Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

Chiến lược độc chiếm biển gần của Trung Quốc


Trung Quốc tăng cường khả năng chống tiếp cận - dựa trên các tên lửa chống tàu chiếntriển khai các hạm đội gồm tàu khu trục, tàu hộ vệ và tàu ngầm được trang bị hoả lực mạnh gồm các tên lửa chống tàu chiến ở các vùng biển gần - có thể tạo ra sự thay đổi luật chơi ở Biển Đông.


Bắc Kinh đã tìm cách ngăn chặn sức mạnh tấn công của các đội tàu sân bay chiến đấu của Hải quân Mỹ bằng việc triển khai các tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay DF-21 D, đồng thời khi tác chiến trên mặt biển Hải quân của họ dựa vào các tàu tấn công cao tốc có tầm hoạt động 300 hải lý được trang bị các tên lửa siêu thanh chống tàu chiến với đặc tính bay thấp trên mặt biển có thể tạo ra hàng rào hoả lực chống một nhóm tàu chiến ở khoảng cách gần. Trung Quốc đã tăng cường khả năng tấn công - phòng thủ vùng ven biển của họ dựa trên các tên lửa chống tàu chiến có thể tạo ra sự thay đổi luật chơi ở các vùng biển có hoạt động hàng hải nhộn nhịp. Việc họ triển khai các hạm đội gồm tàu khu trục, tàu hộ vệ và tàu ngầm được trang bị hoả lực mạnh gồm các tên lửa chống tàu chiến ở các vùng biển gần Biển Đông, eo biển Đài Loan sẽ tạo ra thách thức và là mối hiểm hoạ đối với các lực lượng hải quân khác nhau. Việc Trung Quốc triển khai các tàu tấn công cao tốc diễn ra ở thời điểm khi Mỹ cố gắng tìm cách làm suy yếu sức chiến đấu của Hải quân Trung Quốc bằng cách tăng cường lực lượng chiến đấu của hải quân nước này thông qua các động thái khác nhau như triển khai các máy bay do thám không người lái (UAV) và cho các tàu ngầm hạt nhân tấn công và tàu chiến tiếp tục tuần tra ở vùng biển nối giữa Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương cũng như giữa Biển Đông và biển Hoa Đông. Trong bối cảnh xảy ra các vụ va chạm như vụ tàu USNS Bowditch và USNS Impeccable, Bắc Kinh rất nhạy cảm trước các nỗ lực xâm nhập của Hải quân và hoạt động do thám của Không quân Mỹ và đã phản ứng bằng các biện pháp chống tiếp cận của họ. Chiến lược chiến tranh không đối xứng của Trung Quốc được biết tới như Shashaojian nhằm đánh bại lực lượng ưu việt của đối thủ mạnh hơn họ. Chiến lược trên liên quan tới việc triển khai các tàu ngầm, tên lửa siêu thanh chống tàu chiến, ngư lôi tấn công tốc độ cao SHKVAL (bão tuyết), và loại thuỷ lôi mới siêu lớn được phóng bằng rốckét theo hướng từ đáy biển lên được tàu ngầm đặt thành từng chùm để có thể tạo ra đòn tấn công hàng loạt vào tàu sân bay. Một trong các loại tàu chiến đấu tầm trung quan trọng của Hải quân Trung Quốc là tàu tấn công cao tốc có 3 lớp vỏ được biết tới như loại tàu lớp Hộ Bắc Mẫu 022 sử dụng công nghệ rẽ sóng của mẫu tàu hai thân giống loại thuỷ phi cơ hai thân và vòi phun nước cực mạnh tạo thành lớp bọt nước che phủ thân tàu khiến đối phương khó phát hiện mục tiêu. Loại tàu Mẫu 022 có khả năng tấn công mục tiêu ở cự ly ngoài đường chân trời (OTH) với hệ thống hoả lực cho phép tạo ra hàng rào hoả lực tên lửa siêu thanh chống tàu chiến bằng tên lửa YJ-83. Hải quân Trung Quốc hiện có khoảng 83 tàu tấn công cao tốc lớp Hộ Bắc Mẫu 022 có thể tạo ra lưới lửa gồm 640 tên lửa hành trình chống tàu (ASCM) và bay với tốc độ siêu thanh. Ngoài tàu lớp Hộ Bắc Mẫu 022, Hải quân Trung Quốc còn có các loại tàu tấn công cao tốc loại cũ như lớp Hộ Kiến Mẫu 037 II mang tên lửa C-802 và lớp Hộ Tân Mẫu 077 IG được trang bị các loại tên lửa C-801,802 và 803 chống tàu chiến. 
hainan-full.jpg
Khả năng cơ động của hải quân 
Một trong các ưu thế to lớn của loại tàu tấn công cao tốc là chúng có tốc độ cao và khả năng cơ động nhanh do vậy có thể tác chiến hiệu quả ở vùng ven biển. Khi hoạt động ở vùng ven biển, tàu lớp Hộ Bắc Mẫu 022 có thể phát huy được tốc độ cao và cơ động lắt léo gây khó khăn cho đối phương. Hoạt động với đội hình “đàn sói”, tàu tấn công cao tốc với công nghệ rẽ sóng hai thân và phun nước che phủ thân tàu tạo ra thiết diện rất nhỏ khiến rađa của đối phương rất khó phát hiện. Dựa vào khả năng cơ động cao, tàu Mẫu-022 khắc phục được các yếu điểm của chúng về kích cỡ nhỏ, hạn chế về tầm hoạt động và khả năng tác chiến (với khả năng dễ bị tấn công cao) để phóng tên lửa siêu thanh YJ-83 thế hệ thứ 4 vào đội hình tàu chiến đấu của đối phương với tầm bắn 250 Km, ngoài đường chân trời (OTH). Các tàu tấn công cao tốc có thể được sáp nhập vào hạm đội tàu nổi và tàu ngầm gồm tàu khu trục, tàu hộ vệ và tàu ngầm trong đội hình chiến đấu để phối hợp phóng các tên lửa chống tàu chiến theo nhiều tuyến với lợi thế về số lượng có thể làm suy yếu và áp đảo khả năng phòng thủ bằng không quân và tên lửa Aegis của bất kỳ hạm đội nào. Việc xây dựng mỗi đội tàu chiến đấu cao tốc gồm từ 5-10 tàu Mẫu 022 ở chiến trường khu vực có thể dễ dàng mang 40-80 tên lửa chống tàu chiến và chúng có thể phối hợp với tàu nổi và tàu ngầm để thực hiện nhiều nhiệm vụ phức hợp của hải quân như trinh sát, liên lạc, chỉ huy-kiểm soát, chống tàu chiến, phòng không, chống tàu ngầm và chiến tranh điện tử. 
Khả năng hoạt động 
Việc triển khai các loại tên lửa siêu thanh chống tàu chiến trên các tàu tấn công cao tốc tại khu vực vùng biển nước nông trên các tàu ngầm, tàu khu trục, tàu hộ vệ để mở rộng tầm hoạt động của hải quân vùng nước sâu phản ánh tư duy kiểu Liên Xô trước đây về sử dụng số lượng lớn tên lửa chống tàu chiến và tấn công trên bộ với nhiều loại khác nhau vốn nổi tiếng có xác suất tấn công mục tiêu với độ chính xác cao. Các loại tàu như tàu tấn công cao tốc bị hạn chế về sứ mệnh hoạt động cũng như khả năng sống còn trong chiến đấu song được sử dụng như loại phương tiện có hiệu quả do có ưu thế dùng hoả lực tên lửa mạnh chống tàu chiến để phát động các cuộc tấn công dồn dập có thể áp đảo mọi khả năng phòng thủ được trang bị trên tàu chiến đối phương từ hệ thống chống tên lửa tới hệ thống đánh chặn điều khiển học cũng như hệ thống phát hiện và phá huỷ tên lửa hoặc máy bay của kẻ thù ở cự ly gần. Các tàu tấn công cao tốc của Hải quân Trung Quốc không hoạt động đơn độc như loại tàu chiến đấu ven biển (LCS) của Hải quân Mỹ, mà hoạt động theo nhóm từ 5-10 tàu. Khả năng nguỵ trang của loại tàu này nằm ở chỗ nó tạo ra hỗn hợp giữa bọt và các tia nước phun cũng như khói do động cơ thải ra giữa các lớp vỏ tàu và phía dưới khoang ướt. Điều này làm giảm tín hiệu nhiệt của tàu. Chất lượng vỏ tàu hai thân tạo hiệu ứng trao đổi nhiệt ở phần đuôi tàu nơi khoang ướt làm giảm đáng kể khả năng tàu bị phát hiện. Điều lạ nữa là mỗi một tàu lớp Hộ Bắc đều được sơn một màu sơn khác nhau và không hề trùng nhau nhằm tránh khả năng bị phần mềm tự động phát hiên mục tiêu (ATR) trong các thiết bị cảm biến RIS và thiết bị điều khiển tên lửa của kẻ thù nhận biết. Các thiết bị cảm biến điện từ thụ động và điện quang của tàu lớp Hộ Bắc cho phép tàu này phát ra tín hiệu rađa rất yếu. Trong môi trường vùng biển gần bờ có nhiều tàu thuyền hoạt động, các hệ thống này chỉ tạo ra tín hiệu mục tiêu như một đường thẳng mà không làm lộ vị trí thực sự của tàu. 
Tính hiệu quả 
Tàu lớp Hộ Bắc giống như “chiến binh đường phố” khó nắm bắt có thể phóng hàng loạt tên lửa siêu thanh AJ-83 chống tàu chiến và hướng dẫn các tên lửa này bằng rađa OTH và có thể cơ động nhanh trong khả năng có thể để tránh các tên lửa chống tàu chiến của đối phương. Chiến thuật tốt nhất của loại tàu này là nhanh chóng phát động cuộc tấn công chết người bằng tên lửa siêu thanh sau đó nhanh chóng thoát khỏi khu vực tác chiến. Tàu lớp Hộ Bắc có thể là loại tàu đầu tiên được sử dụng để phối hợp tác chiến trong trung hạn. “Hiệu quả tác chiến của nó sẽ được phát huy trong chiến lược phòng thủ tích cực ở các vùng biển gần Trung Quốc ở biển Hoa Đông, Biển Đông và Hoàng Hải với khoảng cách cách bờ tới 400 hải lý. Hoạt động của loại tàu lớp Hộ Bắc ở Biển Đông sẽ khiến hải quân của các nước ASEAN và Mỹ bị hạn chế hoạt động ở vùng biển cách căn cứ hải quân Tam Á trên đảo Hải Nam của Trung Quốc gần 300 hải lý và như vậy Hải quân Trung Quốc có được khu vực hoạt động chống tiếp cận rất mạnh ở khu vực, và do vậy tăng cường được các đòi hỏi chủ quyền của họ tại Biển Đông, ngăn chặn các lực lượng can thiệp bằng hải quân vào khu vực này. Tác động do tàu lớp Hộ Bắc gây ra tại Biển Đông khi kết hợp với các tàu ngầm, tàu khu trục, và tàu hộ vệ cũng như lực lượng không quân của hải quân có căn cứ trên đất liền và tên lửa đạn đạo chống tàu sân bay DF-21D sẽ tác động rất mạnh tới bất kỳ một lực lượng can thiệp nào bằng hải quân từ bên ngoài khu vực, trong đó có lực lượng hải quân chiến thuật của Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản, đồng thời đánh bại lực lượng hải quân của các nước ASEAN. Các biện pháp hiệu quả chống tên lửa siêu thanh YJ-83/C-803 rất hạn chế. Với số lượng lớn tên lửa được phóng hàng loạt liên tiếp, các tàu tấn công cao tốc sẽ dễ chiếm ưu thế áp đảo. Tên lửa C-803 phóng từ tàu lớp Hộ Bắc được bổ sung thêm bằng các tên lửa phóng từ các loại tàu khác sẽ gây khó khăn nhiều cho các hệ thống phòng thủ tên lửa và hệ thống đánh chặn tên lửa và máy bay tầm ngắn của hải quân đối phương do các tên lửa tấn công được phóng với tốc độ cao và bay thấp trên mặt biển. 
Hải quân Trung Quốc hiện nay là lực lượng hải quân nhiều lớp và đang tăng cường chiến lược phòng thủ ngoài khơi xa. Trung Quốc phát triển loại tên lửa có tầm bắn hơn 2.000 Km và các tên lửa hành trình các dạng khác nhau từ chống tàu chiến tới tấn công trên bộ với vai trò đặc thù là chống tiếp cận trên bờ và chống các lực lượng có ưu thế kiểm soát vùng ngoài khơi duyên hải. Từ tên lửa DF-21 D tới các tên lửa siêu thanh YJ-80, C-803, các tên lửa chống tàu chiến của Trung Quốc và một vài loại khác nữa như Sunburn và Yakhont phóng từ các bệ phóng (TEL) đặt trên bờ và các rađa vệ tinh (OTH), tên lửa DF-21 D thực sự tạo ra mối hiểm hoạ lớn đối với các lực lượng hải quân của đối phương. Mặt khác, lực lượng chiến đấu của Hải quân Trung Quốc hiện đã có được bước tiến dài khi đưa vào biên chế tàu sân bay lớp Kiev đầu tiên được hiện đại hoá đổi tên thành Thi Lang chở lực lượng máy bay chiến đấu SU-33/J15 Thẩm Dương trên tàu và số lượng ngày càng tăng số tàu khu trục, tàu ngầm và tàu hộ vệ phản ánh các tham vọng của một cường quốc hải quân đang nổi lên với ý muốn tăng cường quy mô kiểm soát biển và chống tiếp cận từ vùng biển nước nông tới vùng biển nước sâu của họ. Điều thích hợp với mục tiêu và phạm vi triển khai sức mạnh Hải quân Trung Quốc là gì, và họ làm thế nào để hỗ trợ các vai trò cưỡng bức, thúc ép, răn đe và hoạt động phòng thủ? Vai trò của Trung Quốc sẽ là gì và họ phản ứng ra sao đối với sự phối hợp của các lực lượng hải quân đang nổi lên của các nước châu Á và phương Tây trước vai trò hung hăng của hải quân nước họ? Việc Bắc Kinh làm thế nào để chuyển sức mạnh hải quân của họ thành ảnh hưởng trong lĩnh vực hàng hải, lãnh thổ và chính sách ngoại giao sẽ là những câu hỏi chủ yếu được đặt ra trong đầu các cường quốc ngang hàng với Trung Quốc và siêu cường Mỹ. Trong bối cảnh đó, ưu tiên hàng đầu trong chiến lược không cân xứng của Trung Quốc sẽ là triển khai số lượng lớn tàu tấn công cao tốc với khả năng phóng hàng loạt tên lửa siêu thanh chống tàu chiến, điều có thể nổi lên thành yếu tố thay đổi trò chơi hiệu quả làm thay đổi cán cân các lực lượng hải quân ở châu Á- Thái Bình Dương./.
Theo Tạp chí Các vấn đề chiến lược (Ấn Độ)
Lê Sơn (gt)

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Chiến tranh với Việt Nam: Trung Quốc không mất nhiều?


VietnamDefence Tờ báo mạng Asia Times vừa đăng bài của Jens Kastner, một cây bút ở Đài Loan, cho rằng cái giá cho cuộc chiến của Trung Quốc để tranh giành chủ quyền trên Biển Đông là ‘không lớn lắm’.
Trung Quốc sẽ dễ dàng giành chiến thắng trên Biển Đông? Ảnh: Tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc
Theo tác giả, đã xuất hiện những dấu hiệu rộng rãi từ phía Trung Quốc rằng nước này có thể khởi động các cuộc tấn công quy mô nhỏ ở những vùng biển có tranh chấp vốn được tin rằng có trữ lượng dầu mỏ lớn.
Các bài liên quan
Hậu quả của các cuộc phiêu lưu quân sự như thế đối với Bắc Kinh là có thể chấp nhận được, ông Jens Kastner viết.
Thế bí Malacca
Chỉ tính riêng trong tháng Ba (năm 2012), Bắc Kinh đã khẩu chiến với Seoul về một đảo đá ngầm, với Manila về kế hoạch của nước này xây dựng một cầu cảng và với Hà Nội về động thái xây dựng các giếng dầu khí của Trung Quốc.
Cuộc chiến không chỉ dừng lại ở ngôn từ. Tàu cá của Việt Nam cũng đã bị Trung Quốc bắt và ngư dân trên tàu bị giam giữ.
Điểm chung của tất cả các vùng biển, quần đảo và đá ngầm xảy ra tranh chấp này là chúng nằm gần bờ biển của các nước tranh chấp khác hơn là gần bờ biển Trung Quốc.
Khi các nhà chiến lược nhắc đến ‘Thế bí Malacca’, ý của họ là các tuyến đường thông thương trên biển của Trung Quốc rất dễ bị tổn thương. Nếu xung đột xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc, thì nguồn cung dầu thô cần thiết để giúp nền kinh tế nước này vận hành có thể bị gián đoạn một cách tương đối dễ dàng ở eo biển Malacca vốn nối từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương.
Tàu chiến của Philippines
Hải quân Philippines được nhìn nhận không phải là đối thủ của Trung Quốc
Theo ước lượng của Trung Quốc thì trữ lượng dầu khí ở tây Thái Bình Dương có thể đáp ứng nhu cầu của nước này trong hơn 60 năm.
Với việc nước này loan báo chi tiêu quân sự chính thức của họ trong năm 2012 là 100 tỷ đôla và ngân sách thật sự của họ trên thực tế cao hơn nhiều, Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc dường như đang trên đường xây dựng sức mạnh cần thiết để đảm bảo công cuộc tìm kiếm an ninh năng lượng của họ diễn ra suôn sẻ.
Các tên lửa đạn đạo chống tàu chiến của họ sẽ khiến cho Washington phải cân nhắc kỹ trước khi đưa lực lượng của họ vào khu vực để cứu nguy cho đồng minh, cũng như các máy bay chiến thuật trên đất liền ngày càng tăng về số lượng và các tên lửa hành trình chứ chưa nói gì tới hạm đội đông đảo các tàu chiến và tàu ngầm phóng tên lửa của họ.
Nếu Bắc Kinh tự tin rằng Washington không muốn can thiệp thì quân đội các nước tranh chấp với họ trong khu vực sẽ phải đối phó với máy bay chiến đấu J-15 được đặt trên tàu sân bay đầu tiên của họ, hạm đội tàu hộ tống đang giă tăng nhanh chóng về số lượng cũng như các tàu đổ bộ lưỡng cư hoàn toàn mới và các tàu chở trực thăng có thể nhanh chóng đưa hàng ngàn lính thủy đánh bộ đến các đảo đang tranh chấp.
Ý chí chính trị
"Mặc dù Trung Quốc hiển nhiên không thể dễ dàng thắng Việt Nam và dù một cuộc chiến như thế sẽ gây xáo trộn rất lớn cho khu vực Đông Nam Á và phần còn lại của Đông Á, nó vẫn có thể kiểm soát được." - Steve Tsang, giám đốc Viện chính sách Trung Quốc của Đại học Nottingham
Ý chí chính trị cho các kế hoạch quân sự như thế đã được báo hiệu ít nhất một lần. Trong các bài xã luận trên truyền thông nhà nước của Trung Quốc, nhất là trên tờ Hoàn cầu thời báo, khái niệm về ‘tiểu chiến’ đã được tuyên truyền ngày càng nhiều kể từ năm 2011.
Hồi đầu tháng Ba, thủ tướng nước này Ôn Gia Bảo phát biểu trong cuộc họp Quốc hội rằng Quân đội giải phóng nhân dân nên chuẩn bị sẵn sàng cho các ‘cuộc chiến cục bộ’.
Các chuyên gia mà tờ Asia Times phỏng vấn cho rằng Trung Quốc có thể đạt được các mục tiêu tương lai với các cuộc tấn công quân sự hạn chế.
Ông Steve Tsang, giám đốc Viện chính sách Trung Quốc của Đại học Nottingham, nhận định rằng điều này tùy thuộc phần lớn vào việc cuộc tiểu chiến đó là nhằm mục đích gì, nó được tiến hành như thế nào và chống lại quốc gia nào.
Ông Tsang tin rằng Hàn Quốc sẽ không là mục tiêu tấn công bất chấp các cuộc khẩu chiến bùng nổ gần đây giữa hai nước sau khi người đứng đầu Cục hải dương Trung Quốc cho rằng đảo san hô Leodo, một đảo ngầm ngoài khơi hòn đảo du lịch Jeju của Hàn Quốc, gần như chắc chắn nằm trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc.
“Việc Trung Quốc khởi động một chiến dịch quân sự thậm chí ở mức độ hạn chế nhằm vào Hàn Quốc sẽ là một hành vi hết sức nghiêm trọng mà không ai có thể dung thứ,” ông Tsang nói.
“Hoa Kỳ sẽ phải có lập trường mạnh mẽ và có hành động ngay lập tức tại Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc để áp đặt một lệnh ngừng bắn,” ông nói thêm.
"Tuy nhiên, một cuộc đối đầu quân sự nhỏ đối với Việt Nam hay Philippines để giành chủ quyền các đảo san hô ở Biển Đông là một vấn đề hoàn toàn khác," ông Tsang lập luận.
‘Có thể kiểm soát’
"Bắc Kinh có thể cố gắng làm cho các cuộc tiểu chiến đó ở quy mô càng nhỏ và càng ít được chú ý càng tốt." - James Holmes, giáo sư chiến lược tại Trường Hải chiến Hoa Kỳ
“Mặc dù Trung Quốc hiển nhiên không thể dễ dàng thắng Việt Nam và dù một cuộc chiến như thế sẽ gây xáo trộn rất lớn cho khu vực Đông Nam Á và phần còn lại của Đông Á, nó vẫn có thể kiểm soát được,” ông nói.
“Nếu cuộc xung đột này không kéo dài và ở mức độ hạn chế thì tác động tức thời sẽ không lớn lắm.”
Tuy nhiên, ông Tsang cũng cảnh báo rằng việc Trung Quốc tấn công Việt Nam hay Philippines sẽ càng làm cho các nước Đông Nam Á mong muốn hợp tác quân sự với Hoa Kỳ.
“Nhưng về cơ bản những nước này không thể làm được gì nhiều để chống lại một Trung Quốc đang khẳng định mình,” ông nói.
Ông cũng nhận định hiệp ước phòng vệ lẫn nhau giữa Philippines và Hoa Kỳ có thể cũng không giúp cho nước này ‘miễn nhiễm’ trước một hành động quân sự chớp nhoáng của Trung Quốc.
“Chúng ta cần phải xem các điều khoản trong hiệp ước này. Chính phủ Mỹ cần phải xem xét rằng một cuộc tấn công quân sự nhằm vào Philippines có phải là một vấn đề an ninh nghiêm trọng mà nước này cần phải đáp trả hay không và họ cũng cần thời gian để quyết định cách đáp trả phù hợp,” ông phân tích.
Một hòn đảo ở Trường Sa
Liệu Trung Quốc có dùng biện pháp quân sự để giành chủ quyền các đảo trên Biển Đông?
“Sẽ không có chuyện gì xảy ra nếu chiến sự xong xuôi trước khi vấn đề được đưa ra Quốc hội (Hoa Kỳ) để bàn thảo,” ông nói.
James Holmes, một học giả về chiến lược tại Trường Hải chiến Hoa Kỳ, nhận xét Bắc Kinh có thể dễ dàng không gặp vấn đề gì nếu họ tấn công Philippines hay Việt Nam.
“Bắc Kinh có thể cố gắng làm cho các cuộc tiểu chiến đó ở quy mô càng nhỏ và càng ít được chú ý càng tốt,” ông phân tích.
“Ưu thế của hạm đội của họ so sánh với hải quân các nước Đông Nam Á và việc trang bị các vũ khí mới đặt dọc theo bờ biển như tên lửa đạn đạo chống tàu chiến giúp cho Trung Quốc có khả năng răn đe mạnh mẽ nếu xảy ra xung đột,” ông nói.
Tác động kinh tế
Ông phân tích rằng Trung Quốc sẽ để dành chứ không triển khai các vũ khí chiến đấu chính của nước này mà chỉ dùng các tàu được trang bị tương đối ít vũ trang và tương đối tầm thường trong lực lượng hải giám của họ.
“Hải quân các nước Đông Nam Á có thể sẽ đối đầu với các tàu chiến này, nhưng họ cũng biết rõ rằng quân đội Trung Quốc sẽ triển khai các sức mạnh hải quân có ưu thế vượt trội nếu họ dám đối đầu,” ông nói.
Mặt khác, các nhà kinh tế cũng không thấy có trở ng̣ại gì lắm trong một cuộc tiểu chiến của Trung Quốc để giành năng lượng với các quốc gia Đông Nam Á.
    "Tuy nhiên việc này (cuộc chiến trên BIển Đông) chỉ có tác động rất nhỏ đối với chỉ số lạm phát, thất nghiệp hay sản lượng công nghiệp của bất kỳ quốc gia nào ngoại trừ chính nước bị Trung Quốc tấn công."
Ronald A Edwards, chuyên gia kinh tế chính trị Trung Quốc ở Đại học Tamkang, Đài Loan
“Các thị trường chứng khoán trên toàn thế giới sẽ phản ứng mạnh mẽ trong ngắn hạn – tức là chỉ vài ngày,” ông Ronald A. Edwards, một chuyên gia kinh tế chính trị Trung Quốc ở Đại học Tamkang, Đài Loan, cho biết.
“Tuy nhiên việc này chỉ có tác động rất nhỏ đối với chỉ số lạm phát, thất nghiệp hay sản lượng công nghiệp của bất kỳ quốc gia nào ngoại trừ chính nước bị Trung Quốc tấn công."
Ông Edwards lập luận rằng kết quả của cuộc chiến chớp nhoáng kéo dài 9 ngày giữa Nga và Georgia năm 2008 mà khi đó Nga đã dùng sức mạnh quân sự vượt trội để đẩy Gruzia ra khỏi Nam Ossetia – một hành động bị phương Tây lên án – có thể được tham khảo để tính toán xem liệu kinh tế Trung Quốc có phải trả giá đắt cho một chiến dịch phiêu lưu quân sự hay không.
“Cuộc chiến chớp nhoáng của Nga với Gruzia là một ví dụ so sánh rất hay,” ông Edwards nói.
“Trong khi tin tức về cuộc chiến này trở thành tít ở mọi nơi trong vài tuần thì không có tác động gì đáng kể về mặt kinh tế ở các quốc gia ngoại trừ Georgia vào tháng 8 năm 2008 và sau đó,” ông nói thêm.
BBC sẽ đăng phần trả lời đặc biệt của một số nhà nghiên cứu dành riêng cho BBC quanh câu hỏi một cuộc chiến vì Biển Đông có xảy ra hay không. Mời quý vị đón theo dõi.

Thùng thuốc súng made in China


VietnamDefence Trung Quốc không thể chấp nhận việc tìm thấy các mỏ dầu khí lớn trên thềm lục địa của Việt Nam. Giám đốc Viện Năng lượng quốc gia (Nga) Sergei Pravosudov dự báo khả năng xung đột trên Biển Đông. VietnamDefence giới thiệu chỉ với mục đích tham khảo.
Itar-Tass

Việt Nam hôm nay là một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất châu Á.  Theo xếp hạng chỉ số Bloomberg, kinh tế nước này đứng thứ ba trong khu vực về triển vọng, sau Trung Quốc và Ấn Độ, còn về tốc độ phát triển thì nằm trong số 10 nước đứng đầu thế giới. Các nhà đầu tư đang rút vốn khỏi EU và Nga để đổ xô đến đây.

Tuy nhiên, theo Giám đốc Viện Năng lượng quốc gia (Nga) Sergei Pravosudov, tương lai tươi sáng của kinh tế Việt Nam đang là câu hỏi lớn. Chính Việt Nam có thể trở thành nơi đụng độ lợi ích của các cường quốc lớn nhất thế giới.

SP: Thế giới hôm nay giống như một thùng thuốc súng được nối với nhiều dây cháy chậm. Ông cho rằng, một trong số đó có thể bị đốt cháy ở Việt Nam. Tại sao?

- Nhiều trong số những người quan tâm đến địa-chính trị có lẽ đa đọc cuốn sách nổi tiếng của nhà khoa học Mỹ Samuel Huntington “Sự va chạm của các nền văn minh”.

Trong đó có dẫn ra một kịch bản khả năng khai diễn cuộc chiến tranh thế giới ở thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Tôi xin trích: “Việc khai thác các mỏ dầu ở Biển Đông được các công ty Mỹ thực hiện với tốc độ nhanh, chủ yếu dưới sự bảo trợ của Trung Quốc, nhưng những khu vực riêng lẻ nằm dưới quyền kiểm soát của Việt Nam. Nhờ những khả năng hiện diện quân sự mới, sự tự tin của Trung Quốc đã được củng cố, và họ tuyên bố là có ý định thiết lập quyền kiểm soát hoàn toàn đối với toàn bộ Biển Đông - Trung Quốc luôn yêu sách chủ quyền đối với vùng biển này. Người Việt Nam chống lại việc đó, một cuộc xung đột vũ trang nổ ra giữa các tàu chiến Trung Quốc và Việt Nam. Khát khao báo thù cho sự sỉ nhục năm 1979, người Trung Quốc xâm lược Việt Nam”. Tiếp đó mô tả sơ đồ mà cả thế giới bắt buộc bị lôi kéo vào cuộc xung đột quân sự này.

SP: Tuy nhiên, cuốn sách mà ông vừa trích dẫn được viết vào năm 1996. Từ đó đến nay, nhiều chuyện đã thay đổi…

- Những giả thiết của nhà khoa học Mỹ phần nhiều đang được khẳng định bởi các thực tiễn đương đại. Các công ty Mỹ quả thực đang tiến hành tìm kiếm hydrocarbon trên thềm lục địa Việt Nam và khá thành công. Tập đoàn Gazprom của Nga cũng đang làm việc đó và đã phát hiện ra hai mỏ khí Báo Vàng và Báo Đen. Các nhà địa chất Nga đã kể với tôi rằng, các sự cố với tàu chiến Trung Quốc đang tìm cách ngăn chặn công tác thăm dò địa chất thường xuyên xảy ra. Hơn nữa, người Trung Quốc hành xử rất ngang ngược, hung hãn: họ phá thiết bị địa chất, tiến sát các tàu dân sự. Chuyện thường đi đến những scandal ngoại giao nghiêm trọng giữa Trung Quốc và Việt Nam. Ban lãnh đạo CHXHCN Việt Nam nhiều lần chính thức lên tiếng về những hành động hà hiếp các tàu cá Việt Nam từ phía hải quân Trung Quốc và cáo buộc Bắc Kinh ngăn cản xây dựng các giếng khoan dầu. Mùa xuân năm ngoái, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã xảy mấy sự cố có sự tham gia của các tàu dân sự và quân sự, dẫn đến hàng loạt cuộc biểu tình ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Sự căng thẳng trong quan hệ Trung-Việt Nam tồn tại đã lâu. Năm 1998 (VND: Có lẽ ở đây muốn nói đến biến cố năm 1988) , giữa hai nước thậm chí đã xảy ra trận chiến nhỏ giành một hòn đảo ở Biển Đông làm 50 thủy binh Việt Nam hy sinh.

SP: Rõ ràng điều đó xảy ra là vì hai nước không thể chia sẻ những khu vực thềm lụa địa có triển vọng nào đó ở Biển Đông?
- Chính thế. Đó là nói đến phần phía bắc của thềm lục địa Việt Nam nằm ngay sát Trung Quốc. Thềm lụa địa phía nam của Việt Nam, Trung Quốc hiện chưa đụng đến. Ở đó từ lâu nay công ty Zarubezhneft của Nga và các công ty khác đang hoạt động.

Ngoài ra, Trung Quốc yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ Biển Đông và các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong vùng biển này và nằm trên các tuyến đường biển chủ yếu dùng để vận chuyển hành hóa giữa Đông Nam Á, châu Âu và Cận Đông. Việt Nam, Malaysia, Brunei và Philippines chỉ yêu sách đối với một phần của khu vực. Mỹ đang lo ngại sự hạn chế quyền tự do thông thương hàng hải ở khu vực này. Cuối năm ngoái, Washington và tuyên bố triển khai một căn cứ quân sự ở Darwin, miền bắc Australia, khiến Bắc Kinh rất tức tối.

SP: Theo như ông nói thì tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam vẫn tiếp tục ở trạng thái cường độ thấp hàng mấy chục năm rồi. Thế điều gì nói lên rằng, chính trong thời gian tới, nó có thể chuyển sang giai đoạn nóng?
- Xét tổng thể, ở phần bắc thềm lục địa của Việt Nam có các trữ lượng hydrocarbon rất lớn. Tất cả những số liệu mà các nhà địa chất thu nhận được đang nói lên điều đó. Bởi vậy, Trung Quốc có thể mưu toan quyết tâm xâm lược quân sự. Điều đó đặc biệt bức thiết khi mà tương lai của Iran, một trong những nguồn cung cấp dầu chính cho Trung Quốc, đang bị đặt dấu hỏi lớn.

Cả gan quyết định trực tiếp xâm lược chống Việt Nam, Trung Quốc sẽ mưu toan giết cùng lúc mấy con thỏ. Một là giành lấy phần bắc thềm lục địa Việt Nam và bằng cách đó sẽ làm giảm sự phụ thuộc nguyên liệu vào các nước cung cấp tài nguyên năng lượng. Hai là, gột rửa nỗi quốc nhục năm 1979. Tôi xin nhắc lại là hồi đó, Trung Quốc đã tấn công Việt Nam những tưởng nhanh chóng đưa Việt Nam về đúng chỗ. Nhưng Việt Nam đã đánh bại các lực lượng Trung Quốc có ưu thế hơn. Hơn nữa, họ làm được việc đó chỉ bằng các đơn vị thứ yếu vì phần lớn quân đội Việt Nam lúc đó đang ở Campuchia.

Đối với người Trung Quốc, đây là sự sỉ nhục nặng nề nhất cho đến nay. Bởi lẽ, họ đất rộng người đông hơn Việt Nam hàng chục lần! Điều đó cũng giống như chẳng hạn nước Nga hiện đại đã không thể chiến thắng mấy đơn vị đặc nhiệm của Gruzia.

Và có cả yếu tố thứ ba có thể thúc đẩy Trung Quốc đi đến chiến tranh. Ở Trung Quốc hiện nay, vấn đề quan hệ giữa các tỉnh giàu có, phát triển về kinh tế ở bờ Thái Bình Dương và các khu vực miền trung nông thôn, nghèo đói đặt ra rất gay gắt. Vùng duyên hải Trung Quốc ngày nay gắn bó hơn nhiều với châu Âu và Mỹ, nơi hàng hóa sản xuất ở đó được xuất đến, hơn là các tỉnh lân cận. Họ coi những nông dâ từ các khu vực miền trung Trung Quốc như những người ăn bám. Hoàn toàn có khả năng là người Mỹ sẽ tìm cách xúi giục vùng duyên hải giàu có đòi độc lập với phần còn lại của Trung Quốc. Trong ban lãnh đạo Trung Quốc người ta hiểu điều đó nên không loại trừ họ sẽ mưu toan phát động một cuộc chiến nhỏ thắng lợi. Thủ đoạn đó thời nào cũng thịnh hành.

SP: Việt Nam có hiểu rằng, tình hình có thể diễn biến đúng theo cách đó không?
- Có chứ. Vài năm gần đây, Việt Nam nhanh chóng tăng cường mua sắm vũ khí của Nga. Nước ta đang cung cấp cho Việt Nam các tiêm kích Su-30MK2, tàu tên lửa, frigate lớp Gepard, tàu ngầm, hệ thống tên lửa bờ biển cơ động Bastion với tên lửa hành trình chống hạm Yakhont… Kết quả là Việt Nam đã chiếm vị trí thứ hai trong số các khách hàng mua vũ khí Nga chỉ sau Ấn Độ. Trước đó, vị trí này trong một thời gian dài do Trung Quốc chiếm giữ. Hơn nữa, các vũ khí họ mua của Nga chủ yếu là để đối phó với một cuộc xâm lược từ hướng biển, bảo vệ các mỏ trên biển hoặc bảo vệ đường bờ biển. Vì thế, các vị hãy tự đưa ra kết luận. Còn cần phải tính đến yếu tố, các công ty dầu khí Nga cũng có những kế hoạch lớn đối với tài nguyên hydrocarbon của Việt Nam.

SP: Điều đó có nghĩa là Nga sẽ bắt buộc bị lôi cuốn vào cuộc xung đột này không?
- Tôi nghĩ chúng ta sẽ cố gắng đến cùng để tránh tham gia bằng quân sự vào cuộc xung đột đó. Điều duy nhất mà chúng ta đang làm và sẽ làm là vũ trang cho Việt Nam. Quân đội của họ trong thế kỷ qua đã ba lần chứng tỏ sức chiến đấu của mình. Vì thế, trong bất kỳ trường hợp nào thì Trung Quốc cũng sẽ không dễ làm gì được.

Câu hỏi chủ yếu trong trường hợp nổ ra chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc là Mỹ và Nhật Bản sẽ hành xử thế nào. Mỹ hiện kiểm soát đa số các tuyến đường giao thương hàng hải trong khu vực này. Một chiến thắng của Trung Quốc sẽ làm thay đổi đột biến tình hình. Bởi vậy, người Mỹ sẽ không khoanh tay đứng ngoài. Tình hình với Nhật còn nghiêm trọng hơn. Nhật nhận được qua Biển Đông phần lớn nguyên liệu mà không có nó thì kinh tế Nhật sẽ trên bờ sụp đổ. Bởi vậy, xác suất cuộc xung đột leo thang lên quy mô cuộc chiến tranh thế giới mới là cao.
  • Nguồn: Aleksei Polubota // SP, 29.2.12.