Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Chuyên gia quốc tế: Tàu sân bay Trung Quốc chỉ là 'mồi ngon' cho SU-30

Một chuyên viên cấp cao của ĐH Quốc gia Singapore cho rằng tàu sân bay Liêu Ninh vô dụng đối với Hải quân Trung Quốc. Nó không có khả năng sống sót trước Hải quân Mỹ và dễ dàng bị tổn thương trước những tiêm kích SU-30 hiện đại của Việt Nam.
Chiều 23/9, Trung Quốc đã tổ chức lễ bàn giao tàu sân bay đầu tiên của nước này cho lực lượng hải quân, dưới sự chủ trì của nhiều nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc, một động thái nhằm phô trương sức mạnh quân sự của đất nước này trong bối cảnh Bắc Kinh đang đối mặt với những tranh chấp chủ quyền tại biển Hoa Đông và Biển Đông.
Các quan chức Trung Quốc cho biết chiếc tàu sân bay được tân trang từ một con tàu mua của Ukraina vào năm 1998 này, có thể bảo vệ chủ quyền quốc gia, đặc biệt là trong tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư tại biển Hoa Đông.

Chuyên gia quốc tế: Tàu sân bay Trung Quốc chỉ là 'mồi ngon' cho SU-30
Chỉ được sử dụng để huấn luyện và thử nghiệm

Tuy nhiên, bất chấp những lời nói phô trương và những đánh giá ‘nồng nhiệt’ của các chuyên gia quân sự Trung Quốc về tầm quan trọng của chiếc tàu sân bay, trong tương lai gần nó vẫn chỉ được sử dụng cho các hoạt động huấn luyện và thử nghiệm.
Các chuyên gia quân sự Trung Quốc và một số nước khác cho rằng số hiệu "16" trên thân tàu chỉ ra rằng nó chỉ được sử dụng cho huấn luyện. Trung Quốc chưa có máy bay hạ cánh được trên tàu sân bay và cho đến nay việc đào tạo cách thức hạ cánh này mới chỉ được thực hiện trên đất liền.
Mặc dù vậy, sự xuất hiện công khai của chiếc tàu sân bay này tại cảng Đại Liên là một cách để khuấy động cảm xúc yêu nước, đã xuất hiện trong nhiều ngày qua khi tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Nhật Bản trở lên căng thẳng.
Chiếc tàu sân bay này sẽ “nâng cao sức mạnh tổng thể của Hải quân Trung Quốc” và giúp Trung Quốc “bảo vệ hiệu quả chủ quyền quốc gia, an ninh và các lợi ích phát triển", Bộ Quốc phòng Trung Quốc cho hay.
Trung Quốc sẽ chuyển giao quyền lực tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc dự kiến diễn ra vào tháng tới và việc ra mắt chiếc tàu sân bay mới dường như là một phần nỗ lực nhằm tạo nên sự thống nhất mang tầm quốc gia trước thềm sự kiện này.
Đối với mục đích quốc tế, sự kiện ra mắt trên dường như là để báo hiệu cho các quốc gia nhỏ hơn ở Biển Đông, bao gồm Philippines, một đồng minh của Mỹ, rằng Trung Quốc đang ngày càng có nhiều vũ khí ấn tượng.
Chuyên gia quốc tế: Tàu sân bay Trung Quốc chỉ là 'mồi ngon' cho SU-30
Sẽ mất mặt nếu bị Su-30 của Việt Nam đánh bại
Tuy nhiên, các nhà hoạch định quân sự Mỹ đã đánh giá thấp tầm quan trọng của chiếc tàu sân bay mà Trung Quốc vừa mới công bố. Một số quan chức hải quân Mỹ khuyến khích Trung Quốc tự xây dựng các tàu sân bay vì những con tàu kiểu như này rất lãng phí.
Các chuyên gia quân sự của nhiều nước khác cũng đồng ý với đánh giá đó. You Ji, một nghiên cứu viên cấp cao tại Đại học Quốc gia Singapore cho biết: "Thực tế, chiếc tàu sân bay này vô dụng đối với Hải quân Trung Quốc. Nếu được sử dụng để chống lại Mỹ, nó sẽ không có khả năng sống sót. Nếu được sử dụng để chống lại các nước láng giềng của Trung Quốc, đó là dấu hiệu của sự bắt nạt".
Ông You cũng cho biết thêm, những chiếc máy bay Su-30 do Nga sản xuất của Việt Nam có thể là một mối đe dọa lớn đối với chiếc tàu sân bay đầu tiên Trung Quốc: "Nếu chiếc tàu sân bay này bị Việt Nam đánh bại tại Biển Đông thì Trung Quốc sẽ vô cùng mất mặt”.
Cho đến nay, các phi công Trung Quốc chỉ được huấn luyện hạ cánh trên tàu sân bay mô phỏng bằng các dải bê tông với mẫu máy bay J-8, phiên bản được sản xuất dựa trên nguyên mẫu MIG-23 của Nga, loại tiêm kích đã ra đời cách đây 25 năm. Những phi công này sẽ không thể hạ cánh được trên chiếc tàu sân bay này vì Trung Quốc vẫn chưa có máy bay phù hợp. Ông You cho rằng để sản xuất những chiếc máy bay như vậy Trung Quốc sẽ cần khoảng thời gian rất dài nữa.
Trái ngược với những hoài nghi của các chuyên gia quân sự quốc tế, Li Jie, một nhà nghiên cứu tại Học viện Nghiên cứu Hải Quân Trung Quốc cho biết trong một cuộc phỏng vấn với Nhật Báo Nhân Dân (People’s Daily) rằng chiếc tàu sân bay này có thể thay đổi những suy nghĩ truyền thống của hải quân Trung Quốc và thay đổi cả về chất lượng, cơ cấu hoạt động của hải quân.

Phạm Khánh

http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/infonet.vn/Chuyen-gia-quoc-te-Tau-san-bay-Trung-Quoc-chi-la-moi-ngon-cho-SU30/9411035.epi

Tranh chấp biển đảo: Đến lượt Trung Quốc 'cà khịa' Hàn Quốc?

Cập nhật lúc 26-09-2012 09:56:00 (GMT+1)
Vào năm 2003, Seoul đã xây dựng một trạm nghiên cứu hàng hải tại đảo Ieodo


Hôm qua, Trung Quốc lại khơi mào cho khả năng tranh chấp chủ quyền với Hàn Quốc sau khi tuyên bố Bắc Kinh sẽ dùng máy bay không người lái để giám sát biển Hoa Đông bao gồm cả vùng biển quanh hòn đảo Iedo thuộc chủ quyền của Hàn Quốc.

Các quan chức Seoul cho biết chính phủ Hàn Quốc đang xem xét các báo cáo về kế hoạch này của Trung Quốc còn Bắc Kinh thì chưa tuyên bố rõ quan điểm của mình.
Theo các báo cáo của Trung Quốc trong tuần này, Bắc Kinh có kế hoạch vào năm 2015 sẽ giám sát các hòn đảo không người ở trên biển Hoa Đông trong đó có đảo Ieodo mà Hàn Quốc cho rằng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Theo Koreatimes, mặc dù động thái này của Trung Quốc chủ yếu nhắm đến Nhật Bản, quốc gia hiện đang tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc về quần đảo Senkaku/Điếu Ngư nhưng kế hoạch này cũng cho thấy Bắc Kinh "có quan điểm cứng rắn" về đảo Ieodo.
”Nếu mục đích giám sát của Trung Quốc là nhằm khẳng định chủ quyền với đảo Ieodo, chúng tôi sẽ phản đối và yêu cầu Trung Quốc dừng hành động đó”, một quan chức Seoul nói.
Trong năm nay, Bắc Kinh đã lên giọng tuyên bố chủ quyền về hòn đảo trên biển Hoa Đông này. Ieodo cách bán đảo Triều Tiên gần hơn 136km so với khoảng cách tới lãnh thổ Trung Quốc gần nhất.
Nhiều người cho rằng tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc nằm trong chiến lược mở rộng năng lực hải quân và tăng cường khẳng định chủ quyền trong các cuộc tranh chấp với các quốc gia Đông Bắc Á và Đông Nam Á.
Hòn đảo đá Ieodo trở thành chủ đề tranh chấp khi vào năm 1996, cộng đồng quốc tế mở rộng vùng đặc quyền kinh tế tới khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ bản, khiến vùng đặc quyền kinh tế của nhiều quốc gia giao nhau và đảo Ieodo nằm trong vùng giao nhau đó.
Hàn Quốc và Trung Quốc đã tiến hành 16 vòng đàm phán để quyết định ranh giới trên biển Hoa Đông. Seoul khăng khăng yêu cầu xác định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế dựa trên nguyên tắc chia đều, còn Bắc Kinh thì muốn khẳng định sự “mở rộng tự nhiên” của lãnh thổ Trung Quốc trong vùng biển này.
“Do có sự khác biệt lớn giữa hai quốc gia (về cách phân định đường ranh giới vùng đặc quyền kinh tế) nên chúng tôi phải tìm thời điểm thích hợp để đề cập vấn đề này với tầm nhìn dài hạn”, vị quan chức Hàn Quốc này nói.
Tranh chấp biển đảo: Đến lượt Trung Quốc 'cà khịa' Hàn Quốc?
Ieodo cách bán đảo Triều Tiên gần hơn 136km so với khoảng cách tới lãnh thổ Trung Quốc gần nhất
Vào năm 2003, Seoul đã xây dựng một trạm nghiên cứu hàng hải tại đảo Ieodo, cách mặt nước 4,6m nhằm tăng cường kiểm soát và thể hiện quyết tâm bảo vệ hòn đảo mà Hàn Quốc cho rằng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Trung Quốc và Hàn Quốc đều đã tham gia kí kết Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) và có thể sử dụng sự phân xử theo Công ước này. Tuy nhiên các chuyên gia cho rằng UNCLOS có thể được diễn giải không thống nhất và hai quốc gia đều không muốn có sự tham gia của bên thứ ba.
Hôm 24/9, Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Kim Sung-hwan nhấn mạnh rằng điều quan trọng là Liên Hợp Quốc phải thúc đẩy “lịch sử đúng đắn”. Trong cuộc gặp gỡ với người đồng nhiệm Trung Quốc Dương Khiết Trì hôm 24/9 tại New York, ông Kim Sung-hwan đã nhất trí với Ngoại trưởng Trung Quốc rằng vấn đề phân định ranh giới sẽ được thảo luận vào thời điểm thích hợp.
Hồi tháng 3, Liu Cigui, giám đốc cơ quan của Nhà nước Trung Quốc về biển, cho biết Bắc Kinh sẽ tăng cường tuần tra trên biển và củng cố luật trong nước về các vùng biển thuộc chủ quyền nước này trong đó có Ieodo. Sau đó, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak đã phải tái khẳng định mạnh mẽ lập trường của Seoul.
Các nhà quan sát cho rằng Bắc Kinh đang trên đường hiện đại hóa các lực lượng trên biển cũng như năng lực hải quân của mình để củng cố các tuyên bố chủ quyền. Hiện Trung Quốc đang tham gia vào các cuộc tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản trên biển Hoa Đông và với Philippines, Việt Nam trên Biển Đông.
Nguồn: Lê Dung/ Infonet
http://vietinfo.eu/tin-the-gioi/tranh-ch%E1%BA%A5p-bien-dao-den-luot-trung-quoc-ca-khia-han-quoc.html

Vì sao Nhật - Trung dậy sóng biển đảo?

Những vụ cãi nhau vặt quanh các hòn đảo đang là một mối đe dọa nghiêm trọng thật sự đối với hòa bình và thịnh vượng của khu vực.
Khu vực quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
Các quốc gia châu Á chính xác không hề nhìn thế giới chỉ qua một hạt cát, nhưng họ lại nhận diện các mối đe dọa nghiêm trọng đối với lợi ích quốc gia trong những phần nhô lên bé xíu và các bãi cạn bên ngoài bờ biển của họ. Mùa hè vừa qua là các tranh cãi giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á. Còn các tuần vừa rồi là những vụ việc náo động chống Nhật trên khắp các thành phố Trung Quốc vì tranh cãi đối với một nhóm các đảo không người ở mà Tokyo gọi là Senkaku, còn Bắc Kinh gọi là Điếu Ngư.
Hãng Toyota và Honda đã đóng cửa các nhà máy của mình. Giữa lúc cả hai bên đều có những giọng điệu ghét bỏ lẫn nhau, một tờ báo Trung Quốc lại đưa ra một đề nghị rất lạ nhằm chấm dứt các hoạt động ngoại giao vô nghĩa và đặt thẳng vấn đề là 'tặng' cho Nhật Bản một quả bom nguyên tử.
Thật may đây cũng chỉ là một lối nói cường điệu kệch cỡm. Chính quyền Bắc Kinh chậm trễ hạ nhiệt đối với tranh cãi này, vì nhận thức các lợi ích kinh tế trong việc duy trì hòa bình. Tất cả những điều này nghe có vẻ có lý cho tới chừng nào bạn nhìn lại lịch sử - đặc biệt là khi đặt sự trỗi dậy của Trung Quốc trong bối cảnh thế giới của một thế kỷ trước. Trung Quốc đang tái trỗi dậy sau 150 năm chìm nổi, xunh quanh là các láng giềng đầy vẻ lo âu, rất nhiều trong số đó lại là đồng minh của Mỹ. Trong bối cảnh đó, các tranh cãi về các cụm đảo đá cũng có vai trò quan trọng như vụ ám sát Hoàng tử nước Áo.
Một núi, hai hổ
Những người lạc quan chỉ ra rằng mấy vụ hỗn chiến gần đây nhất chủ yếu là một phần trong kịch bản chính trị - sản phẩm của các cuộc bầu cử tại Nhật và một quá trình chuyển giao lãnh đạo ở Trung Quốc. Tranh cãi tại Sekaku/Điếu Ngư giờ sôi lên vì chính phủ Nhật đang mua lại ba trong số năm đảo từ một gia đình tư nhân người Nhật. Mục đích là vì chính quyền trung ương Nhật không muốn các đảo này rơi vào bàn tay của vị Thị trưởng Tokyo ranh mãnh có xu thế bài Trung. Tuy nhiên, Trung Quốc lại cảm thấy bị mất mặt. Họ củng cố các tuyên bố chủ quyền và liên tục gửi các tàu tuần tra lấn vào vùng biển của Nhật.
Những người lạc quan lại lập luận thêm rằng, nói chung thì châu Á quá bận kiếm tiền nên sẽ chẳng có thời gian để gây chiến. Trung Quốc giờ là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật. Các khách du lịch Trung Quốc thì tới Tokyo để mua sắm các loại túi xách, các mẫu váy thiết kế đặt trong các khung cửa kính ở khu mua sắm Omotesando. Trung Quốc không ham hố mở rộng lãnh thổ. Vậy thì, chính quyền Bắc Kinh đã có đủ mối tơ vò trong nước rồi, sao họ còn mưu cầu thêm rắc rối bên ngoài?
Châu Á quả thực cần nhiều lý do để duy trì quan hệ hữu hảo, và vụ cãi vã vặt này rồi sẽ chìm xuồng như những lần trước đó. Nhưng cứ mỗi lần tranh cãi biển đảo nổ ra là thái độ ngày một dữ dội hơn và niềm tin bị xói mòn thêm. Hai năm trước, khi Nhật bắt giữ thuyền trưởng một tàu cá của Trung Quốc, họ đã nhận được đáp trả khi Bắc Kinh ngừng bán đất hiếm có vai trò then chốt cho ngành công nghiệp Nhật Bản.
Chủ nghĩa dân tộc dâng cao ở châu Á, đặc biệt là ở Trung Quốc đã làm cho nguy cơ này thêm trầm trọng. Chưa biết mức độ pháp lý trong các tuyên bố của Nhật Bản đối với các đảo này tới đâu, nhưng gốc rễ của nó bắt nguồn từ quá trình xây dựng đế chế xa xưa. Góp phần tạo nên chủ nghĩa dân tộc và khai thác khi cần, các lãnh đạo Trung Quốc giờ đây đang phải đối mặt với những lời chỉ trích cay độc nếu như họ không thể tự biện hộ cho mình.
Do đó, câu chuyện quần đảo này quan trọng ở chỗ tính chất đối kháng nhau trong cuộc chơi lớn vì tương lai châu Á, hơn là chỉ vì cá, dầu hay khí đốt. Tuy vậy, mỗi sự vụ dù là nhỏ, nhưng vẫn có nguy cơ tạo ra tiền lệ. Nhật Bản, và một số quốc gia Đông Nam Á khác sợ rằng nếu như họ 'nhượng bộ', thì Trung Quốc sẽ được đà lấn tới. Còn Trung Quốc sợ rằng nếu họ không thể dồn ép thì Mỹ và các bên khác sẽ nghĩ rằng họ có thể tha hồ tính kế chống lại Bắc Kinh.
Hợp tác và kiềm chế
Việc châu Á không thể giải quyết được vụ biển đảo dấy lên các câu hỏi rằng liệu khu vực có thể nào đương đầu với các cuộc khủng hoảng thật sự hay không, chẳng hạn như trên bán đảo Triều Tiên hay ở eo biển Đài Loan. Trung Quốc càng khát khao thể hiện quyền lực khắp nơi đã gây nên tình trạng phấp phỏng về cách thức họ hành xử với tư cách là một cường quốc thống trị. Và xu hướng để cho các tranh cãi vụn vặt nhất lại leo thang trở thành một cuộc xung đột toàn diện đã cho thấy rắc rối đối với Mỹ, vì Washington một mặt đảm bảo với Trung Quốc rằng họ hoan nghênh sự trỗi dậy của Bắc Kinh, mặt khác lại sử dụng lực lượng quân sự để sao cho Thái Bình Dương thật sự 'thái bình'.
Một số giải pháp sẽ phải mất một thế hệ mới xong. Các chính trị gia châu Á bắt đầu phải giải độc cho chủ nghĩa dân tộc mà họ nuôi dưỡng; về việc này thì sách giáo khoa trung thực sẽ rất hữu ích. Trong các thập kỷ tới đây, sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ vẫn là một trọng tâm chính trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Việc 'hướng Á' của Tổng thống Barack Obama là một bước khởi đầu có ích trong việc thể hiện cam kết của Washington đối với các đồng minh. Nhưng Trung Quốc cũng cần hiểu rằng Mỹ muốn có một Trung Quốc đầy trách nhiệm để tin cậy với tư cách là một cường quốc thế giới.
Dựa trên các căng thẳng biển đảo này, cần có ba biện pháp bảo vệ ngay tức thời. Thứ nhất là giới hạn quy mô rủi ro để leo thang thành khủng hoảng. Một vụ va chạm giữa biển có lẽ sẽ đỡ dữ dội hơn nếu như có bộ quy tắc ứng xử quy định các tàu nên hành xử ra sao, và nên làm gì sau khi xảy ra tai nạn. Các chính phủ có thể dễ dàng làm việc với nhau hơn trong tình huống khẩn cấp nếu họ thường xuyên làm việc với nhau trong các cơ quan khu vực.
Cách bảo vệ thứ hai là tìm lại cách thức để tách bạch tranh cãi này và vấn đề chủ quyền, mà không đi kèm định kiến. Chủ tịch Trung Quốc tương lai Tập Cận Bình có thể xem lại thành công của những người tiền nhiệm, như Chủ tịch Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đều từng đặt vấn đề chủ quyền cho thế hệ sau quyết định đối với vấn đề Senkaku/Điếu Ngư. Điều này thậm chí còn có ý nghĩa hơn nếu như các nguồn tài nguyên của các đảo đáng giá thứ gì đó: thậm chí các công ty quốc doanh có thể ngần ngại nếu như đặt các mỏ dầu của mình vào nguy cơ bị tấn công quân sự. Một khi tuyên bố chủ quyền được tách bạch, các quốc gia có thể bắt đầu chia sẻ các nguồn tài nguyên - hoặc tốt hơn là tuyên bố các đảo và vùng biển này là các khu dự trữ tài nguyên biển.
Nhưng không phải việc gì cũng giải quyết được thông qua hợp tác, do vậy, cách bảo vệ thứ ba thiên về hướng kiềm chế. Với quần đảo Senkaku, Mỹ đã rất rõ ràng: cho dù họ không đưa ra quan điểm nào về chủ quyền, nhưng các đảo này vẫn do Nhật quản lý và do đó vẫn nằm trong khuôn khổ hợp tác an ninh Mỹ - Nhật. Điều này lại củng cố cho sự ổn định, vì Mỹ sẽ sử dụng danh dự ngoại giao của mình để ngăn căng thẳng leo thang, và Trung Quốc hiểu rằng họ không thể đổ bộ.
Vai trò của Trung Quốc thậm chí còn có tính chất trung tâm hơn. Các lãnh đạo của họ luôn nói rằng sức mạnh ngày càng gia tăng của họ không phải là mối đe dọa đối với các quốc gia láng giềng. Họ cũng nói rằng họ hiểu lịch sử. Một thế kỷ trước ở châu Âu, những năm tháng hòa bình và toàn cầu hóa đã 'ru' các lãnh đạo rằng họ có thể đùa với những ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa mà không gặp 'hỏa hoạn'.
Còn sau mùa hè này, ông Tập Cận Bình và các nước láng giềng của ông cần nghĩ lại xem các hòn đảo này đang gây ra thiệt hại tới mức nào. Châu Á cần thoát ra khỏi đà trượt dốc vào tình trạng hồ nghi lẫn nhau. Đâu là cách tốt hơn cho Trung Quốc để có thể thể hiện sự chân thành trong cách trỗi dậy hòa bình chứ không phải là chiếm vai trò thống lĩnh?
  • Lê Thu (Theo Economist)


http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/89980/vi-sao-nhat---trung-day-song-bien-dao-.html

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

Nga thử thành công Club-K

VietnamDefence - Tập đoàn Morinformsystema-Agat hôm thứ ba, 4/9/2012 đã tiến hành bắn thử thành công hệ thống tên lửa Club-K với tên lửa Kh-35UE, một nguồn tin tại tập đoàn này cho biết.
concern-agat.com
“Chương trình thử nghiệm rung xóc đã hoàn thành toàn bộ. Các chuyên gia đánh giá các thử nghiệm là thành công”, nguồn tin nói.

Theo nguồn tin, sắp tới, sẽ tiến hành các thử nghiệm tương tự hệ thống Club-K với các tên lửa 3M-54E và 3M-14E.

“Các thử nghiệm được tiến hành một lần nữa cho thấy, được đề xuất với khách hàng không phải là một model hay maket mà là hệ thống vũ khí tên lửa trong container thực tế, cho phép biến bất cứ tàu biển nào trở thành một tàu tên lửa”, nguồn tin nói.

Hệ thống Club-K đã được trưng bày tại nhiều triển lãm quốc tế và thu hút nhiều sự quan tâm của khách hàng nước ngoài.

Hệ thống Club-K được bố trí trong container đường sắt tiêu chuẩn. Chỉ có thể phát hiện ra nó khi phóng tên lửa, khi hệ thống được chuyển vào trạng thái chiến đấu. Lúc khác, bề ngoài đó là một container đường sắt bình thường.

Nguồn: VZ, 4.9.2012.
Last Updated ( 10:43 AM, 05/09/2012

http://vietnamdefence.com/Home/tintuc/thegioi/Nga-thu-thanh-cong-ClubK/20129/51942.vnd

Thứ Ba, 4 tháng 9, 2012

Đạo quân chiến tranh mạng của Trung Quốc

Tác giả Roger Faligot


Đây chỉ là một chương ngắn trong tác phẩm "Tình báo Trung Quốc – từ thời Mao Trạch Đông đến Thế vận hội Bắc Kinh" của tác giả Roger Faligot, một cuốn sách dày 600 trang do NXB Nouveau Monde ở Paris ấn hành vào đầu năm 2008. Cuốn sách này là kết quả cuộc điều tra công phu của tác giả về công tác tình báo và hậu trường chính sách đối ngoại của Bắc Kinh.


Tác giả tìm cách trả lời câu hỏi, tình báo Trung Quốc có phải là mạnh nhất thế giới ?
Là nhà báo và chuyên gia về châu Á, Roger Faligot đã lặng lẽ điều tra tại Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Úc, thu thập được nhiều tài liệu độc đáo, khai thác các kho lưu trữ đặc biệt và phỏng vấn nhiều nhà chuyên môn : chuyên gia về tình báo, chính khách, nhà ngoại giao, nhà phân tích quân sự, người đào thoát và các nhà ly khai.
Những tiết lộ trong sách giúp người đọc biết được cách thức Trung Quốc dựa vào để mong tiến lên thành siêu cường : nhờ có mạng lưới tình báo tích cực hoạt động trong tất cả mọi lãnh vực, kết hợp binh pháp gián điệp có từ thời xưa, chính sách trấn áp về mọi mặt của bộ máy an ninh, và các công nghệ mới – chiến tranh mạng, tình báo kinh tế và những trận đánh chớp nhoáng trên internet.
Tác phẩm "Tình báo Trung Quốc" của Roger Faligot
Tác giả cũng cho biết làm thế nào Bắc Kinh đào tạo được đội ngũ hacker chuyên tấn công các trang mạng chính phủ những nước khác.
Cuối cùng, sau khi mô tả mạng lưới hùng hậu chuyên theo dõi các phong trào chống Thế vận hội Bắc Kinh, tác giả cho biết các vận động viên và các phóng viên thể thao đã bị tình báo TQ theo sát như thế nào, thông qua một trung tâm tình báo đặc biệt có ngân sách lên đến 1,3 tỉ đô la !
Sách ra đời từ tháng 2/2008, đến nay có lẽ đã lạc hậu nhiều, « bạn vàng » nay đã hiện đại hóa vượt bực, nhưng dù sao cũng có lẽ giúp chúng ta đỡ mơ hồ một chút.
Một chi tiết nhỏ: Ở cuối sách có phụ lục Who’s Who 50 lãnh đạo tình báo ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử gián điệp Trung Quốc. Đứng đầu danh sách này (xếp theo thứ tự vần) là Cao Guisheng, năm 1954 là phóng viên Tân Hoa Xã ở Hà Nội.
Sách gồm các chương sau :
Lời bạt : Nụ hôn từ Bắc Kinh
Chương 1 : Trận chiến Thượng Hải
Chuơng 2 : Cơ quan tình báo thời Mao
Chương 3 : Cách mạng Văn hóa của các gián điệp
Chương 4 : Đặng Tiểu Bình và « những con cá dưới đáy biển »
Chương 5 : Năm mươi lăm ngày đêm Thiên An Môn
Chương 6 : Chiến dịch Thu Lan
Chương 7 : Gián điệp toàn cầu hóa thời Giang Trạch Dân
Chương 8 : Bộ Công an và KGB cũ đối đầu với Mỹ
Chương 9 : Chiến tranh kinh tế và “thủ đoạn cá mút đá”
Chương 10 : Những con chuột chũi của Phòng 610 và « ngũ ngư »
Chương 11 : De Gaulle - Sarkozy : Nước Pháp, tâm điểm của mục tiêu
Chương 12 : Đạo quân chiến tranh mạng Trung Quốc
Chương 13 : Trung Quốc, huy chương vàng gián điệp
Thụy My xin phép dịch dần chương 12 dưới đây
Chương 12 : Đạo quân chiến tranh mạng của Trung Quốc
Tháng Chạp năm 2006. Nhìn từ trên không, căn cứ Pine Gap ở phía nam Alice Springs hiện ra với những ăng-ten parabol và những mái vòm trắng, giống như một trạm thu phát vệ tinh bình thường. Trên thực tế, đây là viên ngọc quý giá của điệp báo phương Tây để đối phó với Trung Quốc.  
Nằm trên vùng đất đỏ của thổ dân ở trung tâm nước Úc, căn cứ này là « cấm địa » trên bản đồ du lịch. Danh bạ điện thoại địa phương chỉ cho biết có sự hiện diện của một Joint Defence Facility với các chi nhánh xã hội và y tế. Một cụm từ cho thấy Úc không phải là người quản lý duy nhất. 
Căn cứ Pine Gap
Được xây dựng năm 1966, căn cứ trên đây do cơ quan Úc DSD(Defence Signals Directorate) cùng phụ trách với NSA (National Security Agency) của Mỹ. Trung tâm này tham gia cuộc chiến tranh điện tử, với việc thu thập các dấu hiệu thông tin với tầm vóc quy mô và diễn dịch chúng. Trong nghề tình báo, người ta thường gọi tắt là SIGINT, từ cụm từ tiếng Anh Signals Intelligence
Căn cứ lớn này của Úc ra đời từ thời Cách mạng Văn hóa của Mao Trạch Đông và chiến tranh Việt Nam. Bốn mươi năm sau, nhờ có các kỹ thuật mới, hoạt động của trung tâm đã nhân gấp mười : Pine Gap ghi lại lập tức các cuộc trao đổi trong quân đội Trung Quốc, cũng như của các nước láng giềng Bắc Triều Tiên và Việt Nam…
« Đó là một khu rừng các công sự dưới mặt đất, nơi làm việc của gần 800 kỹ thuật viên và nhà phân tích Úc, Mỹ. Họ có liên lạc trực tiếp với trung tâm chỉ huy của NSA tại Fort Meade, tiểu bang Maryland. Nhóm B phụ trách châu Á sẽ dịch lại các thông tin ». Tại Canberra, một cựu nhân viên kỹ thuật Úc đã giải thích như thế trước khi tôi đến Alice Springs.
Trung tâm nghe lén này không đơn độc, mà được hỗ trợ bởi những trạm thông tin khác tại Úc dưới sự quản lý của Hải quân, DSD và các đơn vị đặc biệt khác. Bên cạnh đó còn kết hợp với một đơn vị của New Zealand - Government Communication Security Bureau. Toàn bộ những cơ quan này hợp thành một liên minh với NSA của Bắc Mỹ và “người anh em” Canada, cũng như Government Communication Headquarter (GCHQ) của Anh - cơ quan nghe lén lớn nhất của phương Tây, chỉ đứng sau NSA.
Đối mặt với Trung Quốc, GCHQ từ năm 1947 đã triển khai các “tai nghe” ở Hồng Kông: một trạm đặt tại Little Sai Wan, có 140 kỹ thuật viên Úc, một trạm nữa ở Tai Mo Shan thuộc “tân lãnh thổ”, và một trạm vệ tinh đặt tên là Fort Stanley, tại bán đảo Chung Hom Kok, do Không lực Hoàng gia và DSD quản lý.
Tuy nhiên Anh đã phải tháo dỡ để tránh bị Ban 3 (tạm dịch từSan Bu hay APL-3), đơn vị phụ trách SIGINT của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc xơi trọn, khi Hồng Kông được trao trả cho Trung Quốc năm 1997. Sau đó GCHQ đã thiết trí các “tai nghe nhỏ” tại cao ủy Anh, tức lãnh sự quán, được mệnh danh là “Fort Alamo”. Còn DSD của Úc thì tổ chức một đơn vị nghe lén tại lãnh sự quán ở Hồng Kông, liên hệ trực tiếp với trung tâm Watsonia gần Melbourne. 
Trước khi lá cờ đỏ thế chỗ cho lá cờ Anh, người Anh đã cho gắn hàng trăm “con rận”, “con gián” điện tử tại trại Prince-de-Galle, nơi trở thành bộ chỉ huy quân sự Trung Quốc.
Khi chiến dịch Kittiwake của trạm vệ tinh Fort Stanley bị chấm dứt năm 1993, DSD quản lý một trạm khác ở Geralton miền tây nước Úc. Trạm này cũng làm các nhiệm vụ: đo lường từ xa các thử nghiệm tên lửa đạn đạo của Trung Quốc, phóng vệ tinh, thu thập các dữ liệu vệ tinh gồm các thông tin hình ảnh (PHOTINT), thông tin điện tử (ELINT) và các thông tin khác liên quan đến Trung Quốc.
Trong khuôn khổ một hiệp ước về nghe lén có từ thời chiến tranh lạnh, các hoạt động này là một phần của hệ thống ECHELON đã gây nhiều tranh cãi tại châu Âu. Người ta lo ngại nhà nước can thiệp vào cuộc sống riêng của các công dân bình thường – nghe những cuộc đối thoại riêng tư, chuyển hướng fax và email…
Bảng cấm trên đường vào căn cứ Pine Gap
Nhưng ở đây, giữa vùng sa mạc nước Úc, các kỹ thuật viên không hề quan tâm đến: cả ngày lẫn đêm họ phải giám sát một Trung Quốc đỏ, được xem là một chế độ độc tài, gây lo ngại vì lớn mạnh về quân sự và hung hăng trong kinh tế. Alice Springs là một chọn lựa tốt, theo các chuyên gia. Vùng đất hẻo lánh này, nơi mà du khách có thể gặp gỡ hoặc thổ dân, hoặc các kỹ sư nghe lén một cách vô tình, vốn có truyền thống về bắt sóng thông tin, và bản vẽ địa hình cũng rất sẵn.
Năm 1870 Charles Todd đã cho xây dựng một trạm điện tín, nối vùng sa mạc này với Adélaide ở duyên hải phía nam và Darwin ở phía bắc, và xa hơn nữa, với vùng còn lại của đế quốc Anh – bắt đầu bằng Hồng Kông và các trạm của Anh ở Tientsin và Thượng Hải. Cùng trong thời kỳ Victoria này, những người Trung Quốc từ Phúc Kiến đã đổ xô đến đây – những người tìm vàng, như cái tên Chinaman’s Creek, khi ra khỏi Alice Springs, trên đường dẫn đến căn cứ bí mật của DSD-NSA.
Nhưng chính những người Hoa mới đến mà cơ quan phản gián phải lo theo dõi. Australian Security Intelligence Organisation(ASIO) tin rằng trong số cộng đồng nhập cư năng động này, có một vài “con cá ở đáy biển”, các nhân viên tình báo của Bộ Công an phụ trách tuyển mộ một kỹ sư, một nhà ngôn ngữ học gốc Hoa, dẫn dụ họ bằng cách nhắc nhở rằng họ thuộc cộng đồng Hoa kiều rộng lớn. 
 
"Nội bất xuất, ngoại bất nhập"
Căn cứ Pine Gap cũng là một chọn lựa về kỹ thuật, theo như giải thích của James Bamford, nhà sử học của NSA. Bởi vì trong thập niên 60, vệ tinh bắt được những dữ liệu chưa mã hóa và gởi trực tiếp đến căn cứ, tránh việc một chiếc tàu gián điệp lại bắt được những tín hiệu này, giúp Matxcơva biết được đã bị lấy trộm những gì (Trung Quốc hiện chưa đủ năng lực kỹ thuật để chơi trò này, nhưng không lâu nữa sẽ đạt được).
Cũng giống như Alice Springs nằm cách xa mọi thứ, tại trung tâm đất nước Úc đồng thời là châu lục, những con tàu gián điệp du hành quá xa không thể nhận dạng được các tín hiệu xa xôi, trong nghề gọi là footprint. Tiếp theo ở Pine Gap, các kỹ sư mã hóa những gì nhận được rồi gởi đến trung tâm của NSA ở Fort Meade, thông qua một vệ tinh khác.
Sau khi đảng Lao động của Gough Whitlam thắng cử năm 1972, rồi đến việc công nhận Trung Quốc về ngoại giao, CIA cho rằng chính quyền Canberra sẽ tiến hành đóng cửa Pine Gap. Cả một thảm họa đối với cộng đồng tình báo Anh-Mỹ! Theodore Shackley, trưởng phân bộ Đông Á của CIA thậm chí còn khuyến khích các hoạt động gây mất ổn định chính phủ, tương tự tại Anh với chính phủ Harold Wilson. Trong các nền dân chủ, ngành tình báo tôn trọng hệ thống và Hiến pháp, khi đặc quyền không bị ảnh hưởng. Một số người lãnh đạo ngành này lại ước được như ở Trung Quốc: ít nhất tại Bắc Kinh, cơ quan tình báo có đầy quyền lực, phối hợp với đảng và quân đội…
Nhưng rốt cuộc Pine Gap lại tiếp tục hoạt động, và chứng tỏ sự hữu ích của mình trong một cuộc chiến bí mật. Nhờ căn cứ này mà Canberra biết được vụ Indonesia tràn vào Đông Timor năm 1975, nghe được những trao đổi trong quân đội Trung Quốc, hay nếu không giải mã được thì cũng nghiên cứu được những luồng thông tin ý nghĩa.
Bằng chứng: Ngày 17/02/1979, Pine Gap là nơi đầu tiên phát hiện ra việc quân Trung Quốc xâm lăng Việt Nam. Tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi) - cựu lãnh đạo các “tình nguyện quân” Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên, chỉ huy cuộc tiến công xâm lược. 
Các liên lạc của phía Trung Quốc đã bị các tàu Nga gây nhiễu – Matxcơva đã ký với Hà Nội một hiệp định hợp tác quốc phòng năm trước đó. Mục đích của cuộc chiến là đánh tập hậu Việt Nam, trong khi người Việt đã tấn công chớp nhoáng Cam Bốt, bắt được nhiều ngàn cố vấn Trung Quốc của bọn Khmer Đỏ. 
Trận chiến kết thúc bằng một thất bại vô cùng nhục nhã cho Quân đội Nhân dân Trung Quốc. Và là một cái tát đau đớn cho Đặng Tiểu Bình, lên nắm quyền trở lại sau những hỗn loạn của Cách mạng Văn hóa. Nhưng ông Đặng thấp lùn với đôi má phính luôn biết cách bật dậy. Rút ra các bài học từ cú rờ-ve này, ông ta đề nghị cải cách sâu rộng quân đội, bắt đầu từ cơ quan tình báo và chiến tranh trên mạng.


Chiếc USS Oxford





Bão táp cho Oxford và chiến dịch Oyster

Việc giám sát điện tử cũng được tiến hành với những hoạt động ở gần sát Trung Quốc.
Người Mỹ gởi cho các cơ sở những phương tiện theo dõi và bắt sóng táo bạo. Vào lúc căn cứ SIGINT ở Pine Gap được xây dựng, năm 1966, NSA còn sử dụng các con tàu gián điệp như chiếc USS Oxford (mã hiệu AGTR-1) trang bị đầy ăng-ten, chở được 11.000 tấn, vận tốc 11 hải lý/giờ nếu không neo đậu ở cảng Yokosuka, Nhật Bản. Với 250 sĩ quan và thủy thủ, chiếc tàu di chuyển ngoài khơi Biển Đông để theo dõi những biến động của Cách mạng Văn hóa, và bắt sóng các liên lạc của đảng và quân đội.
Nhưng bỗng dưng chiếc USS Oxford bị rơi vào tâm bão và giạt vào bờ biển Trung Quốc. Quả là có một Thượng đế đối với các nhân viên tình báo ! Nhờ phép lạ, chiếc tàu lại bị đánh bật ra ngoài khơi và trôi về đến Đài Loan. Thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc ! Thật là một thảm họa nếu chiếc tàu do thám bị mắc cạn, hoặc bị bắt giữ - như trường hợp chiếc USS Pueblo bị Bắc Triều Tiên bắt vào tháng 1/1968.
Nếu bắt được tàu USS Oxford, chỉ người Trung Quốc mới có thể tha hồ tháo tung ra để nghiên cứu và cải thiện hệ thống của họ. Vì trong trường hợp chiếc Pueblo, Bắc Kinh đã bị Matxcơva phỗng tay trên. Liên Xô đã được người bạn chung là Kim Jong Il cung cấp những bí mật của hệ thống tình báo NSA. 
Một năm trước đó, năm 1967, cũng đã một phen hú vía : chiếcUSS Banner cùng loại với Pueblo, đang ở hải phận quốc tế gần Thượng Hải, cách đảo Chu San (Zhoushan) 25 hải lý, thì bị các tàu đánh cá bao vây. Thuyền trưởng Charles Clark kể lại : « Tôi có cảm giác họ định kéo tàu chúng tôi đi, hay đại loại như vậy. Họ tiến sát bên, chỉ cách có năm mét. Hai trong số các tàu này có những khẩu đại bác còn to hơn của chúng tôi, nhưng tôi nghĩ dù các khẩu pháo có nhỏ hơn, nhưng chúng tôi vẫn có thể đẩy lùi họ ».

Rốt cuộc tàu bán quân sự Trung Quốc nhận được lệnh ngưng hoạt động tấn công hải tặc này, và chiếc tàu do thám có thể quay về Nhật Bản bình an vô sự.
Dù sao đi nữa, người Mỹ có thể sử dụng các phương tiện khác ít nguy hiểm hơn để theo dõi Trung Quốc, như việc cùng quản lý các trung tâm nghe lén trên mặt đất với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan.
Trở lại với nước Úc, có một cách đơn giản khác để bắt được các liên lạc : chỉ cần nghe lén đại sứ quán Trung Quốc ở Canberra. Tôi đã đến thủ đô Úc để nghiên cứu cuộc chiến tranh điện tử giữa Trung Quốc và các địch thủ. Và đã gặp gỡ giáo sư Desmond Ball, tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc phòng và Chiến lược của đại học quốc gia Úc, mà các công trình được thế giới biết đến nhiều. Ông giải thích không hề úp mở : « Theo chúng tôi thì Ban 3 (San Bu) không thiết lập một trạm nghe lén quan trọng nào tại đại sứ quán ở Canberra, vì không trông thấy ăng-ten parabol lẫn các bó ăng-ten. Tai mắt của bà đại sứ Fu Yi chủ yếu là ở trong cộng đồng người Hoa ».
Hôm sau khi đến tại chỗ, ở Coronation Drive, tôi nhận thấy cao ủy Anh chỉ cách đại sứ quán Trung Quốc một con đường nhỏ. Người Anh, như thường lệ, luôn sở hữu những cụm ăng-ten xinh đẹp và ê-kíp GCHQ, được biệt phái đến đây dưới danh nghĩa nhân viên ngoại giao, không quên thu nhận những thông tin liên lạc của láng giềng. 
Rõ ràng là ở Canberra dễ thực hiện hơn ở Bắc Kinh, nơi cơ quan phản gián Trung Quốc phụ trách theo dõi các cơ quan ngoại giao đã xây dựng những tòa nhà lớn xung quanh các đại sứ quán ngoại quốc – được tập trung trong khu Đông Trực Môn (Dongzhimen) – để gây khó khăn cho hệ thống nghe trộm. Và ngược lại, họ xây dựng một tòa tháp vi sóng để bắt sóng các thông tin của ngoại giao đoàn.
Tại Canberra, do không thể bắt được tất cả các thông tin bên ngoài, tình báo Úc đã dùng một thủ thuật vào lúc các đại diện ngoại giao Trung Quốc chuyển trụ sở năm 1990. Được sự hỗ trợ của khoảng ba chục kỹ thuật viên NSA, Australian Secret Intelligence Service – mã hiệu Oyster – đã thành công trong việc lắp đặt các micro trong đại sứ quán mới.
Tuy vậy một tờ báo Úc đã đánh hơi được vụ này. Lãnh đạo của ASIS phải vận dụng mọi khả năng ngoại giao để khuyên tờ báo không nên công bố thông tin có hại cho cơ quan tình báo lẫn ngành ngoại giao Úc. Nhưng rủi thay, chính nhờ tờ Time Magazine của Mỹ mà đại sứ Shi Chunlai đã biết được thông tin là cơ quan mình đầy dẫy máy nghe lén…Hình thức này đã trở nên phổ biến từ khi Trung Quốc qua mặt Liên Xô cũ trong hoạt động tình báo.
Nguồn: Thụy My RFI
http://vietinfo.eu/tu-lieu/dao-quan-chien-tranh-mang-cua-trung-quoc-2.html

Trung Quốc 5 giai đoạn tranh chiếm Biển Đông

 TS Nguyễn Ngọc Trường
(Toquoc)-Lợi dụng các khoảng trống quyền lực nước lớn tại Đông Nam Á/Biển Đông, Trung Quốc từng bước trắng trợn chiếm đoạt biển đảo của các quốc gia khác tại Biển Đông.
Từ sau Hiệp ước 6/6/1884 ký giữa Pháp với triều đình Việt Nam, nước Pháp đại diện quyền lợi của Việt Nam trong quan hệ đối ngoại và việc bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Trong khuôn khổ sự cam kết chung đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nỗ lực đầu tiên của Trung Quốc tiến hành năm 1909. Nguyên do là trong Chiến tranh Thanh-Nhật (1894-1895), Nhật Bản đã chiếm Đài Loan cùng Bành Hồ. Đầu năm 1907, Nhật Bản chiếm nhóm đảo Đông Sa (Pratas). Trước sức ép dư luận trong nước, Phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuấn phái thủy sư đô đốc Lý Chuẩn đem 2 pháo thuyền ra thăm Hoàng Sa chớp nhoáng (24 giờ). Đây là hoạt động có tính thăm dò đầu tiên của một chính quyền địa phương Trung Quốc tiến hành tại quần đảo Hoàng Sa.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến ngày nay, cứ mỗi lần ở Đông Nam Á/Biển Đông xuất hiện khoảng trống quyền lực nước lớn, Trung Quốc lại tìm cách ra quân lấn chiếm, từng bước tăng cường sự hiện diện của họ tại Biển Đông.

Ngày 26/5/2011, tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 của Việt Nam

Từ năm 1946, Trung Quốc triển khai năm giai đoạn tranh chiếm Biển Đông:
Giai đoạn 1 (1946-1947), Trung Quốc đặt chân lên Hoàng Sa-Trường Sa:
Tháng 12-1946, Trung Quốc Tưởng Giới Thạch cử tàu ra “giải giáp quân đội Nhật” taị Hoàng Sa và Trường Sa theo sự thỏa thuận của các nước đồng minh chống Nhật.
Khi trở về Quảng Châu, tổng chỉ huy Lâm Tuân cùng một số học giả, nhà địa lý và chuyên gia sử học cùng ngồi lại để phác họa, vẽ ra cái gọi là bản đồ “11 đoạn” rồi giao cho Sở Phương vực thuộc bộ nội chính của chính quyền Trung Hoa dân quốc in ấn vào tháng 10/1947. Năm 1953, Chính phủ CHND Trung Hoa đã phê duyệt cắt bỏ hai đoạn ở vịnh Bắc bộ của Việt Nam để biến “đường 11 đoạn” thành “đường 9 đoạn”.
Sau khi CHND Trung Hoa ra đời, đơn vị đồn trú của Trung Quốc Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm, trong khi đó Pháp vẫn duy trì quân đồn trú tại phía tây Hoàng Sa.
Giai đoạn 2 (1951-1974), từng bước đánh chiếm Hoàng Sa:
Tháng 4/1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc  bí mật đưa quân ra chiếm đóng nhóm đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa quản lý các đảo thuộc nhóm đảo phía tây của Hoàng Sa và Trường Sa.
Từ ngày 17/1-20/1/1974, diễn ra hải chiến giữa các lực lượng vũ trang của Trung Quốc với lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa tại Hoàng Sa. Trung Quốc chiếm nốt các đảo thuộc nhóm đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa. Tàu chiến Mỹ có mặt ngoài khơi nhưng không cứu viện cho hải quân VNCH.
Lúc này, phía Mỹ tuyên bố với phía Trung Quốc “không có ý định can thiệp” vào xung đột Biển Đông, thực chất là làm ngơ cho Trung Quốc hành động, sau khi Mỹ và Trung Quốc ký Thông cáo chung Thượng hải 1972.
Giai đoạn 3 (1975-1995), đánh chiếm một số đảo Trường Sa:
Tại Biển Đông, Trung Quốc theo đuổi sách lược gọi là “chính sách ba bước tiến, hai bước lùi”: Tìm cách lấn chiếm (tiến ba bước); khi dư luận quốc tế bày tỏ lo ngại và lên tiếng phê phán, Bắc Kinh chuyển sang thái độ hòa giải (lùi hai bước). Nhưng xu hướng lâu dài vẫn là lấn tới (lợi một bước). Điều này thể hiện xuyên suốt trong các giai đoạn  từ năm 1975.
Từ tháng 1 đến tháng 4/1988, Trung Quốc thực hiện chiến dịch đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa do Việt Nam kiểm soát, chiếm đóng đá Chữ Thập, đá Châu Viên, đá Ga Ven, đá Gạc Ma, đá Su Bi.
Lúc này, phía chính quyền Gorbachev (Liên Xô) đã thực hiện hòa hoãn và thỏa hiệp với Đặng Tiểu Bình Trung Quốc trên một loạt vấn đề đối ngoại. Liên Xô chủ trương rút khỏi Cam Ranh.
Xung đột Trung Quốc - Philippines liên quan đến dải đá ngầm Vành Khăn (Mischief Reef) bắt đầu từ tháng 2/1995 khi Philippines phát hiện Trung Quốc đang cho xây dựng một hệ thống trú phòng trên một hệ thống cột trụ vững chắc, xác lập sự hiện diện thực tế của họ trên hòn đảo này. Xung đột này đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong tranh chấp chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông và việc Trung Quốc mở rộng sự có mặt tại quần đảo Trường Sa.
Giai đoạn 4 (1996-2009), ngoại giao “câu giờ” và “Lục hoãn hải khẩu”:
Việc Trung Quốc chiếm dải đá ngầm Vành Khăn dấy lên mối quan ngại sâu sắc tại các nước Đông Nam Á, thúc đẩy ASEAN đoàn kết đấu tranh ngoại giao về vấn đề Biển Đông. Các nỗ lực ngoại giao đã dẫn đến việc ký kết Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) giữa ASEAN và Trung Quốc, ngày 4/11/2002, tại Phnom Penh.
Trên biển, Trung Quốc củng cố chỗ đứng ở Biển Đông và thực hiện ngoại giao “câu giờ” với những cuộc tranh chấp cường độ thấp. Với Việt Nam, Trung Quốc thực hiện chủ trương “Lục hoãn hải khẩu” (trên đất liền hòa dịu, ngoài biển tranh chấp).
Giai đoạn 5 (2009-2012), tranh chấp toàn diện cường độ cao:
Từ mùa Thu 2008, Mỹ rơi vào “hủng hoảng kép”, bị suy yếu về kinh tế và đối ngoại (sa lầy trong hai cuộc chiến tranh).

Tàu ngầm Trung Quốc trong một cuộc diễn tập
Tháng 3/2009, 5 tàu thuyền Trung Quốc bao vây cản trở hoạt động của tàu nghiên cứu hải dương Impeccable của hải quân Mỹ đang thu thập thông tin tình báo đáy biển ngoài khơi đảo Hải Nam. Tháng 3/2010, phía Trung Quốc nói với Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ James Steinberg rằng lợi ích của họ ở Biển Đông là một trong những “lợi ích cốt lõi”. Tại Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Trung-Mỹ lần thứ hai, tháng 5/2010 tại Bắc Kinh, ông Đới Bỉnh Quốc, Ủy viên Quốc vụ phụ trách đối ngoại, đã nêu với phía Mỹ Biển Đông thuộc “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc.
Bắc Kinh đưa bản đồ đường 9 đoạn hình lưỡi bò vào văn kiện gửi Ủy ban Liên hợp quốc về thềm lục địa mở rộng, ngày 7/5/2009, chính thức hóa tấm bản đồ “đường đứt đoạn” hình chữ U. 
Ngày 26/5/2011, 3 tàu Hải giám của Trung Quốc thực hiện một vụ gây hấn trắng trợn khi cắt đứt cáp thu địa chấn của tàu Binh Minh 02 đang hoạt động cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên), nằm trong vùng vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Từ ngày 8/4 đến 18/6/2012, diễn ra cuộc đối đầu tại vùng bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham giữa Trung Quốc với Philippines.
 Ngày 21/6/2012, Trung Quốc thành lập “thành phố Tam Sa” (thuộc Hoàng Sa - Việt Nam) và Khu cảnh bị, nhằm thiết lập cứ điểm tại Biển Đông để kiểm soát Biển Đông. Việc thành lập “thành phố Tam Sa” và Khu cảnh bị Tam Sa  là bước phát triển mới của chiến lược bá quyền Biển Đông của Trung Quốc.
Tam Sa mở đầu giai đoạn mới Trung Quốc tranh đoạt Biển Đông, tích cực tranh chấp, tích cực khai thác, tạo ra những xung đột lợi ích ngày càng gay gắt với các nước lớn liên quan./.

http://www.toquoc.gov.vn/Sites/vi-vn/details/7/ho-so-quoc-te/110763/trung-quoc-5-giai-doan-tranh-chiem-bien-dong.aspx

Mỹ chuẩn bị cho cuộc chiến với Trung Quốc


Học thuyết AirSea Battle (tạm dịch là Thủy-Không Tác chiến) của quân đội Mỹ đang làm dấy lên một cuộc bút chiến nảy lửa. Có thể nó gây tranh cãi vì các lực lượng vũ trang chưa coi nó là chính thức. Các chi tiết của nó là chủ đề của những lời đồn thổi. Nguồn thông tin chính về nó vẫn chỉ là một nghiên cứu chưa chính thức và chưa được coi là bí mật. Nghiên cứu này được Trung tâm Đánh giá chiến lược và ngân sách (có trụ sở tại Washington) công bố năm 2010.
Cuộc tranh cãi về học thuyết AirSea Battle chủ yếu xoay quanh khía cạnh công nghệ và câu hỏi phải chăng học thuyết này nhằm vào Trung Quốc. Có thể trả lời câu hỏi này trước: đúng, nó nhắm tới Trung Quốc.
Không có tiên đoán nào về sự diệt vong. Xét về khía cạnh chính trị, cuộc chiến tranh với Trung Quốc không phải là không tránh khỏi, cũng không phải là ít khả năng xảy ra. Nhưng giới chức quân đội đang lên kế hoạch chống lại các năng lực tuyệt vời nhất có thể phải đương đầu. Và xét về khía cạnh chiến sự, Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA) đặt ra thách thức "chống tiếp cận" cứng rắn nhất so với bất kỳ địch thủ nào trong tương lai. Các chiến lược gia, các nhà hoạch định và cả binh sĩ đều chuẩn bị cho tình huống gay cấn nhất, cả nước Mỹ phải xác định những khu vực và lựa chọn quan trọng.
Như vậy, PLA được coi là cái mốc chuẩn cho sự thành công của quân đội Mỹ tại khu vực biển ở châu Á, nơi hầu hết mọi người đều gọi là cuộc thử thách gắt gao về cạnh tranh giữa các nước lớn trong thời đại ngày nay. Các đối thủ tiềm năng khác, đặc biệt là quân đội Iran, được Lầu Năm Góc xếp vào loại các thách thức "thức yếu". Bởi nếu các lực lượng của Mỹ có thể chọc thủng hệ thống phòng thủ "chống tiếp cận" cứng rắn nhất ở bên ngoài thì các hệ thống phòng thủ mềm hơn mà các đối thủ yếu hơn dựng lên sẽ hoàn toàn dễ dàng bị quản lý.
Ảnh minh họa
Sự chú trọng tới chiến lược "chống tiếp cận" giải thích tại sao học thuyết AirSea Battle là nhằm vào Trung Quốc - vì tiêu chuẩn vàng của họ, không phải vì ai đó mong chờ xảy ra chiến tranh tại Tây Thái Bình Dương.
Công nghệ
"Chống tiếp cận" là một cái tên mới, hấp dẫn cho một khái niệm cũ về phòng thủ từng lớp. Giống như mọi sỹ quan hải quân, tôi đã phản ứng mạnh về nó.
Hãy bàn về phòng không. Khi một đội đặc nhiệm tàu sân bay có dấu hiệu bị tổn hại, các chỉ huy sẽ loại bỏ "kiểm soát không chiến" xung quanh hạm đội, tập trung vào "trục đe dọa", hoặc vào hướng dễ bị tấn công từ trên không nhất. Các lá chắn từ đơn vị không quân trên tàu sân bay tạo thành hàng phòng thủ đầu tiên và ngoài cùng.
Sau đó tới các tên lửa hạm đối không trên các tàu của hạm đội. Nếu kẻ tấn công vượt qua được các vùng chiến của tên lửa, các vũ khí phòng thủ "mũi nhọn" như tên lửa tầm ngắn do radar điều khiển hoặc súng sẽ tham chiến như một nỗ lực cuối cùng.
Mỗi hệ thống phòng thủ chiến đấu với kẻ tấn công khi chúng vào tầm với. Nhiều lớp như vậy sẽ làm tăng cơ hội sát thương, tức là tăng khả năng chống cự của hạm đội. Kết quả tất yếu là: các hệ thống phòng thủ ngày càng dày đặc khi kẻ thù càng tới gần.
Logic tương tự cũng được áp dụng trong phòng thủ ven biển nhưng trên một quy mô lớn. Một quốc gia muốn tránh kẻ thù bằng cách tung ra một loạt vũ khí và học thuyết để tấn công trên biển và trên không. Các hệ thống này có phạm vi khác nhau và được thiết kế các thông số khác nhau. Máy bay chiến đấu chiến thuật có thể bay hàng trăm dặm ở ngoài khơi và bắn tên lửa có tầm sát thương xa hơn thế. Các tàu tuần tra gắn tên lửa chỉ mang các thùng chứa dầu nhỏ và hạn chế khả năng hoạt động ngoài khơi, vì vậy chúng chủ yếu được cài cắm ở gần nhà. Tương tự với các tàu ngầm chạy bằng động cơ điện diesel.
Nếu chiến lược chống tiếp cận là nấc cao hơn của phòng thù từng lớp, thì AirSea Battle nhằm phát triển các công nghệ và chiến thuật để thâm nhập chúng. Như vậy, hiểu theo cách nào đó thì Trung Quốc và Mỹ đang chiếu lại những năm giữa hai cuộc chiến tranh.
Việc hoạch định chiến tranh đã bắt đầu ngay sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhật Hoàng đã lên kế hoạch đuổi cổ hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ khỏi các vùng biển, vùng trời và lãnh thổ nằm trong chu vi phòng thủ của mình, bao chùm Tây Thái Bình Dương, các biển của Trung Quốc, Đông Nam Á và nhiều phần ở Vịnh Bengal. Không để bị lấn át, các sĩ quan Hải quân Mỹ đã bày mưu và thử nghiệm các kế hoạch chiến đấu để phá hỏng các biện pháp chống tiếp cận của Nhật Bản.
Rất lạ là các nhà hoạch định ở cả hai bên bờ Thái Bình Dương đều đã có suy nghĩ giống nhau về cách thức cuộc xung đột sẽ diễn ra. Nhật Bản sẽ đánh bất ngờ vào Philippines (đang được Mỹ ủng hộ). Giới chức Mỹ sẽ ra lệnh cho Hạm đội Thái Bình Dương bảo vệ các đảo, chống lại Hải quân Hoàng gia Nhật nhưng với số lượng không tương xứng. Chiến lược chống tiếp cận kiểu Nhật là các máy bay chiến đấu được dàn quân phía trước các đảo dọc theo chu vi phòng thủ và tàu ngầm thì được huy động ở các vùng nước liền kề. Các cuộc tấn công trên không và dưới biển sẽ đuổi cổ hạm đội của Mỹ về hướng Tây trước khi xảy ra một trận chiến quyết định ở đâu đó trong các vùng biển của châu Á.
Các tàu ngầm và máy bay chiến thuật trên mặt đất vẫn là một phần của "bộ áo giáp" vũ khí chống tiếp cận. Bổ sung cho chúng là các tàu tuần tra gắn tên lửa hoạt động như đội quân cảnh ngoài khơi; các tên lửa hành trình chống hạm được bắn từ mặt đất; và các tên lửa đạn đạo chống hạm với tầm xa có thể lên tới hơn 900 dặm. Bắc Kinh có thể hy vọng hạm đội mặt đất của Hải quân PLA đối phó với bất kỳ thứ gì còn sót lại của Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ đang ì ạch trên các vùng biển ở Đông Á sau các cuộc công kích liên tiếp từ trên không và dưới mặt nước.
Yếu tố con người
Tuy nhiên, khía cạnh vũ khí hạng nặng trong cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung không thể tách khỏi khía cạnh nhân lực vốn là vô cùng quan trọng. Các loại vũ khí không tự nó giao đấu trong các cuộc chiến tranh. Các nhà tư tưởng chiến lược từ Đại tá John Boyd thuộc lực lượng Không quân Mỹ đến Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông đã nói: chính con người vận hành các vũ khí làm nên việc này. Từng cá nhân và các thể chế lớn mà họ phục vụ đều có thế giới quan và các ý tưởng sâu sắc về việc làm thế nào để đối phó với các vùng biên chiến lược.
Như vậy, sự đấu tranh giữa học thuyết AirSea Battle và chiến lược "chống tiếp cận" liên quan đến việc phát triển các công nghệ mới tinh vi. Một cuộc chiến tranh văn hóa được hình thành giữa hai cường quốc lớn với nhiều khái niệm khác nhau trong quan hệ giữa bộ binh, không quân và hải quân. Một lần nữa, lại là vấn đề các ý tưởng!
Theo nhà sử học về hải quân Julian S. Corbett, các loại vũ khí là "cách thể hiện ra bên ngoài của các tư tưởng chiến thuật và chiến lược được ưa chuộng vào một thời điểm nào đó". Các loại vũ khí hạng nặng mà lực lượng vũ trang của một quốc gia mua sắm cho thấy mức độ giới lãnh đạo chiến lược nước đó nghĩ về chiến tranh, và cách họ có thể bắt đầu cuộc chiến ấy.
Trung Quốc coi các lực lượng có căn cứ trên mặt đất là cốt lõi của lực lượng hải quân và quan điểm này có từ khi ra đời nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Khái niệm bổ trợ này về hải quân là bản chất thứ hai của PLA. Mao Trạch Đông đã nhiều lần đưa ra ba chỉ dẫn ngắn gọn về nền tảng của Hải quân PLA: "bay, lặn, nhanh!". Như vậy, các tư lệnh giả thuyết phòng vệ biển dựa trên việc sử dụng các máy bay tầm ngắn từ căn cứ không quân trên bờ, các tàu ngầm chạy bằng diesel lặn sâu dưới các con sóng, và các tàu tuần tra nhanh được trang bị súng và tên lửa. Đây là hình thức sơ khai của lực lượng chống tiếp cận siêu hiện đại ngày nay.
Trung Quốc thời Mao Trạch Đông đề cao sức mạnh hải quân hơn các hạm đội. Đó là một sự pha trộn của các nền tảng và vũ khí trên đất liền và ở ngoài khơi. Do đó, hải quân vẫn gắn liền với đất liền trong suốt thời Mao Trạch Đông là Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Quan niệm trên hoàn toàn khác với Hải quân Mỹ, vốn duy trì các hạm đội ở các căn cứ ngoài nước ngày từ những ngày đầu lịch sử. Việc huy động lực lượng ra nước ngoài là "ADN" của lực lượng biển của Mỹ. Ngược lại, Trung Quốc không hề huy động tàu chiến ra nước ngoài kể từ triều nhà Minh, thậm chí sau đó, họ cũng chỉ thỉnh thoảng làm việc này. Vì vậy, việc huy động lực lượng chống cướp biển ở ngoài khơi Somalia đánh dấu một bước ngoặt sau nhiều thế kỷ.
Hải quân PLA vẫn đúng với lịch sử thời Mao Trạch Đông ngay cả khi họ xây dựng một hạm đội biển xanh. Bảo vệ bờ biển vẫn là chức năng cốt lõi của lực lượng này, dù họ đã mở rộng đáng kể khu vực phòng thủ của mình.
Nếu Hải quân PLA cần tạo lại văn hóa thể chế của mình để hoạt động ra xa bờ biển Trung Quốc, thì quân đội Mỹ phải đối mặt với một thách thức văn hóa thậm chí còn lớn hơn trong việc hướng Đông tới các thực tế mới.
Quân đội Mỹ thời hậu chiến tranh Lạnh coi sức mạnh hải quân là vũ khí hỗ trợ sức mạnh bộ binh. Hải quân Mỹ phô trương sức mạnh ở ngoài khơi xa, hỗ trợ bộ binh, lực lượng lính thủy đánh bộ và không quân, như trường hợp các đơn vị "chị em một nhà" này theo đuổi các chiến dịch không - bộ phối hợp trong các mối đe dọa như ở Iraq hay Afghanistan.
Không có đối thủ tầm cỡ Hải quân Liên Xô, giới lãnh đạo Hải quân Mỹ đưa ra Julian S. Corbett chỉ dẫn rằng hải quân có thể đảm đương nhiệm vụ điều hành trên biển. Không có tranh cãi gì về ưu thế của lực lượng này. Trên thực tế, điều đó có nghĩa là các năng lực như chiến tranh chống tàu ngầm và đáp trả ngư lôi - các năng lực quan trọng để sống sót và thành công trong việc chống tiếp cận - đã phai mờ sau hai thập kỷ.
Hiện nay, các năng lực này đang tái sinh. Khi thách thức chống tiếp cận trở thành trọng tâm, hải quân đã bắt đầu chạy đua nâng cấp vũ khí và tái huấn luyện các kỹ năng đã bị quên lãng một nửa. Nhiều khả năng, Không quân rơi vào tình cảnh khó khăn hơn.
Bất chấp các cuộc thử nghiệm ban đầu của Billy Mitchell với việc sử dụng không quân để bảo vệ các bờ biển của Mỹ - còn nhớ vụ đánh chìm một chiến hạm từ trên không năm 1920 nổi tiếng của ông - Không quân Mỹ hiện đại không coi chiến đấu trên biển là một trong các mục đích chính.
Đấm bị bông
Nói tóm lại, cường quốc lục địa châu Á có cái nhìn chính thể luận đối với sức mạnh biển, trong khi cường quốc điều khiển các con sóng lại coi sức mạnh biển là sự bổ trợ cho bộ binh. Sự đảo ngược về văn hóa này sẽ có lợi cho những người ủng hộ PLA nếu xảy ra chiến tranh Mỹ - Trung.
Sau cùng, việc chiến đấu ở ngoài khơi là rất quen thuộc đối với họ, trong khi các lãnh đạo Mỹ từ lâu cho rằng họ không còn phải đấu tranh để kiểm soát biển. Các đơn vị phải xóa tan suy nghĩ thâm căn cố đế này. Lợi thế thuộc về Trung Quốc, trừ phi Hải quân và Không quân Mỹ có sự biến chuyển về văn hóa trong thời gian tới, và học cách phối hợp với nhau trên biển.
Tái thành lập các thể chế biển trong thời bình luôn đặt ra một thách thức lớn. Nó sẽ gây ra một số chấn thương - như sự thất bại - đối với những ký ức còn rõ ràng. Phải làm gì đây, kịch bản ngày tận thế chăng?
Trước tiên, Mỹ cần một khái niệm AirSea Battle để kích hoạt các đơn vị hành động và đưa ra định hướng. Sau đó công bố nó. Thứ hai, hải quân và không quân phải bám lấy khái niệm này, buộc mình vào một kho vũ khí chung của chiến tranh trên biển. Và thứ ba, các lãnh đạo đất nước phải có trách nhiệm giải thích với từng đơn vị về kế hoạch này.
Franklin Roosevelt từng so sánh Hải quân Mỹ với một chiếc bị bông. Giới chức dân sự có thể đấm vào đó mạnh nhất có thể, nhưng nó sẽ bật lại đúng như vậy. Một số người e rằng các quan chức Không quân Mỹ cũng như vậy. Washington, hãy đấm đi./.
  • Thông tin tác giả: James Holmes là một giáo sư về chiến lược tại Đại học Chiến tranh Biển.
  • http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/tuanvietnam.vietnamnet.vn/My-chuan-bi-cho-cuoc-chien-voi-Trung-Quoc/9248495.epi