Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

Nhật Bản dàn trận Samurai đả bại 'rồng' Trung Hoa

Sau khi bại trận trong đại chiến thế giới lần thứ II, Tokyo đã mất hầu hết những vùng lãnh thổ mà đế quốc Nhật Bản chiếm được vào tay quân đội Mỹ, vào những năm 1970-x nước Mỹ đã trao trả lại cho Nhật Bản đảo Okinawa cùng với quần đảo Senkaku.
Chuyên gia nghiên cứu cao cấp của Viện Nghiên cứu phương Đông thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga, Tiến sĩ Khoa học Chính trị, Giáo sư Đại học Takushoku (Tokyo) Basil Molodyakov cũng có nhận xét Chính phủ Nhật Bản mua lại những hòn đảo đó từ tay các tư nhân không đơn thuần chỉ về tình thần dân tộc, mà còn là những lợi ích kinh tế của thềm lục địa quanh đảo.
Đế chế mặt trời: Quá khứ và ước vọng
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư - tâm điểm căng thẳng Trung - Nhật thời gian gần đây
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư - tâm điểm căng thẳng Trung - Nhật thời gian gần đây.
Một chuyên viên nghiên cứu cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản thuộc Viện Nghiên cứu Viễn Đông Viktor Pavlyatenko cũng cho rằng: Tiềm năng kinh tế của khu vực quần đảo Senkaku hiện chưa được đánh giá hết. Phần thềm lục địa gắn liền với nó, có thể, có những mỏ khí gas và dầu thô. Từ đó có thể nhận thấy rằng, quần đảo Senkaku cũng có những giá trị kinh tế nhất định.
Trên vị thế địa chính trị, những năm vừa qua Nhật Bản đóng vai trò của một cường quốc kinh tế, mở rộng đầu tư ra các châu lục, chiếm lĩnh và mang lại sự nổi tiếng cho những sản phẩm mang bản sắc của người Nhật. Nhưng Nhật Bản vẫn là một nước mạnh về sản xuất và chế tạo, tiếng nói và vị thế của Nhật Bản trong khu vực đơn thuần chỉ nẳm ở khả năng đầu tư sản xuất và phát triển thương mại. Một vị thế mạnh mẽ có ảnh hưởng đến tình hình chính trị trên thế giới và trong khu vực là thứ Nhật Bản khao khát vẫn chưa đạt được và đương nhiên do đó quyền lợi to lớn vẫn nằm ngoài tầm tay. Nhật Bản sẽ khó mà bảo vệ được lợi ích của mình ở ngoài lãnh thổ nếu thực tế tham gia khai thác tài nguyên khoáng sản trên thềm lục địa nước ngoài, cùng gánh vác những khoản đầu tư lớn vào các nước chậm phát triển hoặc hợp tác trong các lính vực quốc phòng – an ninh.
Sự kiện Senkaku đã đưa đến cho Nhật Bản một điều kiện tối ưu cho sự phát triển của mình, giấc mơ Đại động Á trước đây sẽ quay trở lại với những thị trường rộng lớn nhất mà Nhật Bản có thể phát triển được trong lĩnh vực năng lượng, khoáng sản, vũ khí trang bị quốc phòng, truyền thông viễn thám…những lĩnh vực nhạy cảm về địa chính trị mà Mỹ, Nga và Trung Quốc đang làm mưa làm gió, còn Nhật Bản vẫn đứng vị trí nhà thầu thứ cấp.
Muốn làm được như vậy, Nhật Bản cần có sức mạnh. Về vấn đề công nghệ và năng lực sản xuất, Nhật Bản vượt xa cả Trung Quốc. Nhân công đã có các nước chậm phát triển, kinh tế tài chính Nhật Bản đứng hàng thứ 3. Nhưng sức mạnh quân sự - khả năng giải quyết các vấn đề địa chính trị vẫn bị hạn chế bởi Hiến Pháp. Nhật Bản cần nâng cao sức mạnh quân sự, cần có khả năng cân bằng lực lượng với Trung Quốc, ít nhất là trên phương diện vũ khí thông thường. Và đây là điều kiện tối ưu nhất mà Nhật Bản phải có được.
Tàu hải giám Trung Quốc liên tục xâm phạm vùng biển khu vực Senkaku do Nhật quản lý khiến Nhật phải gồng mình đối phó (ảnh: Tàu tuần duyên Nhật tuần tra tại vùng biển tranh chấp)
Tàu hải giám Trung Quốc liên tục xâm phạm vùng biển khu vực Senkaku do Nhật quản lý khiến Nhật phải gồng mình đối phó (ảnh: Tàu tuần duyên Nhật tuần tra tại vùng biển tranh chấp).
Cuộc chiến Senkaku/Điếu Ngư (nếu có thể xảy ra) đối với Nhật Bản không đơn thuần là cuộc tranh chấp lãnh thổ, đây có thể là cuộc chiến dành vị thế địa chính trị trên toàn thế giới. Cuộc chiến Senkaku là chìa khóa để mở ra cánh cửa đến với quá khứ - tương lai. Một cường quốc Biển hùng mạnh với tiềm lực kinh tế quân sự ngang tầm thế giới. Tương tự như tham vọng của Trung Quốc, Nhật Bản sẽ quay lại với khối Đại Đông Á của đế chế mặt trời.
Con rồng trong vũng nước nhỏ
Trong giai đoạn trước năm 1979, Trung Quốc là cường quốc thứ 2 trong hệ thống các nước XHCN và rất tích cực tham gia vào những hoạt động quốc tế, giúp đỡ các nước trong hệ thống thuộc địa của các cường quốc phương Tây trong cuộc đấu tranh dành độc lập dân tộc. Nhưng trong những hoạt động mang tính quốc tế vô sản, chủ nghĩa dân tộc đại lục vẫn ẩn khuất trong những chính sách khác nhau – Trung Quốc vẫn lồng ghép tham vọng trở thành một cường quốc hùng mạnh, có khả năng dẫn dắt các nước nhỏ hơn về dân số và tiềm lực kinh tế đi theo chính sách đối ngoại của riêng mình.
Năm 1979 đánh dấu một thảm họa trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc với xung đột biên giới với Việt Nam. Người Trung Quốc nhanh chóng hiểu ra rằng, họ không thế có vị thế cường quốc ở châu Á nếu không có một nền kinh tế hùng mạnh và sức mạnh quân sự. Những cuộc xung đột biên giới và chiến tranh khu vực Châu Á - Thái Bình Dương không đem lại cho Trung Quốc những lợi ích cần thiết. Trung Quốc đã nhìn thấy sức mạnh của Mỹ bắt nguồn từ đại dương và con rồng đại lục tỉnh ngộ một điều. Muốn trở thành một quốc gia hùng mạnh, chi phối được thế giới, Trung Quốc cần có một lực lượng quân sự rất mạnh, ngang tầm sức mạnh quân sự của hai siêu cường Mỹ - Nga, và sức mạnh quân sự đó đòi hỏi một tiềm lực kinh tế khổng lồ.
Theo kinh nghiệm phát triển kinh tế Nhật Bản, người Trung Quốc hướng đến một nền công nghiệp toàn cầu với các sản phẩm giá rẻ, với sức sản xuất của hàng trăm triệu người, Trung Quốc đã mở rộng các thị trường tiêu thụ sản phẩm ra toàn cầu bằng tất cả những phương pháp kinh doanh cả đen lẫn trắng. Và tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như năng lực sản xuất và giá thành sản phẩm của Trung Quốc đạt ở mức đáng kinh ngạc. Đến năm 2010 Trung Quốc chính thức trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới, tính cả năm 2010, tổng GDP của Trung Quốc đạt 5,88 nghìn tỷ USD vào tháng 1/2011. Đến tháng 1/2013 theo thống kê, Trung Quốc đạt tổng GDP là 8,39 nghìn tỷ USD. Mức độ tăng trưởng trong năm 2012 là 7,8%.
Để đạt được mức tăng trưởng đó, ngoài những vấn đề khác, một vấn đề vô cùng quan trọng đối với Trung Quốc, đó là nhiên liệu, mỗi ngày Trung Quốc nhập khẩu khoảng 5.6 triệu thùng, chiếm 40% lượng dầu tiêu thụ trong nước. Và dầu thô đã trở thành sự sống còn của nền kinh tế Trung Quốc.
Năm 2009, Trung Quốc nhân kỷ niệm 60 năm ngày thành lập nước, đã công khai trước thế giới một tầm vóc khổng lồ về quân sự của một siêu cường với 52 chủng loại vũ khí hiện đại, 90% trong số đó chưa hề xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Với những phương tiện chiến tranh mới, số lượng vô cùng lớn và một lực lượng thường trực chiến đấu khổng lồ, Trung Quốc dường như cho rằng đã đến lúc không cần phải ẩn mình, thực hiện chính sách đối ngoại của một siêu cường.
Trung Quốc khoe dàn tên lửa DF-31 trong lễ diễu binh ở Thiên An Môn
Trung Quốc khoe dàn tên lửa DF-31 trong lễ diễu binh ở Thiên An Môn.
Hiểu rất rõ vấn đề: Vũ khí hạt nhân trên thực tế chỉ là công cụ kiềm chế lẫn nhau, tương tự như giấc mơ Mỹ, giấc mơ Trung Hoa phải được thực hiện trên sóng nước đại dương bằng những hạm tàu. Chính sách kinh tế - địa chính trị của Trung Quốc nhằm vào mục đích vươn tới biển lớn, chia sẻ quyền lực với Mỹ trên Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, nơi con đường huyết mạch vận tải thương mại của Trung Quốc, đến những vùng đất châu Phi màu mỡ mà Trung Quốc muốn dừng chân cắm trại, đến những thềm lục địa của khu vực Biển Đông mà theo tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) từng ước tính khu vực này nắm giữ khoảng 125 tỷ thùng dầu và 500 nghìn tỷ m3 và biển Hoa Đông có tới 160 tỷ thùng dầu.
Thực hiện giấc mơ thống trị Biển Đông, quản lý Hoa Đông và khai thác tài nguyên biển phục vụ cho sự phát triển của hơn 1.36 tỷ người. Trung Quốc với chiến lược phòng thủ ngoài khơi xa, dự kiến sẽ hất lực lượng Hải quân Mỹ, đồng thời là ảnh hưởng của Mỹ ra khỏi vùng Hoa Đông, Biển Đông đến tận Guam. Chiến lược phòng thủ từ xa đặt ra mới 3 mục đích rõ ràng:
1- Giải quyết vấn đề thu phục Đài Loan theo nguyên tắc cũ đã áp dụng với Hongkong và Macao: Một nước 2 chế độ, bất chiến tự nhiên thành.
2- Xây dựng hệ thống vành đai phòng ngự tính từ bờ biển Trung Quốc ra đến 1000 hải lý, tuyến phùng ngự thứ nhất tính từ đảo Senkaku/Điếu Ngư, Nhật Bản đến sát Indonesia nhằm quản lý toàn bộ Biển Đông, tuyến phòng ngự cuối cùng là vành đai chớm đến đảo Guam của Mỹ. Từ đó có thể chia xẻ ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương mà Mỹ đang coi như sân nhà.
3- Thực hiện chính sách ngoại giao nước lớn đối với các nước trong vùng nước Biển Đông, đẩy lui ảnh hưởng và sự hiện diện của Mỹ ra khỏi vùng biển này, từ đó có thể quản lý và tác động trực tiếp vào chính sách của khối ASEAN.
Những mục tiêu chiến lược có thể đạt được của Trung Quốc sẽ là một cơ hội lớn cho con rồng khổng lồ đại lục vùng vẫy ở biển khơi. Khối ASEAN với 4,46 triệu km², là 3% tổng diện tích đất của trái đất, dân số khoảng 600 triệu người, 8,8% dân số thế giới sẽ là thị trường tiêu thụ sản phẩm của Trung Quốc, bao gồm cả vũ khí trang bị quốc phòng, chỉ riêng hợp tác khai thác dầu và khí đốt trên vùng biển Đông, Trung Quốc có thể đảm bảo đến 85% nhu cầu tiêu thụ của mình. Với sức mạnh khổng lồ như vậy, Trung Quốc sẽ nhanh chóng vượt qua Nhật Bản, Ấn Độ, tạo thành sức ép nặng nề buộc Nga phải chia sẻ hoặc làm ngơ trước những tham vọng của Trung Quốc đối với các nước thuộc Liên Xô (cũ).
Không phải là một nước có uy lực mạnh mẽ như Mỹ, vốn là quốc gia đã chiến thắng trên biển Thái Bình Dương trong đại chiến thế giới lần thứ II, cùng không phải là cường quốc quân sự như Nga, từng thi hành hàng loạt những chính sách đối ngoại gây tranh cãi trong suốt giai đoạn từ 1950 đến 1980. Trung Quốc gặp khó khăn trong việc lôi kéo các nước đi theo con đường phát triển kinh tế - đối ngoại chính trị của mình. Sự phát triển nóng của nền kinh tế giá rẻ, những nỗ lực sao chép công nghệ và phát triển công nghiệp đã khiến tình hình kinh tế chính trị trong nước gặp nhiều vấn đề phức tạp: Tham nhũng, hố sâu ngăn cách giàu nghèo, xung đột quyền lực và bất đồng chính kiến, cùng với những vấn đề phức tạp nảy sinh trong công nghệ, tốc độ sản xuất và chất lượng sản phẩm, giá thành, môi trường bị tàn phá nặng nề … là những vấn đề rất nan giải, tạo thành những đợt sóng ngầm chống phá. Để duy trì tình hình ổn định trong nước, Trung Quốc bắt buộc phải có đối sách chuyển sức ép ra bên ngoài nhằm định hướng dư luận và thực hiện định hướng chiến lược đề ra.
Tỏ ra nóng vội, bỏ qua chính sách 'thao quang dưỡng hối' của Đặng Tiểu Bình, Bắc Kinh đã lựa chọn một chính sách – chuyển từ tranh chấp đàm phán sang tranh chấp thực tế, kết hợp sức mạnh cứng (vũ khí trang bị) với sức mạnh “mềm” – áp lực từ trừng phạt kinh tế, gây bất ổn chính trị khu vực và thực hiện chiến thuật dành ưu thế theo cách truyền thống: Trường kỳ - Lực lượng vượt trội (biển người).
Nổi sóng Biển Đông – Hoa Đông
Chiến lược Biển Đông và Biển Hoa Đông là một thành phần quan trọng trong chiến lược đại dương nói chung của Trung Quốc bao hàm những nội dung:
1- Đẩy lùi sự hiển diện của Mỹ trên khu vực đã nêu, đồng thời cũng đẩy lùi ảnh hưởng của Mỹ đối với các nước trong khu vực, đặc biệt là Hiệp hội ASEAN. Tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Quốc lôi kéo Đài Loan vào vòng ảnh hưởng (đã từng có những thảo luận về việc quân đội Trung Quốc và Đài Loan hợp nhất để giải quyết vấn đề Biển Đông).
2- Biến từ không thành có, từ những văn bản, bản đồ được sinh ra ở Bắc Kinh, bằng thủ pháp tuyên truyền kiểu 'cả vú lấp miệng em' với các áp lực về kinh tế, chính trị. Từng bước biến nhưng tài liệu không có thực thành truyền bá rộng rãi và được coi như đã mặc nhiên công nhận. “Lập trường của chúng tôi đối với các biển Hoa Đông Trung Hoa và Biển Đông là chúng thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Đó là lập trường rất rõ ràng”. Trung tướng Thích Kiến Quốc, phó tổng tham mưu trưởng Giải phóng quân Trung Quốc tuyên bố tại diễn đàn Shangri-La vừa qua.
3- Sử dụng ngoại giao pháo hạm trên biển Đông, Hoa Đông với mục đích ban đầu là gây xung đột ở mức va chạm với các lực lượng quân sự các nước có tranh chấp. Gây căng thẳng thường xuyên nhằm phá hoại các hoạt động kinh tế, gây bức xúc và phức tạp trong nội bộ chính trị của các nước. Song hành cùng với hoạt động gây xung đột thường xuyên trên biển và thị uy lực lượng, đe dọa sử dụng vũ lực và sẵn sàng sử dụng vũ lực trong điều kiện có thể nhằm thực tế hóa sự hiện diện lực lượng quân sự cũng như các ngành khác như ngư nghiệp, thăm dò khai thác tài nguyên biển như một minh chứng cho “chủ quyền không tranh cãi” “lợi ích cốt lõi” của Trung Quốc như thường tuyên bố.
Trung Quốc áp dụng chính sách ngoại giao pháo hạm, gây căng thẳng trển biển với hầu khắp các nước láng giềng
Trung Quốc áp dụng chính sách ngoại giao pháo hạm, gây căng thẳng trển biển với hầu khắp các nước láng giềng.
4- Ngoại giao song phương nước lớn; bằng áp lực quân sự, các thủ đoạn cấm vận hoặc phá hoại kinh tế (đơn phương cấm đánh bắt – thăm dò tài nguyên….) những biện pháp can thiệp nội bộ, vận động hành lang nhằm tìm kiếm một sự thỏa hiệp ngầm minh chứng cho sự hiển diện – đồng nghĩa với công nhận “chủ quyền” song hành cùng những điều kiện kinh tế, mà kết quả của nó sẽ là bàn đạp cho các hành động xâm lăng tiếp theo.
5- Sẵn sàng sử dụng vũ lực đánh chiếm các đảo hoặc quần đảo trong điều kiện có lợi nhất, thời gian nhanh nhất (một trong những hành vi thường thấy) và tăng cường tranh cãi, chống lại Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, tạo ra một sự đã rồi để thôn tính vùng thềm lục địa.
Kịch bản chiến tranh Trung -Nhật
Thực hiện chiến lược Hoa Đông – Biển Đông trong tình hình quốc tế hiện nay đang trở thành một vấn đề nan giải đối với Trung Quốc trong sự hiện diện ngày một tăng của quân đội Mỹ trong khu vực.
Rõ ràng, muốn hạ uy tín của Mỹ trên biển Hoa Đông và biển Đông, Trung Quốc cần có một chiến dịch hiệu quả. Mục tiêu của cuộc công kích này có thể là Senkaku, nhằm hạ uy thế của lực lượng phòng vệ Nhật Bản, nâng cao vị thế hải quân Trung Quốc và gây sóng gió tiếp tục trên Thái Bình Dương.
Máy bay tiêm kích J-10 của không quân Trung Quốc
Máy bay tiêm kích J-10 của không quân Trung Quốc.
Trong nhiều năm gần đây, Trung Quốc đã không ít lần lựa chọn thời điểm bất khả kháng của một quốc gia để xâm chiếm những gì không phải của họ. Là bậc thầy cơ hội, Trung quốc có thể vẫn tiếp tục vây ép Senkaku bằng lực lượng ngư dân, chiến hạm và các tàu ngư chính, hải giám dày đặc. Tiến hành các hoạt động khiêu khích căng thẳng để duy trì tình trạng kích động và định hướng dư luận theo chiều đối nghịch.
Khi thời cơ thuận lợi tới (sẽ rất khó định nghĩa “thời cơ thuận lợi”) PLA có thể lợi dụng cơ hội để đưa một lượng ngư dân lớn đến vùng nước Senkaku (hàng vài nghìn tàu cá), có thể tổ chức một lực lượng ngư dân đổ bộ lên đảo – phương pháp truyền thống – và gây xung đột với lực lượng phòng vệ Nhật Bản.
Tàu cá được Trung Quốc sử dụng như lực lượng tiền trạm, vòng trong của chiến thuật 'cải bắp' gồm tàu cá, vòng ngoài là hải giám và ngư chính, ngoài cùng là chiến hạm sẵn sàng sử dụng vũ lực khi cần.
Để có thể tạo điều kiện cho phương pháp “dạy cho một bài học”, PLA sẽ chuẩn bị lực lượng tương đối mạnh để sẵn sàng công kích khi tình huống xảy đến. Lực lượng tham chiến trong chiến dịch công kích này có thể sẽ là: Lực lượng chiến hạm bao gồm từ 3 – 5 tàu khu trục trong đó có ít nhất là một tàu khu trục tên lửa phòng không trang bị tên lửa HQ-9, 10 – 16 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu đổ bộ hạng nhẹ mang máy bay trực thăng với khoảng 2 - 3 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ.
Không quân hải quân tham chiến có thể sẽ là một liên đoàn không quân tiêm kích từ 40 – 50 máy bay chiến đấu hiện đại J-10 và Su–27 có sân bay bên bờ biển. Tham gia chiến dịch có thể sẽ có thêm 2 - 3 tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm. Các đơn vị tên lửa thuộc Lực lượng pháo binh tên lửa số 2 và các đơn vị không quân tiêm kích sẽ được đưa vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất.
Tàu hộ vệ tên lửa Trung Quốc trong vùng nước Senkaku/Điếu Ngư
Tàu hộ vệ tên lửa Trung Quốc trong vùng nước Senkaku/Điếu Ngư.
Kịch bản của chiến dịch cũng sẽ khá truyền thống: “Chiến tranh nhân dân trên biển” hay còn gọi là “Cuộc chiến ngư dân” (ở đây có thể có nhiều nghĩa để hiểu từ “ngư dân”). Các ngư thuyền sẽ đánh bắt cá hòa bình trên vùng nước thuộc “chủ quyền” thì bị các tàu tuần duyên biển của Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản xua đuổi. Số lượng tàu cá và các “ngư dân” sẽ tăng nhanh tạo ra xung đột với lực lượng duyên phòng Nhật Bản, có thể dẫn đến tổn thất các tàu cá và “sự giận dữ” của ngư dân sẽ tấn công các tàu tuần duyên Nhật Bản bằng các vũ khí có trong tay.
Sự kiện sẽ loang ra rất nhanh nhờ có sự có mặt của các tàu hải giám và bùng phát khi một số ngư dân Trung Quốc đổ bộ lên quần đảo Senkaku. Trước tình hình leo thang nhanh chóng, lực lượng phòng vệ Biển Nhật Bản sẽ điều động một số lượng chiến hạm lớp tuần biển và tàu hộ vệ xuất kích nhằm ngăn chặn tình trạng leo thang xung đột, đồng thời các máy bay F-15 và F–2 của Nhật cũng xuất kích.
Do khoảng cách địa lý tương đương nhau, phi đoàn không quân chiến thuật của PLA cũng đồng thời xuất kích cùng với lực lượng hải quân công kích chủ lực tiếp cận khu vực đảo Senkaku. Cuộc xung đột dân sự sẽ nhanh chóng biến thành xung đột vũ trang với những tổn thất cho cả hai bên, lực lượng đổ bộ đường biển của lính thủy đánh bộ Trung quốc sẽ đổ bộ lên đảo dưới sự yểm trợ của tên lửa phòng không hải quân, máy bay tiêm kích và cố thủ giữ đảo nhằm bảo vệ “ngư dân và ngư trường…”.
Quân đội Trung Quốc thực hành diễn tập đánh chiếm đảo
Quân đội Trung Quốc thực hành diễn tập đánh chiếm đảo.
Kịch bản của chiến dịch này sẽ diễn ra trong thời gian vài giờ và chấm dứt nhanh chóng sau khi Trung quốc sẽ đưa toàn bộ lực lượng pháo binh - tên lửa chiến lược số 2 vào trạng thái sẵn sàng phóng tên lửa về hướng Tokyo nhằm “dạy cho một bài học và kiên quyết bảo vệ chủ quyền”. Đồng thời các tàu ngầm nguyên tử của Trung Quốc cũng sẵn sàng phóng tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo vào các mục tiêu đã được định trước. Các hạm đội Trung Quốc sẽ tập trung tại các vùng nước thuận lợi trên biển Hoa Đông.
Cuộc xung đột vũ trang sẽ được tiếp tục trên các phương tiện thông tin đại chúng, quanh quần đảo Senkaku tập hợp một lực lượng lớn hải quân xung kích của Trung Quốc nhằm ngăn chặn hành động phản kích của Nhật Bản. Các sự kiện bùng phát nhanh chóng được Liên Hợp quốc kêu gọi kiềm chế và giải quyết những xung đột vũ trang bằng biện pháp hòa bình. Mỹ buộc phải tăng cường lực lượng quân sự trên đảo Okinawa. Nhật Bản cũng có những giải pháp nhằm tăng cường sức mạnh quân sự và tuyên bố sẽ tiến hành chiến tranh đoạt lại quần đảo. Nhưng tình huống “đã rồi” trên đảo Senkaku có thể được coi là đạt được mục đích chiến lược với Trung Quốc…. và tranh chấp có thể tiếp tục kéo dài.
Nếu kịch bản đã nêu xảy ra, Trung Quốc bằng một kịch bản biến thể nào đó đổ bộ được lực lượng lên Senkaku dù có tổn thất lớn. Điều đó phải trả giá rất đắt nhưng có thể sẽ giải quyết rất nhiều vấn đề lớn trong nội bộ Trung Quốc và trên trường quốc tế. Dù bị thế giới lên án, chỉ trích…nhưng hải quân Trung Quốc lấy được sự tự tin và sẽ tăng cường sức mạnh lên chuỗi hơn 130 hòn đảo trên biển Đông đến Malaca, tạo áp lực chiếm bãi cạn Scarborough, tự tin quản lý và kiểm soát con đường vận tải thương mại dọc biển Đông và gây sức ép nặng nề với Hải quân Mỹ.

Kinh tế các nước ven biển sẽ suy sụp thảm hại. Đầu tư quốc phòng Trung Quốc tăng đột biến cùng với sự ủng hộ của Pakistan và Iran. Châu Phi cũng nằm trong vùng ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc với sức mạnh mới. Khối ASEAN sẽ rơi vào tình trạng phân hóa cục bộ. Người Mỹ buộc phải tăng cường lực lượng tới Hàn Quốc, Australia, Okinawa và sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh hạt nhân trên biển mới.

 Từ góc nhìn quân sự, có thể thấy quần đảo Senkaku rất khó bảo vệ. Senkaku nằm ở phía Tay Nam của quần đảo Ryukyu, có khoảng cách gần với Đài Loan nhiều hơn là gần với Okinawa hoặc các hòn đảo khác của Nhật Bản. Phòng thủ Senkaku trên khoảng cách địa lý rộng lớn sẽ không đơn giản.
Thế trận phòng ngự kiểu Samurai
Điểm then chốt trong kế hoạch phòng ngự của JGSDF (lực lượng phòng vệ biển Nhật nằm ở khả năng chống đổ bộ bất cứ lực lượng nào của đối phương lên Senkaku.
Có nghĩa là, tại thời điểm hiện tại, nhưng trên quần đảo Senkaku cần có một lực lượng, dù rất nhỏ đồn trú bí mật, xây dựng các công trình phòng ngự bí mật, các trạm quan sát, cảnh báo sớm và các vị trí sẵn sàng cho phòng ngự đảo, vũ khí khí tài phi sát thương nhằm vô hiệu hóa lực lượng đổ bộ ‘ngư dân” lên đảo.
Lực lượng phòng vệ biển Nhật trên Senkaku/Điếu Ngư
Lực lượng phòng vệ biển Nhật trên Senkaku/Điếu Ngư.
Chiến thuật của PLA đã được định hình từ thời kỳ chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên, trải qua nhiều cuộc xung đột biên giới vẫn không có điểm nào thay đổi lớn, thể hiện rõ nhất vẫn là các cuộc xung đột tính từ năm 1974 đến 1988.
Trung Quốc vẫn sẵn sàng sử dụng chiến thuật đại binh. Điểm yếu nhất của cuộc xung đột tương lai gần chính là khả năng đổ bộ lên quần đảo Senkaku dưới hình thức ngư dân hay lính thủy đánh bộ. Do đó, chiến thuật PLA sẽ thất bại nếu không tập trung được lực lượng tiên phong – đó là tập hợp đông đảo ngư dân trên biển lớn.
Tàu tuần duyên Nhật Bản trên vùng biển tranh chấp
Tàu tuần duyên Nhật Bản trên vùng biển tranh chấp.
Do đó, trường hợp thứ nhất: Để sẵn sàng vô hiệu hóa khả năng gây nổ cuộc xung đột, lực lượng tuần duyên Nhật cần phải tập trung một số lượng tàu tuần duyên đủ lớn, được trang bị các phương tiện tác chiến phi sát thương nhằm nhanh chóng giải quyết các cụm tàu đánh cá có số lượng lớn trên vùng biển hẹp, đẩy lùi và chia cắt các nhóm tàu đánh cá tập trung và tiếp cận quần đảo Senkaku.
Tuần duyên Nhật Bản đuổi ngư thuyền Trung Quốc bằng vòi rồng ở khu vực Senkaku
Tuần duyên Nhật Bản đuổi ngư thuyền Trung Quốc bằng vòi rồng ở khu vực Senkaku.
Trường hợp thứ hai, khi lực lượng “ngư thuyền” quyết tâm khiêu khích bằng vũ lực (tấn công tàu tuần duyên, gây cháy nổ…với mục đích khiêu khích và có sự tham gia của các tàu hải giám, ngư trình, lực lượng phòng vệ biển Nhật Bản phải có lực lượng chiến hạm phản ứng nhanh và lực lượng lính thủy đánh bộ đổ bộ đường không tốc độ cao, nhằm nhanh chóng tiếp cận vùng nóng và đổ bộ lên Senkaky, ngăn chặn khả năng đối phương sử dụng các tàu tuần tiễu, tàu đổ bổ đưa lực lượng lên chiếm quần đảo.
Đồng thời triển khai lực lượng phòng không trên, triểu khai các tổ hợp tên lửa chống tàu toàn bộ các tuyến đảo và đưa các tàu ngầm diesel điện cơ động phục kích trong khu vực quần đảo Senkaku với tầm hoạt động chiến thuật trên khoảng cách 12 hải lý. Sẵn sàng cho nhiệm vụ đổ bộ lên đảo Senkaku, JGSDF thành lập Cụm hải quân tác chiến cơ động nhanh, bao gồm một kỳ hạm Hyuga biên chế lực lượng phản ứng nhanh đổ bộ đường không với 11 máy bay trực thăng chiến đấu và đổ bộ, hai tàu khu trục lớp Kongo được trang bị tên lửa đánh chặn, 2 tàu Khu trục lớp Takanami trang bị tên lửa phòng không, 4 -6 tàu tuần tiễu hạng nhẹ lớp Hatsuyuki, 4 tàu ngầm diesel điện lớp lớp Soryu và lớp Oyashio.
Từ các sân bay gần, cụm hải quân tác chiến phản ứng nhanh sẽ được tăng cường theo biên chế một phi đoàn không quân từ 10 – 12 máy bay tiêm kích F 15 và F-4, máy bay tác chiến điện tử và chỉ huy trên không E-2C và E-767.
Sơ  đồ tác chiến đường không của hệ thống phòng không Nhật Bản
Sơ đồ tác chiến đường không của hệ thống phòng không Nhật Bản.
Sơ đồ tác chiến đường không của hệ thống phòng không Nhật Bản Sơ đồ tác chiến đường không của hệ thống phòng không Nhật Bản.
Yểm trợ hỏa lực cho lực lượng Hải quân tác chiến phản ứng nhanh là hệ thống tên lửa phòng không Patriot – PAC 2 và 3, các hệ thống tên lửa hành trình chống hạm SSM-1 (Type-88) được bố trí trên các đảo Ryukyu gần với quần đảo Senkaku kết hợp với các trắc thủ và đài quan sát trên các đảo Senkaku.
Máy bay F-15 Nhật Bản
Máy bay F-15 Nhật Bản.
Thế mạnh của JGSDF là hệ thống tranh thiết bị tác chiến điện tử hiện đại, bao gồm các trang thiết bị cảnh giới, trinh sát và cảnh báo sớm, các phương tiện chỉ huy và tác chiến trên không, trên biển, đặc biệt là hệ thống đánh chặn tên lửa Aegis tiên tiến nhất hiện nay trên các chiến hạm của Mỹ, ngoài ra, các máy bay trinh sát chống ngầm P-3 Orion của Nhật Bản cũng nằm trong hệ thống chống ngầm toàn cầu của Mỹ. Do đó, tính bí mật, bất ngờ của các tàu ngầm nguyên tử PLA hoàn toàn không còn hiệu lực. Với công nghệ tiên tiến, các tàu ngầm diesel – điện của Nhật Bản càng có ưu thế hơn về chống ngầm và chiến hạm nổi.
Với phương án phòng ngự tổng hợp đã nêu, có đủ khả năng để đối phó với bất cứ chiến thuật công kích nào của đối phương, bao gồm tình huống tấn công bằng cuộc tập kích ồ ạt của lực lượng PLA hoặc cuộc xung đột vũ trang, làm ngòi nổ cho cuộc xâm lăng hạn chế.
Lực lượng phòng vệ Nhật Bản
Lực lượng phòng vệ Nhật Bản.
Khi các lực lượng đổ bộ Nhật Bản đã triển khai được lực lượng phòng ngự và trận địa phòng ngự trực tiếp trên Senkaku chống lại một âm mưu xâm lược (sẽ được làm rõ bằng các “ngư dân’ bị chứng minh là quân nhân mặc thường phục”) thì bất cứ lực lượng nào, dù là không kích bao trùm toàn bộ quần đảo bằng tên lửa, bom có điều khiển hoặc thông thường cũng không thể nào đánh chiếm được đảo.
Tên lửa Patriot Nhật Bản
Tên lửa Patriot Nhật Bản.
Trong trường hợp PLA liều lĩnh công kích, các tên lửa đạn đạn, hành trình và máy bay của PLA sẽ phải chọc thủng hệ thống phòng không của các chiến hạm từ tầm xa, tên lửa phòng không mặt đất với các trang thiết bị công nghệ hiện đại nhất thế giới hiện nay. Các chiến hạm của PLA sẽ phải chọc thủng tuyến phòng thủ bờ biển tầm xa từ trên không, trên đất liền và dưới biển.
Với khả năng đổ bộ đường không bằng máy bay trực thăng với lực lượng đồn trú sẵn sàng trên đảo và lực lượng tàu tuần duyên dày đặc, khả năng đưa được lực lượng – dù là “đặc nhiệm” sẽ vô cùng khó khăn. Và tổn thất thực sự sẽ vô cùng lớn, chỉ cần một tàu ngầm nguyên tử của PLA bị đánh chìm hoặc một khu trục hạm bị tiêu diệt, khí thế và sức mạnh của PLA sẽ vĩnh viễn chìm xuống biển sâu.
Cuộc chiến Senkaku – nếu xảy ra – thực tế cán cân lực lượng nghiêng nhiều về phía Nhật Bản ngay cả trong trường hợp Mỹ không tham chiến. Nhật Bản không cần thiết phải chiến thắng trong một trận hải chiến kinh điển, còn Trung Quốc bắt buộc phải dành thắng lợi – bẻ gãy lực lượng phòng ngự Nhật Bản và chiếm được Senkaku dù tổn thất có vô cùng lớn. Nhật Bản chỉ cần chứng minh Trung Quốc đã sử dụng lực lượng quân sự tiến hành chiến tranh xâm lược, còn Trung Quốc buộc phải giữ một thế trận rộng khắp trên toàn bộ vùng Biển Đông, Biển Hoa Đông.
Với Nhật Bản, xung đột vũ trang trên biển có thể càng kéo dài càng có lợi, nhưng nếu binh lực của Trung Quốc tăng lên và thời gian vượt quá 1 ngày đêm thì xung đột vũ trang trên biển sẽ biến thành chiến tranh khu vực. Để bảo toàn lực lượng và giữ vị thế trên trường thế giới, Mỹ sẽ trực tiếp tham chiến theo với tư cách đồng minh trong chiến tranh tự vệ theo Hiệp ước liên minh phòng thủ.
Quân đội Nhật với các tàu sân bay trực thăng hoàn toàn có thể biến thành các tàu sân bay thực sự khi trang bị phiên bản F-35 cất/hạ cánh thẳng đứng đã đặt mua của Mỹ
Quân đội Nhật với các tàu sân bay trực thăng hoàn toàn có thể biến thành các tàu sân bay thực sự khi trang bị phiên bản F-35 cất/hạ cánh thẳng đứng đã đặt mua của Mỹ.
Nếu các nhà lãnh đạo của đất nước Mặt trời mọc nhận rõ được điều này, và các sĩ quan cao cấp của lực lượng Phòng vệ Nhật Bản hiểu rõ được khả năng và tư duy chiến thuật của quân đội PLA, với việc bố trí lực lượng và phân bổ phương tiện tác chiến hợp lý. Senkaku sẽ là tử địa đối với PLA ngay cả trong điều kiện hiện nay.
Nếu so sánh cán cân lực lượng đơn thuần, thì lực lượng PLA thực sự có một sức mạnh vô cùng lớn, nhưng xét trên góc độ chiến thuật (cũng hy vọng các nhà lãnh đạo chính trị - quân sự đại lục sáng suốt nhận định) thì khả năng cho một sự thành công thực sự vô cùng nhỏ bé (đơn thuần chỉ là yếu tố ngư dân – bất ngờ).
Một kịch bản khác, kéo dài thời gian hơn một chút cũng có thể diễn ra, đó là tàu đánh cá và “ngư trường truyền thống” “hồng kỳ rực Biển Đông”, điều mà Trung Quốc với hơn năm mười nghìn tàu cá có thể được trang bị vũ trang cũng là lực lượng vũ trang trên biển thứ III. Được sự hỗ trợ của các tàu bán dân sự và lực lượng Hải quân PLA là một mối nguy hiểm tiềm tàng và vô cùng lợi hại cho chính sách thống trị Thái Bình Dương của Trung Quốc.
Giai đoạn hiện nay, lực lượng vũ trang thứ III đang được thử nghiệm dưới hình thức đánh bắt xa bờ, xâm phạm vào các ngư trường và các vùng nước có chủ quyền của các nước khác, bao gồm cả Senkaku, Cỏ Mây và các đảo khác. Không loại trừ khả năng, chính các tập đoàn “ngư dân” này đang tiến hành trinh sát vùng nước đồng thời chuẩn bị cho một cuộc xâm lấn toàn diện và biến vùng nước có chủ quyền của các nước khác thành các vùng tranh chấp, điều đó đồng nghĩa với việc Trung Quốc đã thành công trong việc hiện diện lực lượng hải quân và đợi thời cơ xâm lược chủ quyền.
Trung Quốc đặt toàn bộ nền kinh tế và chính sách đối ngoại chính trị vào lực lượng hải quân tham vọng của mình. Tháng 12.2006, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã tuyên bố: “Trung Quốc cần xây dựng một lực lượng Hải quân nhân dân hùng mạnh” để bất cứ lúc nào cũng có thể sẵn sàng bảo vệ các tuyến đường giao thương trên biển của Trung Quốc, đặc biệt là các tuyến đường thương mại đi qua Ấn Độ Dương đến với nhưng nguồn cung cấp dầu mỏ và mang lại năng lượng cho sự phát triển kinh tế hiện nay trên lục địa, điều đó cần rất nhiều chiến hạm, máy bay và cơ sở vật chất đi cùng. Nếu Trung Quốc tổn thất nặng nề trong một cuộc chiến trên biển với Nhật Bản – dù là thắng lợi, đồng nghĩa với việc từ một con rồng hùng mạnh, Trung Quốc hoàn toàn có thể sẽ bắt đầu lại cuộc “Nam chinh Bắc chiến” nội bộ của thế kỷ 20.
Lời phát biểu của phát ngôn viên Hồng Lỗi về bãi Cỏ Mây (Trường Sa) và lời tuyên bố của Phó tổng tham mưu trưởng PLA ông Thích Kiến Quốc đã chứng minh một điều rất rõ ràng, những tham vọng của Trung Quốc với Biển Đông và Biển Hoa Đông chỉ có tăng, không giảm, và kịch bản dành cho Senkaku có thể sẽ dành cho tất cả các hòn đảo lớn nhỏ trong vùng nước này.
Phòng ngự Senkaku cũng như phòng ngự bảo vệ biển đảo trong giai đoạn ngày nay không còn mang tính viễn tưởng và cũng không phải trường hợp bất khả thi. Dù Bắc Kinh có thể hiểu điều này và mọi phân tích nói trên chỉ nằm trong khuôn khổ bài báo, nhưng không có gì chắc chắn rằng, những kịch bản này sẽ chỉ được trình bày trong các bài phân tích. Và tất cả những nước đang nằm trong tranh chấp trên vùng nóng, cùng cần một kế hoạch chiến lược và một thế trận thành đồng bảo vệ biển đảo chủ quyền.
http://www.tamguong.vn/giao-duc-quoc-phong/675558/Nhat-Ban-dan-tran-Samurai-da-bai-rong-Trung-HoaP2.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét