phận chính trị của Laval.. Ngày 3 tháng 12, 1940 tại Marseille, Pétain đã triệu tập một phiên họp nội các và loại trừ Laval. Nhưng chỉ hai năm sau Laval lại được dùng lại.
Sau này, Pétain chỉ đơn giản nói: Con người ấy( Laval) đã phản bội chúng ta. Tôi không còn muốn thấy sự có mặt của y nữa.
Nói cho cùng ngay chính bản thân Pétain đều cho thấy những tính toán ảo tưởng quá tự tin, cao ngạo về một quá khứ đi tìm một thứ hòa bình thỏa hiệp( Paix de compromis). Hòa bình thỏa hiệp thực sự chỉ là thứ hòa bình ký trên tờ giấy trắng, thứ giấy lộn để cho Đức mặc sức tung hoành. Và dưới cánh của Pétain là những thành phần xu thời, trở cờ như Pierre Laval, Darlan. Những người này sẵn sàng làm tay sai cho Đức với giá trẻ.
 Lập trường chính trị của Pétain là nhượng bộ, dằng co để chờ: chờ Mỹ ra tay giúp đỡ một cách vô vọng. Vì lúc ây, chính sách của Mỹ vẫn là thái độ không can thiệp. Đúng hơn, đó là một chủ trương biệt lập chủ nghĩa.(Isolationisme).(Lúc ấy chưa có một chính sách một trật tự mới. (Ordre nouveau).
Chủ trương biệt lập của Mỹ chẳng những làm Pétain và nước Pháp tuyệt vọng mà cả Âu Châu sợ hãi. Thụy Điển sợ quá, vì đã có bảy nước bị Đức chiếm đóng đành nhường cho Đức mọi phương tiện chuyên chở chiến cụ để đổi lấy sự an toàn lãnh thổ.
Âu Châu rơi vào tình trạng hoảng loạn..
Nhưng mặt khác, Pétain lại phải ra mặt chống đối các phong trào kháng chiến chống Đức, kết án De Gaulle để xoa dịu Hitler. .
Sau chiến tranh hàn gắn hay gây thêm hận thù?
Phần tướng Leclerc, chỉ huy binh đoàn số 2 được tướng Eisehnhower ưu ái dành cho cái vinh dự người đầu tiên giải phóng tiến vào Paris.. ngày 26 tháng tám. Và đây cũng là lệnh riêng của De Gaulle muốn người Pháp được cái vinh dự ấy.
Đó là vấn đề danh dự của nước Pháp.
Nhưng thực sự một mình binh đội của tướng Leclerc quá ít ỏi chỉ có tính cách tượng trưng không thể nào giải phóng Paris được. Phải có binh đội Hoa Kỳ từ phía Bắc Saint Cloud và từ phía Nam với Vincennnes tiến về Troyes, Meaux và Rambrouillet.. Leclerc cũng đã cảnh cáo binh đội của tướng von Choltiz rằng :Nếu các ông phá hùy một cơ sở công cộng nào của Paris thì sẽ không có một người lính Đức nào còn được sống sót.
Vấn đề còn lại của nước Pháp sau chiến là hàn gắn những vết thương,.Nhưng thay vì hàn gắn thì dấy lên nhiều sự hận thù, trả oán, đòi nợ.
Việc đầu tiên theo truyền thống nước Pháp là mỗi khi thắng trận trở về thì nhà vua vào nhà thờ Notre Dame và sẽ hát Magnificat để tạ ơn Thượng Đế. Đây là một truyền thống tốt đẹp từ lâu đời. Vấn đề trở ngại ở đây là vị hồng y giáo chủ Paris, Tổng giám mục Suhard, chỉ mới cách đây một tháng đã chủ trì một buổi lễ tang một nhân vật làm tay sai cho Đức là Philippe Henriot và ông này đã bị kháng chiến sát hại.
Vậy thì dư luận nói chung nhiều người không muốn thấy có sự hiện diện của vị tổng giám mục Suhard trong buổi lễ. Dư luận ấy đúng.
Linh mục tuyên úy quân kháng chiến là Raymond Bruclerger là người cương quyết đã phản đối sự hiện diện của TGM Suhard..Nhưng rồi  TGM Suhard vẫn có mặt. Sự có mặt của vị TGM gây phản ứng mạnh nơi một số người.
Và rối loạn trật tự đã xảy ra. Có cả tiếng súng nỗ, ghế ném lung tung trong nhà thờ Notre Dame khi vị tổng giám mục Suhard bắt đầu hát Magnificat!!!( Bài hát tạ ơn).
Sau chiến tranh, người Pháp tính sổ để xem trong thời Đức chiếm đóng, con số người làm tay sai cho Đức là bao nhiêu? Thật khó để ngày nay đưa ra được những con số.. Cũng thật khó để kết án ai là người theo Đức. Nói chung có đến hơn nửa triệu các chuyên viên, các kỹ sư tình nguyện làm việc trong các cơ xưởng do Đức kiểm soát..Những người này bề ngoài tỏ ra không cộng tác với kháng chiến vì an ninh bản thân họ hoặc vì miếng ăn.
De Gaulle chỉ cay đắng khi nghĩ đến thành phân này!!! Nhưng không thể kết án họ được.Vì dù sao xứ Pháp cũng là xứ có luật lệ, có tòa án xét xử…
Khi đồng minh đổ bộ Normandie thì theo sự phỏng định của De Gaulle có khoảng 30 ngàn người Pháp làm việc chính thức, có giấy tờ của Đức. Chẳng hạn làm trong cơ quan phản gián Gestapo hay  Abwehr (Contre-espionnage allemand) hoặc những nhân viên mặc quân phục Đức trong trong tổ chức LVF. ( Légion des volontaires Francaises contre le Bolchevisme).[1]
Cũng theo De Gaulle, sau khi giải phóng Paris, con số người bị hành quyết hoặc bị sát hại cách này cách khác khoảng trên 10.000 ngàn người..Còn lại con số trên 1000 người bị ra tòa xét sử, sau đó bị xử bắn.
Phe Vichy của Pétain thổi phồng con số lên 30 chục ngàn người, có khi con số được thổi phồng lên đến cả trăm ngàn ngươi bị giết hại.
Theo người con trai tướng De Gaulle-Philippe De Gaulle- tướng De Gaullle đã nhiều lần bị dày vò về những vụ án liên quan đến nhữ kẻ phản bội lại tổ quốc. Ông thường đi đi lại lại trong vườn nhà sau bữa ăn tối ở số 4 đường Champ-d’Entrainement vì nhận được thư của những thân nhân kẻ bị án kêu oan và xin tha. Ông không biết phải xử trí ra sao vì nhiều trường hợp thiếu minh bạch hoặc nhầm lẫn kết án oan uổng. Hồ sơ tội trạng không dễ minh chứng đầy đủ. 
Bên cạnh đó người ta được biết có một số nhà văn làm tay sai cho Đức trong thời gian chiếm đóng khi những nhà văn này công khai xuất hiện nơi công cộng với người Đức trong các cuộc mít tinh, lên diễn đàn, hoặc hô hào thanh niên Pháp mặc quân phục Đức. Trong số đó có nhà văn Pierre Drieu la Rochelle đã tự tử. Robert Brasillach và Paul Chack phải ra tòa chịu án đền tội. Họ tỏ ra trung thành với Đức, đi hàng đầu trong các cuộc mít tinh. Họ là những nhà văn sẵn sàng làm tay sai cho giặc!! Họ xứng đáng nhận hình phạt của xã hội.
Phần cá nhân De Gaulle, thay vì say sưa với chiến thắng, thay vì yến tiệc, thay vì huyênh hoang tuyên bố, thay vì trả thù những người theo giặc như Pétain, thay vì nghĩ đến chuyện ân oán. Không. Ông phải là loại người nhân cách tầm thường như vậy.
Ngay sáng sớm ngày hôm sau, ông đi tìm lại nơi ông đã từng sinh sống ở Paris. Không xe cộ, không hộ tống, ông đi bộ đến khu Saint- Francois- Xavier, nhà  xứ của gia đình ông lúc thiếu thời. Ông xúc động, vì căn nhà và mọi đồ vật còn nguyên vẹn, không có gì thay đổi. Ông nhớ lại, ngày 10 tháng sáu, năm 1940, ông rời Paris vào ban đêm trong xe cùng với Paul Reynaud không kịp mang theo thứ gì..  Mọi vật trước mắt ông sau 4 năm từ giấy tờ, đồ đạc, điện thoại đến quần áo cũ. Không một ai tơ hào. Ông đã xúc động khi tìm  thấy cây kiếm khi tốt nghiệp trường Saint-Cyr vẫn còn đấy..làm sao ông không khỏi xúc động!! Người ta cứ bảo De Gaullle là người không có tình cảm, ông củng tình cảm lắm đấy chữ!![2
Những ngày sau đó, De Gaulle còn mời các nhà văn danh tiếng của Paris như Francois Mauriac, Georges Duhamel, Paul Valéry, Georges Bernanos. Riêng. F. Mauriac là người có tai tiếng có những liên hệ không rõ ràng với Đức. Nhưng De Gaulle bỏ qua. Ông đã mời lần lượt từng người đến dùng cơm và đàm đạo với ông với sự trân trọng. Nhất là trường hợp nhà văn André Malraux mà sau này trở thành cộng sự viên của ông trong chính phủ.
Đối với phụ nữ, De Gaulle thường tỏ ra khoan nhượng và tìm mọi cách hợp pháp để ân xá cho họ.
Dầu vậy, trong một số trường hợp- dù chỉ là những phụ nữ nghèo túng phải đi làm điếm cho lính Đức, sau đó đã bị dân chúng phẫn nộ dẫn đi ngoài đường phố, bị cạo trọc đầu, quần áo tả tơi, bị la ó, xỉ nhục.
Phần W.Churchill, một chính trị gia có tài ba như một thứ triên tri thời đại đã viết ngay từ khi Âu Châu đang thắng thế Đức trên khắp mặt trận như sau :
Ngày 31 tháng tám, 1944, việc giải phóng Âu Châu đã đi những bước vĩ đại đến trước cả những kế hoạch dự tính. Ngày 3 tháng 9 giải phóng Bỉ. Ngày 11-9, Binh đoàn số một của Mỹ tiến vào Đức. Tiếp theo binh đoàn của tướng De Lattre De Tassigny. 
Ở mặt trận phía Đông, Tướng Koniev tiến về Ba Lan và tướng Petrov tiến vào Tiệp Khắc..Tất cả bộ mặt Âu Châu thay đổi- không phải ở ngoài mặt trận.. Điểm chinh yếu là sự lớn mạnh của Liên Xô..
Kể từ đây, biến cố làm thay đổi cục diện thế giới đưa đến khúc quan lịch sử và làm biến đổi viễn tượng thế giới trong thế kỷ 20[6].
Một tài liệu cuối cùng nêu ra ở đây là khi Hitler chuyển hướng, quyết định tiến đánh Liên Xô vào 4 giờ sáng, ngày 22 tháng sáu 1941. Đây là một cuộc xâm chiếm lớn nhất chưa từng bao giờ xảy ra trong lịch sử với 4 triệu quân lính, 3000 chiến xa và 3000 máy bay, tiến đánh Phần Lan và Lỗ Ma ni.. Đại diện cho Staline, Molotov đã kêu gọi dân chúng như sau : Chính quyền kêu gọi tất cả mọi người, đàn ông, đàn bà, công dân của Liên Xô, đồng chí Staline kêu gọi mọi người xiết chặt hàng ngũ chung quanh đảng Bôn Sơ Vích vinh quang của chúng ta, chung quanh chính quyền và chung quanh đồng chí Staline vĩ đại của chúng ta. Chúng ta có chính nghĩa. Kẻ thù sẽ bị đẻ bẹp..Chúng ta sẽ chiến thắng. Molotoc cũng không quên nhắc tới số phận dảnh cho Napoléon năm 1812.[8] ..."
Tác giả: Nguyễn Văn Lục (Sưu tầm)