Thứ Năm, 12 tháng 12, 2013

'Chiến tranh' Đông Bắc Á: Dự đoán kịch bản

Khi châu Á - Thái Bình Dương ngày càng trở thành trung tâm chính trị và kinh tế của thế giới thì sức hút bên trong khu vực này lại đang dịch chuyển tới Đông Bắc Á, nơi lợi ích của các cường quốc - Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, và Nga - gặp gỡ và va chạm nhau.
Phần 1: Nguy cơ cuộc chiến trên biển Hoa Đông
Vấn đề chiến tranh và hòa bình ở Đông Bắc Á có tầm quan trọng không chỉ trong khu vực mà cả trên toàn cầu. Nếu một cuộc chiến bùng nổ ở Đông Á, nhiều khả năng nó sẽ diễn ra chủ yếu trên biển. Điều này là do địa lý khu vực, nơi các chủ thể chính ngăn cách nhau bởi những vùng biển rộng.
Đông Bắc Á, chiến tranh, kịch bản, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Đông
Một khía cạnh quan trọng của sự kình địch Trung - Mỹ ở Đông Bắc Á là nguy cơ tiềm tàng một sự đối đầu hải quân (Ảnh: AP)
Một cuộc chiến quy mô lớn trên mặt đất, như ở châu Âu, Trung Đông hay trên bán đảo Triều Tiên, có thể dẫn tới sự tổn thất nhân mạng to lớn và rất nhiều thiệt hại về vật chất, do vậy các chính trị gia phải hành động cẩn trọng hơn.
Còn ở biển, nơi không có con người sinh sống trong phạm vi hàng trăm dặm, những nguy cơ kể trên thấp hơn nhiều và điều đó có thể làm giảm giới hạn của việc ra quyết định lao tới chiến tranh.
Ở Đông Bắc Á, khả năng tiềm tàng xung đột chủ yếu tập trung ở biển Hoa Đông, với Trung Quốc và Nhật Bản là hai đối thủ chính. Mục đích tranh cãi của họ là chủ quyền đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư và sự phân ranh các vùng đặc quyền kinh tế.
Dấu hiệu căng thẳng
Những dấu hiệu báo động, cho thấy một sự gia tăng căng thẳng nguy hiểm, hiện tại rất rõ ràng. Năm 2012, Trung Quốc đã có nhiều phản ứng mạnh mẽ trước việc Nhật Bản quyết định quốc hữu hóa chuỗi đảo Senkaku (bằng cách mua chúng từ một chủ sở hữu tư nhân).
Các máy bay và tàu Trung Quốc tiến vào vùng thực thi pháp lý của Nhật Bản ở khu vực tranh chấp ngày càng thường xuyên hơn.
Ở Nhật Bản cũng có một sự dịch chuyển trong tâm lý của dân chúng, hướng tới một lập trường cứng rắn hơn trong quan hệ với Trung Quốc.
Điều này thấy rõ qua cuộc bầu cử Quốc hội hồi tháng 12/2012. Một trong những đề xuất trước bầu cử của Thủ tướng Shinzo Abe (hiện vẫn chưa được thực thi) là đảm bảo sự hiện diện liên tục của các quan chức và lính tuần duyên Nhật Bản trên quần đảo Senkaku.
Chính phủ Nhật Bản cũng tuyên bố tăng cường chi tiêu quân sự trong năm 2013, lần tăng ngân sách quốc phòng đầu tiên của nước này trong 11 năm qua. Điều này đúng như những cam kết trước bầu cử của ông Abe nhằm tăng cường sức mạnh quân sự để đối phó với "mối đe dọa Trung Quốc".

Chủ nghĩa biểu tượng của xung đột
Nhiều nhà phân tích tin rằng một cuộc chiến ở biển Hoa Đông - mà mới chỉ cách đây vài năm còn là điều gần như không thể - giờ đây có thể trở thành hiện thực. Gốc rễ xung đột không chỉ nằm ở tầm quan trọng chiến lược quân sự của những hòn đảo nhỏ bé không người, cũng không chỉ vì dầu lửa và các nguồn tài nguyên của vùng biển này. Mà tranh chấp Senkaku đã phát triển thành một ý nghĩa mang tính biểu tượng, trở thành vấn đề căn nguyên giữa một Trung Quốc đang lớn mạnh và ngày càng dân tộc chủ nghĩa với Nhật Bản, nước đang cố gắng duy trì các vị thế suy yếu của mình.
Mỹ sẽ can dự?

Chính quyền Mỹ đã nhiều lần tuyên bố, trong vấn đề chủ quyền đối với Senkaku, nước này không đứng về phía nào của tranh chấp nhưng cùng lúc đó, họ lại công nhận quyền kiểm soát hành chính của Tokyo đối với chuỗi đảo. Bởi vậy, vùng lãnh thổ này được hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật bảo vệ (1, 2).
Bên cạnh đó cũng cần nhớ rằng người Mỹ chưa bao giờ tỏ rõ họ sẵn sàng can thiệp và dùng vũ lực ủng hộ đồng minh Nhật Bản của mình. Washington ý thức rất rõ về các nguy cơ xuất phát từ sự kình địch giữa Nhật Bản và Trung Quốc, và từ các nghĩa vụ đồng minh của mình với Nhật Bản.
Vì lý do đó mà cách Mỹ tiếp cận cuộc tranh chấp đảo Senkaku/Điếu Ngư ngày càng có gì đó giống với chính sách "mập mờ chiến lược" mà Washington áp dụng cả một thời gian dài đối với "vấn đề Đài Loan".
Theo nhận định của một số chuyên gia phân tích uy tín tại Mỹ, nếu Tokyo khới ra một cuộc khủng hoảng thì Mỹ có thể từ chối hành động ủng hộ người Nhật trong một cuộc xung đột quân sự với Trung Quốc.
Bất chấp những e dè kể trên, nhiều khả năng nhất là Mỹ sẽ dành cho Nhật sự trợ giúp quân sự trong trường hợp một cuộc khủng hoảng nổ ra ở biển Hoa Đông, nếu Tokyo tự thấy mình không đương đầu nổi một mình. Tuy nhiên, dự đoán này chỉ có lý trong ngắn hạn và trung hạn, khi Mỹ vẫn chiếm ưu thế quân sự rõ ràng trước Trung Quốc ở tây Thái Bình Dương.
Đông Bắc Á, chiến tranh, kịch bản, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Đông
Ảnh: RIA Novosti
Lập trường của các nước
Các quốc gia khác ở Đông Bắc Á sẽ làm gì trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Nhật Bản?
Hàn Quốc tự thấy mình lâm vào một tình cảnh tương đối khó. Một mặt, người Hàn Quốc có các vấn đề với người Nhật mà theo nhiều cách thì tương tự với các vấn đề của Trung Quốc. Mặt khác, Seoul cũng nằm trong mối quan hệ liên minh chính trị - quân sự với Mỹ. Vì vậy, Hàn Quốc có thể sẽ chọn lập trường trung lập, mặc dù nhiều người ở đất nước này muốn Tokyo bị đánh bại.
Triều Tiên, dù là một đồng minh của Trung Quốc, ít có khả năng sẽ dính vào xung đột. Các lợi ích tức thời của nước này không có gì liên quan đến biển Hoa Đông, và Bình Nhưỡng không có sức mạnh quân sự đủ để gây ảnh hưởng thực sự đến kết quả xung đột.
Đài Bắc coi các đảo tranh chấp là của người Trung Quốc. Tuy nhiên, khó mà có chuyện Đài Loan sẽ tham gia một cuộc chiến chống lại Mỹ và Nhật Bản, hai nước chính đảm bảo cho sự độc lập trên thực tế của hòn đảo này.
Nếu đối đầu trên không với Nhật Bản, ban đầu Không quân Trung Quốc sẽ chịu những thất bại đáng kể.
Không quân Nhật Bản
Nếu Bắc Kinh sử dụng các vũ khí hạt nhân của nước này (bất chấp tuyên bố không bao giờ sử dụng chúng chống lại các quốc gia phi hạt nhân), Mỹ sẽ thực hiện cam kết hỗ trợ tích cực với Nhật Bản.
Nga chắc chắn sẽ không ủng hộ Trung Quốc bằng một cuộc tấn công vào lãnh thổ Mỹ: điều này nằm ngoài quan hệ đối tác chiến lược của hai nước. Do vậy, hãy loại bỏ khả năng Trung Quốc sử dụng vũ khí hạt nhân.
Nhật Bản có một căn cứ hải quân và không quân vững chắc ở Okinawa, đặt nước này vào một vị trí thuận lợi vì có thể tập trung được các lực lượng chủ chốt và thiết lập một đầu cầu trên đảo này, biến nó thành một "hàng không mẫu hạm không bao giờ chìm".
Hơn nữa, Okinawa được bảo vệ chắc chắn trước các cuộc không kích (bao gồm các cuộc tấn công tên lửa hành trình) nhờ hệ thống tên lửa Patriot, các chiến đấu cơ và các hệ thống phòng không hải quân.
Máy bay chiến thuật của Nhật Bản không có khả năng tiếp nhiên liệu trên không, nhưng do thời gian bay ngắn từ Okinawa, chúng có thể đảm bảo tuần tra không ngừng nghỉ và tiêu diệt các mục tiêu cả trên biển lẫn trên không.
Khó có khả năng Không quân Nhật Bản tấn công ồ ạt vào các mục tiêu trên mặt đất ở Trung Quốc, vì những sứ mệnh như vậy chỉ có thể thực hiện bằng các các vũ khí trọng lượng nhỏ, tấn công các mục tiêu đã định.
Khả năng về một cuộc tấn công trên quần đảo Senkaku/Điếu Ngư cũng được loại trừ: chúng quá nhỏ và sẽ cực kỳ khó để đảm bảo một cú hạ cánh an toàn xuống đó.
Nhật Bản có thể tập trung 1/3 phi đội của Không quân nước này (khoảng 100 máy bay) vào vùng xung đột mà không gây tổn hại đến nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ chính.
Sức mạnh Không quân Nhật Bản bao gồm các máy bay hiện đại có thể tấn công các mục tiêu trên biển bằng bom và tên lửa dẫn đường mà không cần tiến vào vùng ảnh hưởng của phần lớn các hệ thống phòng không hải quân Trung Quốc, và cũng có thể tiêu diệt các mục tiêu trên không từ một khoảng cách đáng kể.
Tokyo cũng có các máy bay kiểm soát và cảnh báo sớm trên không (AWACS) và các nguồn lực chiến tranh điện tử, giúp nước này khá dễ dàng kiểm soát tình hình trên không và trên biển, điều khiển các nhóm bay và can thiệp vào hoạt động của các hệ thống điện tử Trung Quốc.
Trung Quốc, Nhật Bản, chiến tranh, Đông Bắc Á
Máy bay chiến đấu F-15J của Lực lượng Phòng vệ trên không Nhật Bản
Không quân Trung Quốc
Hiện không có dữ liệu xác thực về quy mô radar Trung Quốc kiểm soát không phận nước này. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra xung đột, năng lực radar tất yếu sẽ được tăng cường ở các khu vực trung tâm. Điều tương tự cũng sẽ được áp dụng cho các hệ thống phòng không từ mặt đất.
Do diện tích quá rộng lớn, Trung Quốc sẽ khó thực hiện việc bố trí lại các khí tài và vũ khí quân sự hạng nặng trên quy mô lớn. Tương tự, Trung Quốc cũng không thể bỏ mặc đường biên giới của mình với "nước láng giềng phía bắc", Nga, trong tình trạng hoàn toàn không được bảo vệ, hoặc làm suy yếu đoạn biên giới giáp Ấn Độ.
Huấn luyện chuyên môn và kinh nghiệm của các phi công Trung Quốc cũng là một vấn đề cần lo ngại. Vì vậy, ít có khả năng Trung Quốc huy động một dàn chiến đấu cơ quá 15% (khoảng 20 máy bay) ngay từ ban đầu.
Một lần nữa, giao tranh hai nước Trung - Nhật nhiều khả năng sẽ là cuộc đụng độ giữa chiến đấu cơ của Mỹ và Nga, vì Trung Quốc chắc chắn sẽ thử nghiệm các chiến đấu cơ đa năng thuộc thế hệ Su-27 của họ (do cả Nga và Trung Quốc chế tạo). Về đặc điểm bay, những máy bay này vượt trội so với các chiến đấu cơ của đối thủ và hiệu quả khi tấn công các mục tiêu trên biển và trên không.
Tuy đối với các máy bay Trung Quốc, khoảng cách từ các sân bay của họ đến quần đảo Senkaku sẽ xa hơn so với các máy bay Nhật Bản, nhưng về kỹ thuật, họ sẽ có thể duy trì sự hiện diện thường xuyên ở khu vực tranh chấp.
Tuy nhiên, do vị trí địa lý, việc Nhật kiểm soát các đường bay của máy bay Trung Quốc trên biển Hoa Đông từ trên biển và trên không sẽ dễ hơn so với việc Trung Quốc kiểm soát sự di chuyển của máy bay Nhật tới và rời khỏi Okinawa.
Không quân của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc chỉ có rất ít máy bay AWACS. Họ cũng không có kinh nghiệm thực tế về điều khiển và hướng dẫn máy bay, cũng như về phối hợp tác chiến với các lực lượng hải quân.
Vì vậy, nếu đối đầu trên không với  Nhật Bản, ban đầu Không quân Trung Quốc sẽ chịu những thất bại đáng kể.
Tuy nhiên, Trung Quốc sẽ có thể khắc phục những yếu điểm đó bằng cách triển khai các đơn vị quân đội từ các khu vực khác trong nước và, trong tương lai, bằng cách tích cực sản xuất vũ khí mới (100 máy bay mới mỗi năm).
Nếu Trung - Nhật xung đột quy mô lớn gần Senkaku/ Điếu Ngư và không có bên thứ 3 tham gia, nhiều khả năng TQ sẽ thắng, nhưng tổn thất rất nặng.
Hải quân Nhật Bản
Lực lượng Phòng vệ biển của Nhật Bản rất đông và hiện đại. Ở khu vực Senkaku/ Điếu Ngư, Nhật có thể triển khai ít nhất 4 tàu khu trục Aegis từ các căn cứ ở Yokosuka, Sasebo và Kure. Năng lực của chúng bao gồm khả năng kiểm soát các lực lượng hải quân và hoạt động trên không, tỷ lệ phát hiện mục tiêu cao và có thể vận hành tất cả các vũ khí trên tàu.
Nhật Bản cũng có thể sử dụng hàng chục tàu khu trục có khả năng chiến đấu khiêm tốn hơn để thực hiện việc phòng thủ chống ngầm và phòng thủ trên không.
Đối với các mục tiêu của nhiệm vụ chiến đấu chống Trung Quốc, chủ yếu là giám sát các tàu ngầm hạt nhân của nước này, Nhật Bản có thể điều động tới 8 tàu ngầm hiện đại chạy bằng diesel. Một tàu chở trực thăng lớp Hyuga mới cũng có thể được sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ chống ngầm.
Nhật Bản còn có nhiều tàu đổ bộ. Tuy nhiên, một chiến dịch đổ bộ lên Senkaku/ Điếu Ngư có thể chỉ thực hiện được bằng các nhóm quân nhỏ không trang bị vũ khí hạng nặng, đổ bộ từ các trực thăng hoặc tàu đệm khí.
Hơn nữa, một chiến dịch đổ bộ chỉ có thể thành công nếu chiếm uy thế cả trên biển lẫn trên không, điều mà không bên nào trong hoàn cảnh hiện nay có thể.
chiến hạm, hải quân, Hoa Đông, Trung Quốc, Nhật Bản, Senkaku, Điếu Ngư, ADIZ
Chiến hạm của Lực lượng Phòng vệ biển của Nhật Bản. Ảnh: AP Photo/Kyodo News
Cần lưu ý rằng, nếu Nhật Bản thiết lập một tiền đồn ở Okinawa, nước này sẽ phải vận chuyển một lượng lớn vũ khí hạng nặng, đạn dược và vật liệu bằng đường biển. Ngay cả khi đi theo "hải trình Thái Bình Dương", với biển Hoa Đông chỉ là chặng cuối, thì những hoạt động vận chuyển đó vẫn dễ bị tấn công. Do vậy, Nhật Bản sẽ phải đảm bảo các đoàn tàu của họ có đầy đủ năng lực phòng thủ chống ngầm.
Nhưng có một thực tế, các tàu của Nhật không có khả năng tấn công các cơ sở ven biển trên lãnh thổ Trung Quốc do không được phép sở hữu các loại hệ thống tên lửa liên quan.
Hải quân Trung Quốc
Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc có tiềm lực chiến đấu đáng nể. Hạm đội Đông Hải (với các căn cứ chính ở Ninh Ba và Thượng Hải) được triển khai trực tiếp ở vùng xung đột.
Sức mạnh chiến đấu thực sự có thể thấy rõ ở 4 tàu khu trục do Nga chế tạo được trang bị các vũ khí uy lực. Hạm đội Đông Hải còn có 7 tàu ngầm hiện đại chạy bằng diesel (trong đó có 4 tàu của Nga), có khả năng thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ chiến đấu, gồm lần tìm kẻ thù trên mặt biển và cả dưới nước, tiêu diệt kẻ thù bằng các tên lửa chống tăng và ngư lôi, và đặt mìn.
Tuy nhiên, Hạm đội Đông Hải vẫn thiếu các lực lượng chống ngầm hiệu quả. Cần nhớ rằng các tàu mang tên lửa của Trung Quốc (không rõ số lượng trong khu vực là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không dưới con số 20) sẽ không cho phép các tàu nổi của Nhật tiếp cận bờ biển.
Nhiều người sẽ cho rằng trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột liên quan đến Senkaku/ Điếu Ngư, một phần Hạm đội Nam Hải cũng sẽ tham gia tác chiến, và làm suy yếu hoàn toàn sức mạnh có vẻ như vượt trội của Nhật Bản trên biển. Các tàu tân tiến nhất của hạm đội này được trang bị các hệ thống tương đương hệ thống đa năng Ageis và có khả năng tiêu diệt các mục tiêu kẻ thù cả trên không lẫn trên biển ngoài tầm bắn của vũ khí Nhật.

Cân bằng hải quân 

Tính tổng cộng, hai hạm đội có 20 tàu đổ bộ gồm các loại khác nhau, tuy nhiên, triển vọng về một chiến dịch độ bộ quy mô lớn lên quần đảo Senkaku/ Điếu ngư là ít có khả năng.
Về các tàu thuộc Hạm đội Bắc Hải, Trung Quốc có thể sẽ quyết định giữ nguyên chúng trong căn cứ. Ngoại lệ duy nhất là các tàu ngầm hạt nhân đa năng.
Hiện không có dữ liệu chính thức về số lượng tàu ngầm hạt nhân mới mà Hải quân Trung Quốc đang có trong tay (có lẽ là 3 chiếc) và mức độ sẵn sàng chiến đấu của 4 tàu ngầm cũ. Tuy nhiên, có thể đoán ít nhất 2 tàu ngầm sẽ tham gia vào một nỗ lực nhằm phá vỡ các hoạt động tiếp tế cho Okinawa.
Tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc hiện nay vẫn đang trong quá trình thử nghiệm và vẫn chưa thể được xem như đã tham gia nhiệm vụ chiến đấu.
Vì vậy, trong một cuộc xung đột quy mô lớn giữa Trung Quốc và Nhật Bản gần Senkaku/ Điếu Ngư, nếu không có bên thứ 3 tham gia, chiến thắng gần như sẽ về tay Trung Quốc, nhưng tổn thất sẽ rất cao.
Kết luận này có thể được đưa ra chủ yếu dựa trên lợi thế của Trung Quốc về số lượng cả trên biển lẫn trên không, cũng như các nguồn dự phòng lớn của nước này, với các vũ khí và hệ thống chiến đấu có năng lực tương đương hoặc vượt trội hơn. Tất cả những lợi thế trên vượt xa khả năng tổ chức và quản lý vốn rất xuất sắc của người Nhật.  
Nếu chiến tranh Đông Bắc Á nổ ra, một trong những kịch bản được dự đoán là Nhật thất bại, chấp nhận Bắc Kinh là bá chủ mới và quay lưng với Mỹ.
Nếu Mỹ can dự?
Nếu một cuộc xung đột nổ ra ở Đông Bắc Á, khả năng lớn nhất là Mỹ sẽ hỗ trợ quân sự cho Nhật Bản. Vấn đề quan trọng chủ chốt ở đây là Mỹ sẽ can thiệp vào xung đột như thế nào?
Trước hết, có thể Washington sẽ có một lựa chọn chừng mực hơn và phái một "lực lượng kiểm soát" tới khu vực, chứ không can thiệp trực tiếp và làm Trung Quốc nguôi đi đôi chút. Cùng lúc đó, bằng cách thực hiện một cuộc tập trận quy mô lớn ở Biển Đông, Hải quân Mỹ sẽ ngăn được Hạm đội Nam Hải tiến vào khu vực Senkaku. Điều này sẽ mang lại lợi thế cho Nhật, thậm chí cân bằng cơ hội hai bên.
Nếu các biện pháp trên tỏ ra không hiệu quả và phía Trung Quốc vẫn chiếm ưu thế, thì Washington sẽ phải chọn cách can thiệp quân sự trực tiếp để giúp Nhật khỏi thua. Một quyết định như thế sẽ cần đến Hạm đội 7 của Mỹ, vốn đã được triển khai ở Yokosuka, Sasebo và Guam, cũng như Căn cứ Không quân Andersen (trên đảo Guam).
Do đang có ưu thế vũ trang chiến lược tuyệt đối so với Trung Quốc, Mỹ có thể viện đến một hành động chứng tỏ họ không dễ bị đánh bại, bao gồm các cuộc không kích và tấn công bằng tên lửa hành trình nhằm vào các sân bay và căn cứ hải quân.
Tiềm lực hiện nay của Không quân và Hải quân Trung Quốc rõ ràng là chưa đủ để đương đầu với một cuộc tấn công chung Nhật - Mỹ.
Hải quân và Không quân Mỹ rất dày dạn kinh nghiệm chiến đấu; vũ khí hạng nặng của Nhật có tiêu chuẩn tương đương Mỹ; hai nước thường xuyên tập trận chung. Vì vậy, cả hai sẽ không gặp khó khăn khi phối hợp hành động trên chiến trường.
Ngoài ra, Mỹ cũng có thể áp các đòn trừng phạt chính trị - ngoại giao và nhất là kinh tế lên Trung Quốc, tới quy mô một lệnh cấm vận chính thức về thương mại và sự bao vây trên biển.
Vì kinh tế Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào thương mại với Mỹ, đặc biệt là vào các nguồn cung dầu lửa và khí đốt bằng đường biển, bao vây kinh tế có thể trở thành công cụ hiệu quả. Tuy nhiên, nếu chọn cách này, người Mỹ có thể sẽ gặp khó khăn hơn nhiều so với việc tham gia một cuộc xung đột quân sự với Trung Quốc.
Do tầm quan trọng của Trung Quốc đối với nền kinh tế toàn cầu và với Mỹ, một lệnh cấm vận thương mại theo thời gian có thể biến thành con dao hai lưỡi.
Hoa Đông, Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Bắc Á, hải quân, không quân, cường quốc, ADIZ
Binh sĩ Mỹ - Nhật trong một cuộc tập trận chung. Ảnh: Kyodo
Các viễn cảnh trung hạn
Sẽ vô cùng khó đoán định về các viễn cảnh của một cuộc xung đột Trung - Nhật (với khả năng Mỹ can dự) trong khoảng thời gian 10 hoặc 15 năm nữa. Đến lúc đó, Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi tiềm lực quân sự của nước này (cả về số lượng lẫn chất lượng).
Còn quân đội Nhật Bản có thể sẽ vẫn giậm chân tại chỗ.
Nhiều khả năng nhất là Mỹ sẽ cải thiện ở một mức độ nào đó năng lực quân sự của họ ở tây Thái Bình Dương. Tuy nhiên, do hạn chế ngân sách, nước này sẽ khó mà nâng cao các năng lực quân sự của mình.
Vì vậy, về dài hạn, cán cân quyền lực rõ ràng sẽ thay đổi có lợi cho Trung Quốc.
Rốt cuộc sẽ thế nào?
Có thể sẽ có rất nhiều hậu quả của xung đột, nhưng bài viết này tập trung vào 5 viễn cảnh cơ bản:

1. Trung Quốc thất bại và bắt đầu sự đối đầu lưỡng cực
Nếu vậy, chủ nghĩa dân tộc cũng như tâm lý chống Nhật và bài Mỹ trỗi dậy thậm chí mạnh mẽ hơn ở Trung Quốc. Tìm cách trả thù, Trung Quốc sẽ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc chiến mới. Trật tự quốc tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ hình thành một hệ thống lưỡng cực đối đầu (Trung Quốc chống lại khối Mỹ, Nhật Bản và các đồng minh), cân bằng bên bờ vực một cuộc chiến.
2. Trung Quốc thất bại và thay đổi chế độ. Một sự thất bại quân sự chí mạng sẽ đóng vai trò như chất xúc tác, dẫn tới sự chuyển đổi hoàn toàn chế độ chính trị và sẽ hình thành một chính quyền gồm các lực lượng chính trị mới gắn với các quan điểm dân chủ hơn, tuy không kém phần dân tộc chủ nghĩa.
3. Kéo theo một cuộc chiến mới
Nhật Bản sẽ tiếp tục nắm quyền kiểm soát đối với quần đảo tranh chấp, nhưng Hải quân và Không quân Trung Quốc sẽ gây tổn thất đáng kể cho quân liên minh Nhật - Mỹ mà vẫn tránh được những thiệt hại thảm khốc. Với kịch bản này, các bên đều có thể tuyên bố chiến thắng. Sau đó, nhiều khả năng nhất là thế lưỡng cực đối đầu ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ càng lớn và cả hai phía bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc xung đột mới.
4. Trung Quốc thắng và Nhật Bản bại. Viễn cảnh này có thể trở thành hiện thực nếu Mỹ từ chối hỗ trợ quân sự cho Nhật Bản, và Trung Quốc tiếp quản quyền kiểm soát đối với quần đảo tranh chấp.
Sau đó thì có 3 lựa chọn có thể:
Thứ nhất. Thất bại sẽ càng tiếp sức cho chủ nghĩa dân tộc và tâm lý trả thù ở Nhật Bản. Tokyo sẽ rút khỏi liên minh với Mỹ vì quan hệ này chứng tỏ vô dụng. Họ cũng sẽ giải phóng mình khỏi những hạn chế quân sự tự áp đặt, có thể tới mức độ chế tạo vũ khí hạt nhân và sẽ bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc đối đầu khốc liệt và dài hơi với Trung Quốc. Một hệ thống tam cực sẽ nổi lên ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, với Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ chốt giữ mỗi cực.

Thứ 2. Thất bại này khiến Nhật Bản thấy đối đầu tiếp là vô ích. Giống như thất bại trong cuộc chiến với Mỹ ở Thái Bình Dương buộc Nhật phải công nhận uy thế của Washington, Nhật Bản sẽ chấp nhận Bắc Kinh là bá chủ mới của mình và sẽ quay lưng với Mỹ. Một số thành viên trong tầng lớp tinh hoa Nhật Bản hiện đã nói đến việc tham gia quỹ đạo ảnh hưởng chiến lược của Trung Quốc.
Thứ 3. Chịu cú sốc thất bại, Nhật Bản sẽ mất những gì còn sót lại trong niềm tin của nước này về sức mạnh của một nước và sẽ đặt mình vào sự bảo hộ của Mỹ. Khả năng lớn nhất là điều này sẽ góp phần vào thế lưỡng cực "Bắc Kinh vs Washington" ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tương tự viễn cảnh thứ nhất.

5. Cộng đồng an ninh
Xung đột - vốn gây thiệt hại vật chất to lớn cho tất cả các bên - sẽ hóa ra chỉ là một kinh nghiệm cho tất cả, không quan trọng ai đã tuyên bố chiến thắng.
Tokyo và Washington sẽ nhận ra rằng Trung Quốc đã trở thành một nước thực sự hùng mạnh và có thể gây thiệt hại lớn cho kẻ thù, ngay cả nếu họ không sử dụng tối đa năng lực quân sự.
Bắc Kinh sẽ nhận ra họ không nên đánh giá thấp quyết tâm của Nhật Bản (với sự hỗ trợ của Mỹ) trong việc bảo vệ các lợi ích quốc gia của nước này.
Cả hai bên đều sẽ nhận ra xung đột có thể dễ dàng leo thang, thậm chí tới mức độ sử dụng vũ khí hạt nhân, ranh giới đặt sự tồn tại của chính họ vào nguy hiểm.
Cuộc khủng hoảng ở biển Hoa Đông sẽ đóng vai trò như một bước ngoặt, giống như cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba giữa Mỹ và Liên Xô, và sẽ đẩy nhanh sự xuất hiện của một "cộng đồng an ninh" hòa bình trong khu vực.

Sam Nguyễn(Theo RBTH)
-----
Về các tác giả bài viết:
Andrey Gubin: Tiến sĩ về Các nghiên cứu Chính trị, Giám đốc Các chương trình Nghiên cứu tại Trung tâm châu Á - Thái Bình Dương thuộc Viện Các nghiên cứu chiến lược Nga, Phó Giáo sư thuộc Khoa Quan hệ Quốc tế trường Đại học Liên bang viễn Đông.
Artem Lukin: Tiến sĩ về Các nghiên cứu Chính trị, Phó Giáo sư tại Khoa Quan hệ Quốc tế, Phó Hiệu trưởng trường Các nghiên cứu Quốc tế và Khu vực thuộc Đại học Liên bang Viễn Đông. 
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/153308/neu-nhat-ban-nhan-bac-kinh-lam--ba-chu--moi.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét