Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Mỹ giăng “phong tỏa trận” này, Trung Quốc sẽ suy sụp, khủng hoảng


Trong bối cảnh nếu nổ ra một cuộc chiến tranh Trung – Mỹ, Mỹ rất có thể sẽ nắm lấy nguồn sức mạnh to lớn nhất của Trung Quốc - mô hình tăng trưởng bùng nổ nền kinh tế hướng về xuất khẩu – để biến nó trở thành yếu huyệt về mặt quân sự.
Cụm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường trực ở châu Á-Thái Bình DươngCụm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường trực ở châu Á-Thái Bình Dương
Thách thức ngày càng gia tăng bởi sự hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc đã dẫn tới việc Mỹ phải xem xét lại các chiến lược quân sự hiện hữu và đề ra những chiến lược mới, được minh họa bằng những cuộc tranh biện vẫn đang diễn ra về học thuyết “Trận chiến không-biển” (AirSea Battle), một chiến lược được đưa ra bởi Bộ Quốc phòng Mỹ. Nhưng trong các chiến lược có tiềm năng, ý tưởng về một cuộc phong tỏa hải quân là đáng xem xét kỹ lưỡng hơn cả.
Bởi bằng việc tiến hành một cuộc phong tỏa về hải quân, Mỹ có thể sẽ lợi dụng được sự phụ thuộc to lớn vào ngoại thương mà đặc biệt là vào dầu mỏ của Trung Quốc để làm suy yếu quốc gia này. Một chiến dịch phong tỏa được tiến hành một cách cẩn trọng có thể sẽ trở thành công cụ quyền lực của quân đội Mỹ giúp Washington vượt qua những thách thức to lớn đề ra từ hệ thống “chống tiếp cận” đáng gờm của Trung Quốc. Một cuộc phong tỏa về quân sự có thể sẽ được kết hợp với những chiến lược quân sự khác một cách dễ dàng, bao gồm cả những chiến lược phát triển dựa trên học thuyết “tác chiến không-biển”.
Chiến đấu cơ trên tàu sân bay Mỹ
Trong bối cảnh nếu nổ ra một cuộc chiến tranh Trung – Mỹ, Mỹ rất có thể sẽ nắm lấy nguồn sức mạnh to lớn nhất của Trung Quốc - mô hình tăng trưởng bùng nổ nền kinh tế hướng về xuất khẩu – để biến nó trở thành yếu huyệt về mặt quân sự. Để đạt được điều đó, Mỹ sẽ tiến hành một cuộc phong tỏa hải quân nhằm gián đoạn phần lớn việc giao thương hàng hải của Trung Quốc. Trong những điều kiện thuân lợi, Mỹ rất có thể sẽ giành được phần thắng nhờ vào việc gây ra những tổn hại đến nền kinh tế Trung Quốc, đủ nghiêm trọng để đưa quốc gia này ngồi vào bàn đàm phán.
Tuy nhiên tính cho đến thời điểm hiện tại thì chiến lược phong tỏa hải quân này gần như đã bị phớt lờ. Có thể là bởi vì những chiến lược chiến tranh kinh tế dường như rất hay bị hiểu sai lệch do những mối ràng buộc thương mại chặt chẽ giữa Mỹ và Trung Quốc. Tuy nhiên nếu thực sự bùng nổ một cuộc xung đột nghiêm trọng giữa hai quốc gia thì ngay sau đó, dù có thực hiện phong tỏa đường biển hay không thì chính những lợi ích an ninh trước mắt sẽ nhanh chóng phá vỡ sự phụ thuộc thương mại lẫn nhau và đồng thời gây ra những thiệt hại kinh tế to lớn cho cả hai bên.
Thâm chí khi chiến lược phong tỏa hải quân không bao giờ được thực hiện thì tính khả thi của nó vẫn sẽ tác động lên các chính sách răn đe của cả Mỹ và Trung Quốc. Chiến lược khu vực của Mỹ dựa trên niềm tin rằng sự cân bằng thuận lợi về mặt quân sự sẽ răn đe được những nỗ lực thay đổi nguyên trạng thông qua vũ lực, vì thế trấn an được các đồng minh và duy trì sự ổn định mang tính chiến lược. Tính khả thi của chiến lược phong tỏa hải quân có tác động đến phép tính này và theo đó ảnh hưởng đến hành động dựa trên những am hiểu về nó của cả Mỹ và Trung Quốc trên cả hai phương diện quân sự và phi quân sự.
Kinh tế Trung Quốc phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu và vận tải đường biển
Nếu phong tỏa hải quân là một chiến lược khả thi thì nó sẽ giúp củng cố hệ thống răn đe và làm suy yếu bất kỳ nỗ lực tiềm tàng nào của Trung Quốc hòng đe dọa Mỹ hay các đồng minh của Mỹ. Hơn nữa, nếu tính khả thi của chiến lược này được vạch ra một cách rõ ràng thì nó sẽ làm gia tăng tính ổn định của cuộc khủng hoảng và làm nhụt chí đối thủ và giảm khả năng gia tăng đánh giá sai lầm của phía bên kia về vấn đề cân bằng quyền lực khu vực. Tóm lại, như Elbridge Colby đã từng nói “có một sự thật phũ phàng luôn đúng, đó là cách tốt nhất để tránh chiến tranh chính là chuẩn bị chiến tranh”.
Trong khi chiến lược phong tỏa hải quân không hẳn là một ưu tiên bất khả thi hay không thích hợp thì nó vẫn thực sự là một công cụ chưa sẵn sàng trong kho vũ khí của Mỹ. Quan trong hơn cả chính là nhiều nhà phê bình đã bỏ qua việc phong tỏa hải quân là chiến lược phụ thuộc vào bối cảnh, một việc phụ thuộc chủ yếu vào môi trường khu vực.
Bối cảnh chiến lược
Mỹ không thể thực hiện một  cuộc phong tỏa qua quýt bởi chính những giá trị tiềm năng đáng kể mà chiến lược này đem tới. Do đó, Washington sẽ chỉ thực hiện một cuộc phong tỏa hải quân trong một cuộc xung đột kéo dài vì những lợi ích sống còn.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn chính là một chiến lược phong tỏa hải quân phụ thuộc vào sự hợp tác của nhiều bên thứ ba trong khu vực. Chung quy, thương mại của Trung Quốc chủ yếu xuất phát từ giao thương đường biển như  là một hệ quả của những cân nhắc về mặt kinh tế chứ không phải là do những giới hạn vật lý. Trong trường hợp bị phong tỏa, Trung Quốc vẫn có thể quay sang tìm kiếm sự giúp đỡ từ các nước láng giềng.
Trong khi nhiều trong số các nước láng giềng của Trung Quốc không thể tạo nên sự khác biệt mang tính chiến lược nào vì vị trị đía lý hiểm trở hay diện tích nhỏ thì vẫn có ba quốc gia vô cùng quan trọng, đó là Ấn Độ, Nhật Bản và Nga. Trong đó hai nước Nhật Bản và Nga có thể là nhân tố quan trọng giúp Mỹ thông qua việc cắt đường giao thương với Trung Quốc ở phía nam và phía đông, tiếp đó, bằng việc thực hiện cấm vận Trung Quốc và tạo áp lực khiến các quốc gia nhỏ láng giềng của Trung Quốc cũng phải hành động tương tự. Không có được sự hợp tác đó của họ, Mỹ thực sự sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức hơn.
Nga có thể sẽ là mấu chốt của một cuộc phong tỏa thành công và cũng có thể đảo ngược thế cân bằng của cuộc phong tỏa nếu chọn đứng về phía Mỹ hay Trung Quốc. Mặt khác, Nga có vị thế đáng chú ý trong việc làm giảm đi những ảnh hưởng phong tỏa đối với Trung Quốc. Thương mại của Nga có thể chống lại được sự cấm vận của Mỹ nhờ vào kho vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí thông thường mạnh có thể loại trừ bất kỳ nỗ lực nào của Mỹ trong việc tạo ra sức ép quân sự.
Mặt khác, quốc gia phía bắc Trung Quốc có thể nghe được hồi chuông báo tử cho những nỗ lực của Trung Quốc trong việc chống lại cuộc phong tỏa hải quân. Ở cấp độ chính trị, Moscow tiếp tục có ảnh hưởng lên những quyết định được đưa ra bởi các nước Trung Á láng giềng của Trung Quốc và đồng thời cũng có thể thuyết phục họ từ chối lời khẩn nài của Trung Quốc trợ giúp như các quốc gia quá cảnh. Điều đó cũng có thể bảo đảm rằng hai nước sản xuất dầu mỏ là láng giềng của Trung Quốc cũng sẽ sớm ngừng cung cấp xăng dầu cho Trung Quốc.
Hải quân Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ tập trận chung trên biển
Mỹ dự định vận hành cùng lúc hai cụm tác chiến tàu sân bay tại châu Á-Thái Bình Dương
Theo đó, để chuẩn bị cho việc tiến hành phong tỏa hải quân đạt được hiệu quả, Mỹ sẽ nỗ lực xây dựng một “liên minh tối thiểu” với Ấn Độ, Nhật Bản và Nga. Nếu cả ba quốc gia này đồng thuận có sự đồng thuận chung với cuộc phong tỏa hải quân của Mỹ thì Trung Quốc sẽ bị đẩy vào thế gọng kìm cả về kinh tế lẫn chính trị. Nếu không, cuộc phong tỏa hải quân sẽ tái tổ chức lại trật tự cuộc chiến tranh Trung – Mỹ theo hướng bất lợi đối với Mỹ.
Một liên minh tối thiểu như vậy chỉ có thể phát triển theo duy nhất một con đường: Việc Trung Quốc thúc đẩy bá quyền khu vực sẽ gắn kết các các quốc gia trong khu vực ủng hộ cho một phản ứng quyết liệt từ phía Mỹ. Đối với một nước Trung Quốc hung hăng thì hành động cấm vận tập thể sẽ khó xảy ra bởi những hệ quả tiềm tàng của một cuộc phong tỏa, có thể là sẽ tạo ra một cuộc xung đột lớn hơn với Trung Quốc. Bốn quốc gia (Mỹ, Nhật, Nga, Ấn) sẽ không kết hợp lại với nhau xung quanh một chính sách ngăn chặn ngầm cho đến khi mỗi nước cảm thấy rằng lợi ích quốc gia của nước mình bị đe dọa bởi Trung Quốc trong tương lai.
Trong khi khả năng này có thể còn xa ở thời điểm hiện tại, Mỹ, Nhật, Ấn Độ và Nga đều lo sợ rằng có thể một ngày nào đó Trung Quốc sẽ đi đến kết luận rằng nước này phải sử dụng vũ lực để bảo vệ lợi ích của mình và để giải quyết thế lưỡng nan về mặt an ninh. Cả bốn cường quốc đều tránh đề cập thẳng tới khả năng này. Nếu sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc ở châu Á tiếp tục gia tăng, thì những ràng buộc giữa các nước sẽ được củng cố không ngoài việc tin vào những ý đồ hiếu chiến của Trung Quốc, mà còn bởi tình thế rất bấp bênh đối với vị thế tương lai của họ. 

Giá trị thực sự của một cuộc phong tỏa nằm ở khả năng gây thiệt hại nặng nề đến mức không thể tưởng tượng nổi với Trung Quốc. Nhất là một cuộc phong tỏa còn có thể khiến nền kinh tế Trung Quốc rơi vào vòng xoáy khủng hoảng bằng việc đánh vào ba yếu huyệt đặc biệt...

Chiến đấu cơ xuất kích từ tàu sân bay MỹChiến đấu cơ xuất kích từ tàu sân bay Mỹ
Phong tỏa cự ly gần và phong tỏa khoảng cách xa
Kể cả khi giả định rằng Mỹ có thể tập hợp một liên minh cần thiết, nước này cũng vẫn phải đối mặt với thách thức trong quá trình vận hành làm điêu đứng mọi chiến lược phong tỏa hiện đại nhất.
Các cuộc phong tỏa thường được đặc trưng bởi khoảng cách từ bờ biển của quốc gia bị phong tỏa và tồn tại dưới hai hình thức: gần và xa. Một cuộc phong tỏa ở cự ly gần thường được thực hiện bằng cách đóng trú một hàng rào tàu chiến quanh bờ biển của nước bị phong tỏa để tìm kiếm mọi con tàu chở hàng đến và đi, bắt giữ, tịch thu hàng hóa của những kẻ luôn lậu.
Tuy nhiên, hơn 150 năm trôi qua, các cuộc phong tỏa gần ngày càng trở nên nguy hiểm hơn vì các bên tham chiến đã phát triển công nghệ để triển khai sức mạnh từ bờ biển của nước mình. Để đáp lại, các nước thực hiện phong tỏa đã chuyển sang phong tỏa ở khoảng cách xa. Một cuộc phong tỏa ở khoảng cách xa có thể tránh được những nguy cơ quân sự của việc ở gần bờ biển của kẻ thù bằng cách đóng quân ở cự ly xa, mặc dù vẫn chốt chặn được các tuyến đường biển của đối phương, và sau đó triệt tiêu thương mại của đối phương theo cách tương tự như phong tỏa gần.
Sẽ chằng có chiến lược phong tỏa ở cự ly gần hay khoảng cách xa với Trung Quốc có thể thành công riêng rẽ, nhờ vào sự áp đặt về quân sự và thương mại hàng hải. Mặt khác, một cuộc phong tỏa gần theo cách thông thường sẽ phức tạp vì mong muốn của Mỹ trong việc giảm thiểu nguy cơ quân sự đối với tàu chiến của Mỹ. Khi các lực lượng Mỹ tiến sát bờ biển Trung Quốc hơn, họ sẽ phải hiện diện nhiều hơn  trong khu vực chống tiếp cận, có nguy cơ hạn chế sự tự do hoạt động của họ và dẫn đến những thiệt hại nặng nề.
Các lực lượng Mỹ có thể tránh những nguy hiểm từ hệ thống chống tiếp cận của Trung Quốc bằng cách tiến hành một cuộc phong tỏa gần bằng tàu ngầm, lực lượng không quân tầm xa và thủy lôi; nhưng với việc hành động như vậy, cuộc phong tỏa cũng sẽ mất đi khả năng phân biệt giữa hoạt động thương mại của các bên trung lập và hoạt động thương mại của kẻ thù.
Chiến đấu cơ F-35 cất cánh từ tàu sân bay Mỹ
Hải quân Mỹ và Nhật Bản tập trận chung trên biển
Mặt khác, tính hợp lí của cuộc phong tỏa cự ly xa cũng xói mòn bởi những nhu cầu cấp bách của thương mại hiện đại. Hàng hóa và nguyên liệu thô ngày nay có thể được bán đi bán lại nhiều lần trong một chuyến vận chuyển, do đó quyền sở hữu cuối cùng và điểm đến của một tàu chở hàng thường không biết trước được cho đến khi cập cảng. Cho dù Mỹ có khả năng tiến hành một cuộc phong tỏa cự ly xa để kiểm định tất cả các tàu thuộc sở hữu của Trung Quốc hoặc được treo cờ Trung Quốc, Trung Quốc vẫn có thể mua tàu của chở hàng của các bên trung lập sau khi họ đi qua vùng bị phong tỏa, làm đổ bể hoàn toàn mục đích của việc phong tỏa.
Giải pháp: Một cuộc phong tỏa hai vòng vây
Để khắc phục những nhược điểm của mỗi chiến lược phong tỏa, Mỹ sẽ khai thác những điểm lợi thế nhất của cả hai phương án và tiến hành một cuộc phong tỏa hai vòng vây tạo thành hai vòng vây đồng tâm xung quanh bờ biển của Trung Quốc. Trọng tâm của cuộc phong tỏa này sẽ nằm ở vòng bên trong, đó sẽ là cuộc phong tỏa gần không theo cách thông thường, chủ yếu nhằm vào những tàu của các bên trung lập đến Trung Quốc mà không phải lên tàu kiểm tra trước.
Vòng vây này sẽ thiết lập một khu vực loại trừ quanh vùng biển của Trung Quốc - một khu vực được tuyên bố hạn chế đối với các tàu thương mại, và được thực thi bởi chính sách “chìm ngay trước mắt” thông qua việc sử dụng những tàu ngầm tấn công, lực lượng không quân tầm xa và thủy lôi. Không giống những thiết bị quân sự khác, ba loại vũ khí này có thể hoạt động mà không bị thiệt hại đáng kể trong khu vực chống tiếp cận của Trung Quốc thông qua việc lợi dụng năng lực tác chiến chống ngầm còn hạn chế của Trung Quốc và các lực lượng đối phó với thủy lôi còn quá yếu của nước này.
Trong khi cuộc chạy đua thiết bị quân sự này sẽ không đảm bảo cho việc hoàn toàn không bị tổn thương, khu vực loại trừ vẫn có thể đạt được mục đích của cuộc phong tỏa bởi điểm tựa của chiến dịch này nằm ở tính răn đe hơn là thực tế. Ngay khi các lực lượng Mỹ nhấn chìm một vài tàu chở hàng lớn, phần lớn các tàu vận chuyển khác sẽ ngừng việc cố đi qua vùng bị phong tỏa và phần lớn luồng lưu chuyển thương mại hàng hải của Trung Quốc sẽ nhanh chóng cạn kiệt.
Nhưng trong khi tàu ngầm, máy bay chiến đấu từ xa và thủy lôi có thể thực thi một cách hiệu quả khu vực loại trừ như một phần của vòng vây bên trong, chúng cũng là những công cụ không hữu dụng vì  không thể phân biệt được tàu chở hàng của Trung Quốc và tàu chở hàng của Nhật Bản, không ngăn chặn, lên kiểm tra và truy lùng được những tàu đáng ngờ. Kết quả là vòng vây bên trong này có khả năng sẽ gây ra những vấn đề chính trị nghiêm trọng như việc Mỹ vô tình phá hoại tàu của các bên trung lập và Mỹ có thể phải đối mặt với những hệ quả chính trị nặng nề hơn từ việc khu vực loại trừ không cho phép các tàu chở thiết bị y tế và những nhu yếu phẩm cần thiết đến Trung Quốc.
Để chống lại những rủi ro này, Mỹ sẽ phải thực hiện vòng kiềm tỏa thứ hai “vòng bên ngoài”. Nó sẽ cho phép chọn lọc hơn trong việc áp dụng vũ lực trong khi cũng vẫn chỉ là một thiết bị sàng lọc. Đối lập với vòng bên trong, vòng bên ngoài sẽ bao gồm một lượng lớn các tàu chiến tập trung vào việc phân biệt giữa các hoạt động thương mại khu vực với độ chính xác cao hơn và vòng này sẽ không gây sát thương như vòng phong tỏa bên trong. Cho dù vòng bên ngoài sẽ đóng góp rất nhiều vào sự thành công của cuộc phong tỏa, nó không phải là điều kiện tiên quyết cho sự thành công này, nhưng nó vẫn hết sức quan trọng trong việc đảm bảo tính khả thi của chiến lược.
Vòng kiềm tỏa bên ngoài sẽ được bố trí ở vùng ngoại vi của các biển gần Trung Quốc, bên ngoài khu vực chống tiếp cận và sẽ tập trung vào các lối đi chính trong khu vực Đông và Đông Nam Á, bao gồm cả eo biển Malacca. Mỹ sẽ thiết lập các trạm kiểm soát ở những lối đi này, tương tự như ở Malacca, những tuyến đường quan trọng với vận tải quốc tế, trong khi các tuyến đường nhỏ hơn sẽ bị đóng cửa hoàn toàn.
Ở những trạm kiểm soát vòng ngoài này, Mỹ cần phải thiết lập và sắp xếp một chế độ kiểm tra nghiêm ngặt. Nếu Mỹ phát hiện ra một tàu nào đó đi đến, hoặc được sở hữu, hoặc được đăng kí tại Trung Quốc thì sẽ tịch thu ngay lập tức.
Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo lớp Ohio của Mỹ
Máy bay trinh sát, săn ngầm P-8 Poseidon của Mỹ thường xuyên hoạt động ở Biển Đông
Mỹ cũng phải thực thi một hệ thống tương tự như hệ thống Navicert (giấy cấp phép cho các thuyền bè chở hàng hóa trung lập, thường được sử dụng trong chiến tranh, bởi nước tiến hành phong tỏa) của Anh trong thế chiến thứ hai, có thể cung cấp cho Mỹ một bản đồ khá chính xác về vị trí của tất cả các tàu thương mại trong khu vực. Mỹ cũng sẽ phải kết hợp bản đồ không gian Navicert với hỏa lực của vòng kiểm tỏa bên trong để sử dụng sức mạnh sát thương chống lại quốc gia bị phong tỏa trong khi vẫn giảm tỉ lệ vô ý đánh chìm các thuyền đặc biệt là những tàu cứu trợ nhân đạo.
Tuy nhiên, nếu tiến trình thực hiện không tốt, hệ thống navicert sẽ làm tăng nguy cơ chệch hướng cho tàu vào nơi mà việc thực thi lệnh phong tỏa nguy hiểm đến mức nó không thể chịu được, trừ những tàu muốn mạo hiểm nhất. Quan trọng hơn, cho dù nó sẽ giúp xoa dịu những hệ quả chính trị từ việc không nhận diện được và gây sát thương của vòng kiềm tỏa bên trong.
Những hệ quả của một cuộc phong tỏa
Cho dù những hệ quả của một cuộc phong tỏa là cực kỳ phức tạp, đa dạng và phụ thuộc lẫn nhau, thì phong tỏa vẫn có khả năng là một công cụ vắt kiệt sức lực như một phần trong chiến dịch tổng thể của Mỹ.
Tuy nhiên ngay từ đầu, cần nhận ra rằng kể cả một cuộc phong tỏa hiệu quả nhất sẽ không ngăn chặn thương mại của Trung Quốc được một cách hoàn toàn, bởi vì kể cả với những điều kiện lý tưởng nhất, Trung Quốc vẫn có thể yêu cầu những vật phẩm thiết yếu và nguồn lực quan trọng của luật cung cầu. Mỹ càng thiết lập lệnh cấm vận khu vực một cách hiệu quả thì lợi nhuận của việc xuất khẩu sang Trung Quốc càng cao. Kể cả nếu tất cả các nước láng giềng của Trung Quốc đều chấp thuận lệnh cấm vận thì Mỹ cũng vẫn bó tay trước buôn lậu qua đường tiểu ngạch.
Một cuộc phong tỏa không thể trực tiếp làm suy yếu quân đội Trung Quốc. Bắc Kinh chỉ cần sử dụng nguồn dự trữ cùng với việc nhập khẩu một cách hạn chế và tự sản xuất trong nước cũng đã có thể nuôi quân đội của mình trong một cuộc xung đột kéo dài.
Bởi vậy, giá trị thực sự của một cuộc phong tỏa nằm ở khả năng gây thiệt hại nặng nề đến mức không thể tưởng tượng nổi với Trung Quốc. Đặc biệt, một cuộc phong tỏa còn có thể khiến nền kinh tế Trung Quốc rơi vào vòng xoáy khủng hoảng bằng việc đánh vào ba yếu huyệt đặc biệt: sự phụ thuộc kép của Trung Quốc về cả nhập khẩu nguyên lệu thô và nguyên liệu trung gian cùng với trình độ đổi mới kém. Trung Quốc cũng cơ cấu nền kinh tế thiên về xuất khẩu xung quanh việc xuất khẩu các thành phẩm trung gian, một hiện tượng đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực công nghệ cao của nước này. Sự tổn thương trên càng nghiêm trọng hơn bởi sự phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu thô (bao gồm dầu mỏ) và những đổi mới từ nước ngoài để làm cơ sở của quá trình sản xuất trong nước.
Cụm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường trực tại Biển Đông thời gian gần đây, gửi thông điệp không thể nhầm lẫn tới Trung Quốc
Bởi thế, một cuộc phong tỏa nhằm vào cả ba lĩnh vực này sẽ khiến Trung Quốc phải trả một cái giá rất đắt. Tất nhiên, Trung Quốc có thể tìm ra cách để thay thế cho sự bất lực thương mại và nước này sẽ tái xây dựng nền kinh tế từ mặt đất, nhưng một cuộc xung đột tiếp diễn ra có thể sẽ tàn phá và làm kiệt quệ nền kinh tế Trung Quốc vượt quá khả năng bù đắp của Bắc Kinh.
Gây suy kiệt, buộc khuất phục
Bối cảnh, cách tiến hành và hệ quả của cuộc phong tỏa mà Mỹ tiến hành với Trung Quốc sẽ làm lún sâu vũng lầy của nền chính trị toàn cầu. Để vượt qua những thách thức của cuộc phong tỏa này, Mỹ và đồng minh sẽ phải cân bằng những hệ quả chiến lược của tác động phong tỏa với sự đóng góp vào hiệu quả tổng thể của chiến lược phong tỏa. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, sự đánh đổi này cũng sẽ rất khó khăn về mặt chính trị và sẽ yêu cầu mức độ linh hoạt cao và sự đổi mới từ phía Mỹ. Sự đánh đổi chính xác sẽ được cân nhắc kỹ lưỡng, trên tất cả những giá trị lợi ích Mỹ liên quan đến cuộc xung đột.
Tuy nhiên, cho dù có những thử thách đáng kể như vậy, một cuộc phong tỏa hàng hải vẫn có tiềm năng cả về chiến lược lẫn thực thi, cho dù chỉ trong những giới hạn nhất định. Kể cả khi đối đầu với một cuộc phong tỏa cực kỳ hiệu quả, Trung Quốc vẫn có thể đáp ứng những nhu cầu quân sự một cách vô giới hạn, và nước này cũng có thể sống sót với kho dự trữ dầu chiến lược và lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ trong một thời gian dài. Kết quả là, tính hiệu quả của cuộc phong tỏa sẽ phụ thuộc vào khả năng tạo ra những phi tổn nghiêm trọng làm suy yếu nền kinh tế Trung Quốc.
Nếu Mỹ đủ khả năng để tập hợp một liên minh tối thiểu gồm Ấn Độ, Nhật và Nga. Việc này sẽ xoay quanh thái độ hung hăng của Trung Quốc, sau đó sự suy kiệt kinh tế thậm chí sẽ còn trầm trọng hơn khi Mỹ tập hợp được sự ủng hộ chính trị cần thiết để tiến hành chiến lược phong tỏa vô thời hạn. Trong bối cảnh đó, trong khi Mỹ không thể lợi dụng sự phụ thuộc vào thương mại hàng hải của Trung Quốc để đánh bại nước này ngay lập tức, Mỹ vẫn có thể làm tiêu hao sinh lực của Trung Quốc cho đến khi nước này phải quy phục.
* Bài viết của chuyên gia Sean Mirski là đồng tác giả của phân tích “Vấn đề nan giải ở châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ và trật tự toàn cầu mới”
http://viettimes.vn/dia-chinh-tri/my-giang-phong-toa-tran-nay-trung-quoc-se-suy-sup-khung-hoang-69012.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét