Thứ Hai, 3 tháng 12, 2012

Tàu ngầm trong chiến tranh


Trải qua chặng đường hình thành và phát triển từ nhiều thế kỷ, tàu ngầm đã dần chứng minh được vai trò là một vũ khí lợi hại trong tác chiến hải quân.
(ĐVO) Lịch sử phát triển tàu ngầm
Khái niệm về một chiếc thuyền có khả năng hoạt động dưới nước được hình thành khá lâu dài, bắt đầu từ hình ảnh những  người thợ lặn sử dụng các gậy rỗng để săn bắt dưới nước thời cổ đại.

Ứng dụng khái niệm lặn dưới nước được sử dụng trong quân sự lần đầu tiên trong cuộc bao vây Syracuse khoảng năm 413 trước công nguyên. 

Khái niệm sơ khai về tàu ngầm được ghi nhận trong một bức tranh Hồi giáo từ thế kỷ 16 ghi nhận hình ảnh Alexander Đại đế được thả xuống nước trong một chiếc ly chìm.
Trên thực tế, chiếc tàu ngầm đầu tiên được đóng thành công vào năm 1620 bởi William Bourne. 

Còn chiếc tàu ngầm đầu tiên được sử dụng cho mục đích quân sự được đóng vào năm 1775 trong Cách mạng Mỹ. Tàu được đặt tên là Turtle được thiết kế bởi David Bushnell. Tàu ngầm Turtle có thiết kế hình quả trứng được sử dụng để đặt mìn và chất nổ tại các khu vực bến cảng.
Turtle là chiếc tàu ngầm sơ khai đầu tiên được sử dụng cho mục đích quân sự.
Tàu ngầm cũng được sử dụng nhiều trong cuộc nội chiến Mỹ. Có thể nói, Mỹ là quốc gia đầu tiên sử dụng tàu ngầm trong chiến tranh. Điều này góp phần đưa Mỹ thành cường quốc hàng đầu thế giới về tàu ngầm như hiện nay.

Tàu ngầm đã được sử dụng một cách nhỏ lẻ vào các cuộc chiến từ thế kỷ 16 cho đến thế kỷ 18. Tuy nhiên, do những hạn chế về mặt công nghệ tại thời điểm đó nên tàu ngầm vẫn không thể hiện được vai trò đáng kể nào.

Phải đến cuối thế kỷ 19 sự phát triển của động cơ diesel và động cợ điện cũng như sự phát triển của các công nghệ quang học như kính tiềm vọng đã tạo ra bước nhảy vọt trong  phát triển tàu ngầm.

Chiếc tàu ngầm đầu tiên sử dụng động cơ đốt trong khi nổi và động cơ điện khi chìm được thiết kế bởi một người Ireland tên là John Philip Holland vào giai đoạn 1876-1896. 

Chiếc tàu ngầm này được đặt tên theo nhà thiết kế và được gọi là tàu ngầm Holland Type VI.
Chiếc tàu ngầm này sau đó đã được mua bởi Hải quân Mỹ và được đặt tên là USS Holland. 

Tàu ngầm Holland Type VII sau đó đã được bán cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản và sử dụng trong chiến tranh Nga - Nhật  giai đoạn 1904-1905.
USS Holland là chiếc tàu ngầm điện-diesel chiến đấu đầu tiên đúng nghĩa
Tàu ngầm trong chiến tranh thế giới thứ nhất
Tàu ngầm bắt đầu được sử dụng một cách rộng rãi trong chiến tranh thế giới thứ I. Và ở đây phải nới tới việc, dù Mỹ là quốc gia đầu tiên sử dụng tàu ngầm trong chiến tranh nhưng Đức mới chính là quốc gia thiết kế được chiếc tàu ngầm có khả năng chiến đấu tốt nhất thời đó, tàu ngầm lớp U.

Sự tiến bộ của công nghệ động cơ diesel và động cơ điện đã tạo ra một sự kết hợp động cơ điện-diesel sử dụng cho tàu ngầm, các công nghệ này đã giúp cho tàu ngầm đạt tốc độ nhanh hơn và có thời gian ở dưới nước lâu hơn.

Cùng với sự tiến bộ của công nghệ chế tạo ngư lôi, loại tàu ngầm lớp U của người Đức chứng minh là một cỗ máy chết chóc thực sự.
Tàu ngầm lớp U9 của Đức đã trở thành nổi ám ảnh của Hải quân Hoàng gia Anh bởi khả năng tấn công bất ngờ của nó. 
Ở thời kỳ này, dù còn khá thô sơ và chưa thực sự tinh vi, nhưng các tàu ngầm U của Đức đã gây ra cho Hải quân Hoàng gia Anh những tổn thất  nặng nề. Tàu ngầm lớp U9 của Đức đã đánh chìm 3 tuần dương hạm của Hải quân Hoàng gia Anh chỉ trong vòng vài phút, trong tháng 9/1914.

Trong suốt thời gian diễn ra thế chiến thứ I tổng cộng có khoảng 5.000 tàu thuyền các loại với hơn 11 triệu tấn hàng hóa và 15.000 thường dân thiệt mạng do các cuộc tấn công của tàu ngầm U.

Sự thành công của tàu ngầm lớp U đã chứng minh tàu ngầm là một vũ khí lợi hại trong chiến tranh, đặc biệt tàu ngầm tỏ ra cực kỳ hiệu quả trong việc tấn công các tàu vận tải nhằm cắt đứt tuyến đường vận tải của đối phương. 

Chiến lược này tiếp tục được sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ 2 và cho đến ngày nay chiến lược này vẫn phát huy tối đa tác dụng của nó.
Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức đã sản xuất và đưa vào sử dụng tổng cộng 360 chiếc tàu ngầm, 178 chiếc bị mất trong cuộc chiến.  Anh có 77 tàu ngầm sử dụng trong chiến tranh và có đến 50 chiếc bị mất trong chiến tranh. Pháp có khoảng 62 chiếc tàu ngầm được sử dụng trong chiến tranh và chỉ có 12 chiếc bị mất. Nga bắt đầu cuộc chiến với 58 tàu ngầm, 24 chiếc bị mất trong chiến tranh.

Tác chiến chống tàu ngầm trong chiến tranh thế giới thứ nhất
Tại thời điểm đó, công nghệ trinh sát còn sơ khai và chưa phát triển, các hệ thống định vị âm thanh có tầm hoạt động hạn chế và độ chính xác không cao nên việc phát hiện ra tàu ngầm rất khó khăn. 

Hải quân các nước chỉ có thể phát hiện ra tàu ngầm khi đã bị tấn công, các biện pháp tấn công đáp trả củng rất hạn chế.
Thả một lượng lớn bom chống ngầm là biện pháp được sử dụng phổ biến nhất trong tác chiến chống ngầm hồi thế chiến thứ I.
Biện pháp chống ngầm thời đó chủ yếu là sử dụng thủy lôi phong tỏa các bến cảng, thả bom chống ngầm, thả lưới để  vướng vào chân vịt tàu ngầm.. 

Khi phát hiện tàu ngầm, các tàu chiến thời đó thường thả một lượng lớn bom chống ngầm xuống dưới nước để tiêu diệt tàu ngầm theo kiểu xác suất xung quanh khu vực phát hiện ra tàu ngầm.

Chỉ cần một quả bom nổ gần tàu ngầm cộng với áp lực nước biển sẽ gây ra thiệt hại nặng cho tàu ngầm, thậm chí phá hủy, song hiệu quả tác chiến của biện pháp này không cao.

Tuy nhiên, tàu ngầm thời đó có thời gian ở dưới nước không lâu nên cũng dễ bị tiệu diệt khi buộc phải nổi lên để lấy không khí và sạc pin cho động cơ điện. Gần 300 chiếc tàu ngầm bị đánh chìm trong chiến tranh thế giới thứ nhất đã cho thấy tính dễ bị tổn thương của phương tiện này.

Những tổn thất do tàu ngầm gây ra buộc Hải quân Hoàng gia Anh gấp rút thực hiện đồ án phát triển các công nghệ chống ngầm. 

Hệ thống định vị âm thanh phát hiện tàu ngầm ASDIC được các kỹ sư Anh phát triển thành công vào năm 1917, tuy nhiên nó không kịp hoàn thành để sử dụng trong thế chiến thứ nhất. 

Hệ thống ASDIC sau đó đã được chuyển giao cho Hải quân Mỹ và trở thành "hệ thống định vị âm thanh chống ngầm tiêu chuẩn" trong suốt thời gian diễn ra thế chiến thứ 2. 

Trên cơ sở ASDIC các kỹ sư Mỹ đã phát triển các công nghệ sonar cho riêng mình tạo tiền đề cho sự phát triển của các hệ thống sonar tinh vi ngày nay.

Sự thành công của tàu ngầm trong chiến tranh thế giới thứ nhất và đã chứng minh được tàu ngầm là một cổ máy chết chóc. Sự thành công của tàu ngầm lớp U đã tạo tiền đề cho sự phát triển ồ ạt của các loại tàu ngầm sau này và trong chiến tranh thế giới thứ hai đã ghi nhận cuộc chạm trán lớn nhất lịch sử loài người giữa các tàu ngầm và tàu chiến mặt nước.

Hơn 40 triệu tấn hàng hóa cùng hàng ngàn tàu chiến bị đánh chìm đã cho thấy giá trị chiến lược mà tàu ngầm mang lại đối với toàn cục.
(ĐVO) Chạm trán trên Đại Tây Dương
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Hiệp ước Versailles hạn chế việc phát triển hải quân mặt nước. Đức là một trong những nước chịu ảnh hưởng của điều khoản này. Phải tới một năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức mới bắt tay xây dựng lại hạm đội tàu chiến mặt nước.

Vì vậy, khi bắt đầu cuộc chiến mới, Hải quân Đức quá nhỏ bé để có thể thách thức Hải quân Hoàng gia Anh bằng một cuộc chiến tranh quy ước. Dù vậy, nước này vẫn nắm trong tay một quân bài lợi hại khác: tàu ngầm.

Hải quân Đức bắt đầu thế chiến thứ hai với 65 tàu ngầm trong đó có 21 chiếc đang hoạt động trên biển khi chiến tranh nổ ra. Nửa đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, Hải quân Đức đã sử dụng khá hiệu quả tàu ngầm và đã đạt được thắng lợi lớn.
Các cuộc tấn công của tàu ngầm U vào đội tàu vận tải đã gây cho lực lượng Đồng những tổn thất to lớn. Khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất,
Đô đốc Donitz's chỉ huy lực lượng tàu ngầm Đức đề xuất một chiến thuật hoàn toàn mới so với thời kỳ đó. Thay vì đối đầu trực tiếp với hạm đội hùng hậu của Hải quân Hoàng gia Anh với khả năng chiến thắng rất thấp, ông này dùng các tàu ngầm của mình tấn công cắt đứt con đường vận tải chiến lược, qua đó suy giảm sức mạnh của nước Anh. 

Đầu tiên, Hải quân Đức sử dụng máy bay trinh sát do thám trên khắp Đại Tây Dương, chuyển thông tin về vị trí của tàu vận tải Anh cho lực lượng tàu ngầm. Lực lượng này sẽ tiếp cận và chờ đợi thời cơ (thường vào ban đêm, khi tầm quan sát trên biển gần như bằng 0) để tấn công.

Chiến lược này của Hải quân Đức đã phát huy tối đa tác dụng mang lại lợi thế rất lớn cho Đức trên nhiều mặt trận khác nhau. 

Trong suốt cuộc chiến hơn 5.150 tàu thuyền các loại bị đánh chìm, 21,57 triệu tấn hàng hóa bị mất mát. Riêng tàu ngầm lớp U đánh chìm 2.828 tàu thuyền các loại và 14,69 triệu tấn hàng hóa. Trong đó, lực lượng Đồng minh mất 178 tàu chiến, 6 tàu sân bay, 2 thiết giáp hạm.

Thành công của lực lượng tàu ngầm thúc đẩy Đức ngưng chương trình đóng mới thiết giáp hạm lớp Bismarck và các tàu tuần dương để tập trung nguồn lực cho xây dựng hạm đội tàu ngầm. Trong suốt thời gian chiến tranh, có tất cả 1.158 tàu ngầm đã được đóng mới và đưa vào sử dụng. Khi đó, Hải quân Đức trở thành lực lượng có hạm đội tàu ngầm lớn nhất thế giới.
Săn lùng và tấn công các tàu vận tải đã mang lại cho Đức nhiều lợi thế chiến lược trong nửa đầu thế chiến thứ II, trong ảnh một chiếc tàu quân sự của lực lượng Đồng minh qua kính tiềm vọng của tàu ngầm Đức.
Cái giá của chiến thắng và sai lầm của Đức
Cuộc tấn công của hạm đội tàu ngầm U nhắm vào con đường vận tải chiến lược của lực lượng Đồng minh gián tiếp gây ra những tổn thất nghiêm trọng cho cả sản xuất củng như cục diện trên chiến trường.

Đến tháng 7/1943 thiệt hại của lực lượng Đồng minh đã vượt quá năng lực sản xuất. Thất bại này bộc lộ điểm yếu lớn trên con đường vận tải chiến lược cũng như công tác hộ tống.

Để đối phó với chiến lược tàu ngầm của Hải quân Đức, Đồng minh dẫn đầu là Mỹ đã chi hàng trăm tỷ USD để xây dựng lực lượng chống ngầm và tăng cường đội tàu hộ tống cho các tàu vận tải. Đồng thời, tăng cường năng lực sản xuất để lấp đầy các khoảng trống trong vận tải do tổn thất từ các cuộc tấn công của tàu ngầm U.
Nỗ lực này khiến cái giá mà người Đức phải trả cho chiến thắng này không rẻ chút nào. 785 tàu ngầm của Đức đã bị đánh chìm trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh.
Từ kẻ săn mồi tàu ngầm U trở thành con mồi trong nửa cuối thế chiến thứ II, trong ảnh một chiếc tàu ngầm U đang bị tấn công từ trên không.
Việc chỉ tập trung vào phát triển hạm đội tàu ngầm mà không phát triển hạm đội tàu chiến mặt nước Đức cũng dẫn tới những thất bại chiến lược.

Ban đầu, khi lực lượng Đồng minh chưa có biện pháp chống ngầm và bảo vệ các tàu vận tải hiệu quả nên chiến lược tàu ngầm của Đức đã phát huy tối đa tác dụng.
Tuy nhiên, mọi việc đã thay đổi khi Đồng minh tập trung đầu tư phát triển các phương tiện chống ngầm. Điển hình là hệ thống định vị âm thanh ASDIC do Anh phát triển. Hệ thống này chuyển cho Mỹ và được đã phát triển thành các hệ thống sonar hiệu quả.

Một sai lầm nữa của Hải quân Đức được ghi nhận là sử dụng các kênh liên lạc giữa tàu ngầm và máy bay trinh sát bằng máy mã hóa nổi tiếng Enigma. Người Đức không hay biết rằng, các thông tin liên lạc đã bị lực lượng Đồng minh hóa giải. 

Thông tin liên lạc bị lộ, tàu ngầm lại bị phát hiện dễ dàng bởi các hệ thống trinh sát hiệu quả, cùng với đó, không nhận được sự hỗ trợ của các hạm đội mặt nước nên lực lượng tàu ngầm bị hải quân của Đồng minh bao vây tiệu diệt. Tàu ngầm lớp U từ “kẻ săn mồi biến thành con mồi”.

Tuy chiến lược tàu ngầm của Hải quân Đức thất bại, song vẫn không hề giảm đi tính thời sự. Tấn công tuyến đường vận tải chiến lược của đối phương bằng tàu ngầm với chiến thuật “bắn-chạy” (hit and run) tối ưu với hải quân các nước yếu.

Vận dụng khéo léo sự phối hợp giữa lực lượng tàu ngầm và tàu chiến mặt nước đã mang lại cho Hải quân Mỹ chiến thắng toàn cục trên biển.
(ĐVO) Tàu ngầm trong chiến tranh (Kỳ 3): Chạm trán ở Thái Bình Dương
Sử dụng tàu ngầm khôn ngoan
Bước vào chiến tranh thế giới thứ 2, Hải quân Đế quốc Nhật được đánh giá là một trong những lực lượng hải quân hàng đầu thế giới lúc đó. Tiếng tăm của lực lượng này thậm chí càng trở nên lớn hơn sau sự kiện Trân Châu Cảng.
Trước đó, không một quốc gia nào dám đối đầu và thách thức lực lượng hải quân hùng mạnh của Mỹ. Hải quân Nhật đã dám làm điều không ai dám: Giáng cho Mỹ một đòn chí mạng. Sự kiện Trân Châu Cảng được ghi nhận là tổn thất lớn nhất trong lịch sử Hải quân Mỹ.
Tuy nhiên cũng chính nhờ sự kiện Trân Châu Cảng, nước Mỹ chính thức từ bỏ chủ nghĩa biệt lập sang can dự trên phạm vi toàn cầu và lực lượng hải quân nước này cũng chuyển hướng theo để đáp ứng yêu cầu chiến lược mới. Hệ thống vũ khí ngay lập tức có thể đáp trả Hải quân Nhật Bản chính là lực lượng tàu ngầm.
Tuy không đông đảo như của Đức song chiến lược tàu ngầm của Mỹ là rất hợp lý và chiến thắng là điều tất yếu.

Tuy không đông đảo như của Đức song chiến lược tàu ngầm của Mỹ là rất hợp lý và chiến thắng dường như là tất yếu.
Khi đó, Tổng thống Mỹ  Roosevelt đã quyết định “không hạn chế chiến tranh tàu ngầm”. Tuy nhiên, Hải quân Mỹ đã vận dụng một chiến lược hoàn toàn mới, họ sử dụng tàu ngầm như một lực lượng mũi nhọn chứ không coi đây là lực lượng tấn công chính như người Đức.
Tàu ngầm có lợi thế là có thể tung ra đòn tấn công bất ngờ gây thiệt hại nặng cho đối phương, tuy nhiên, tàu ngầm có điểm yếu là gần như không có khả năng phòng vệ. Do đó, tàu ngầm chỉ sử dụng như một lực lượng đột kích cản trở, phá hoại hoặc gián tiếp phá hoại chiến lược của đối phương.
Trong suốt chiến tranh thế giới thứ 2, Hải quân Mỹ chỉ có tổng cộng 288 tàu ngầm trên khắp các mặt trận song với chiến thuật khéo léo đã mang lại cho Mỹ chiến thắng toàn cục.
Lực lượng tàu ngầm của Hải quân Mỹ được giao 2 nhiệm vụ, tấn công đội tàu vận tải cũng như hạm đội tàu chiến Nhật Bản khi có cơ hội. Trong cả hai nhiệm vụ, lực lượng tàu ngầm Mỹ đã khai thác tối đa thông tin rò rỉ trong hoạt động liên lạc giữa các tàu chiến của Nhật Bản để chọn thời điểm tấn công hợp lý nhất.
Tuyến vận tải biển chiến lược của Nhật Bản quá đơn giản và quá dể bị tổn thương trước cuộc tấn công của tàu ngầm, trong ảnh một tàu vận tải của Nhật Bản bị chìm sau khi trúng ngư lôi của tàu ngầm Mỹ.

Bên cạnh đó, Hải quân Mỹ đã vận dụng tốt học thuyết Mahanian trong chiến tranh hải quân, tức tăng cường sự phối hợp giữa lực lượng tàu ngầm và tàu tuần dương hạm để bảo vệ những lợi ích chiến lược từ xa. Trong chiến lược này, lực lượng tàu chiến mặt nước sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc bảo vệ cho tàu ngầm, các tàu ngầm không ở quá xa so với các tàu chiến mặt nước.
Hạm đội tàu chiến của đối phương sẽ không có nhiều thời gian rãnh rỗi để truy sát tàu ngầm vì nó phải lo đối phó với lực lượng tàu chiến mặt nước của đối phương. Trong khi đó, các tàu ngầm U của Đức quá lẻ loi trên biển.
Cắt nguồn sống của Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia nghèo nàn về tài nguyên, 70% nguyên liệu cho sản xuất của đất nước xứ sở mặt trời mọc phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Năng lực sản xuất của Nhật Bản phụ thuộc vào năng lực nhập khẩu. Đó chính là điểm yếu chết người của Nhật Bản bị Mỹ tăng cường khai thác.
Mỹ đã thực hiện một chiến lược vô cùng "độc" và dồn Nhật Bản vào còn đường cùng, một mặt họ phong tỏa việc nhập khẩu nguyên liệu từ châu Âu buộc Nhật Bản phải tập trung vào việc nhập khẩu nguyên liệu từ khu vực châu Á mà cụ thể là Đông Nam Á, toàn bộ tàu vận tải biển của Nhật Bản chỉ có một con đường duy nhất để đưa nguyên liệu về nước qua eo biển Phillippines.
Tàu ngầm Darter có tham gia vào trận chiến vịnh Leyet.
Tuyến vận tải biển chiến lược của Nhật Bản quá đơn giản và quá dể bị tổn thương trước cuộc tấn công của tàu ngầm.
Số phận của tuyến vận tải biển chiến lược này của Nhật Bản đã được quyết định sau trận chiến Vịnh Leyte, một trong những trận hải chiến lớn nhất lịch sử loài người. Thất bại tại trận chiến Leyte, số phận của Nhật Bản coi như đã được quyết định, vấn đề chỉ là thời gian.
Từ khi Hải quân Mỹ gia tăng các hoạt động tấn công đội tàu vận tải năng lực sản xuất của nền kinh tế Nhật Bản cũng bắt đầu sụt giảm theo (*). Không thể bảo vệ được tuyến vận tải biển chiến lược, thất bại của Nhật Bản là điều không thể tránh khỏi. Cuối năm 1944, Nhật Bản tuyên bố “ Vận tải biển bị mất hoặc hư hỏng kể từ khi bắt đầu chiến tranh thế giới thứ 2 đã trở thành nguyên nhân chính dẫn đến sự nghèo đói của đất nước”
Bên cạnh sự thiệt hại về nguyên liệu dành cho sản xuất, cuộc tấn công của tàu ngầm Mỹ vào đội tàu vận tải dầu Nhật Bản là nguyên nhân thứ 2 trong việc tiêu diệt năng lực quân sự nước này.
Nhập khẩu dầu thô của Nhật Bản giảm từ 1,75 triệu thùng/tháng trong tháng 8/1943 xuống còn 360.000 thúng/tháng  vào tháng 7/1944, đến tháng 10/1944 nhập khẩu còn sụt giảm nhiều hơn do các thất bại trên khắp chiến trường Phillippines. Kể từ tháng 9/1943  tỷ lệ dầu thô vận chuyển thành công từ các vùng biển phía Nam đến Nhật Bản không bao giờ vượt quá 28%, thậm chí trong 15 tháng cuối cùng của chiến tranh con số này không vượt quá 9%. Trong khi đó, Hải quân Nhật Bản yêu cầu đến 1,6 triệu thùng/tháng để hoạt động, Hải quân Nhật Bản trở nên tuyệt vọng  trước chiến lược Guerre (chiến lược tấn công thương thuyền được khởi xướng từ thế kỷ 19) của Hải quân Mỹ.
Những thiệt hại liên tiếp trong vận tải biển khiển Hải quân Nhật Bản lâm vào khủng hoảng và họ không tìm ra được phương án nào để bảo vệ cho tuyến đường vận tải biển chiến lược. Thậm chí, Nhật Bản trở nên túng quẩn khi sử dụng thiết giáp hạm để chuyển dầu thô về nước trong khi nhiệm vụ của nó là phải ngăn chặn tàu chiến đối phương tấn công vào tuyến đường vận tải biển.
Trong những cuộc chạm trán trên Thái Bình Dương, lực lượng tàu ngầm Mỹ đã đánh chìm 8 tàu sân bay, 1 thiết giáp hạm, 11 tàu tuần dương của Hải quân Nhật Bản. Trong số 288 tàu ngầm Mỹ trên khắp các mặt trận 52 chiếc bị đánh chìm, trong đó có tới 48 chiếc bị đánh chìm ở Thái Bình Dương, thủy thủ tàu ngầm Mỹ phải chịu tỷ lệ tổn thất cao nhất trong quân đội Mỹ với 22% thiệt mạng.
Trong thiệt hại tổng thể của Hải quân Nhật Bản có đến 30% thiệt hại do tàu ngầm Mỹ gây ra, lực lượng tàu ngầm Mỹ đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm suy yếu năng lực tác chiến của Hải quân Nhật Bản. Những thiệt hại trước các cuộc tấn công của tàu ngầm đã làm tăng quá trình sửa chữa tại các nhà máy đóng tàu quân sự Nhật Bản, điều này triệt tiêu cơ hội đóng mới các tàu chiến.
Trong năm 1943, Hải quân Nhật Bản chỉ dành 12% ngân sách cho công tác sửa chữa, tuy nhiên con số này tăng lên đến 34% vào năm 1945. Ngoài ra, việc tăng cường đóng mới các tàu vận tải thay thế cho các tàu bị đánh chìm dẫn đến giảm khả năng đóng mới tàu chiến.
Vào năm 1942 các nhà máy đóng tàu tư nhân tham gia vào đóng tàu quân sự chiếm đến 44%, tuy nhiên con số này giảm xuống chỉ còn 30% vào năm 1943. Bên cạnh đó, việc buộc phải tăng cường đóng mới tàu hộ tống đã làm giảm quỹ thời gian và ngân sách để đóng mới các tàu chiến mạnh mẽ hơn.
Đến năm 1944, các nhà máy đóng tàu Nhật Bản gần như không còn thép để đóng mới tàu chiến và tàu vận tải các loại. Năng lực sản xuất gần như bằng 0 vì không có nguyên liệu trong khi đó Nhật Bản không có tuyến vận tải nào khác để bù đắp ngoài vận tải biển thất bại của Nhật Bản là điều khó tránh khỏi.
Cũng sử dụng chiến lược tấn công tuyến vận tải biển như chiến lược mà Đức đã sử dụng trong nữa đầu chiến tranh thế giới thứ 2 song với chiến lược và chiến thuật hợp lý không phụ thuộc quá nhiều vào tàu ngầm, Hải quân Mỹ đã giành được chiến thắng tối đa với thiệt hại tối thiểu.
Năng lực nhập khẩu của Nhật Bản vào năm 1941 đạt con số 20 triệu tấn/năm con số này đã giúp cho Nhật Bản xây dựng được nền công nghiệp quân sự và dân sự hùng mạnh. Tới năm 1944, sản lượng nhập khẩu giảm xuống chỉ còn 10 triệu tấn/năm. Thậm chí, trong 6 tháng đầu năm 1945, sản lượng nhập khẩu chỉ đạt 2,7 triệu tấn.
Không thể bảo vệ được tuyến vận tải biển chiến lược, thất bại của Nhật Bản là điều không thể tránh khỏi.

Nhập khẩu Bauxite  giảm đến 88%  giữa mùa hè năm 1944, đến năm 1945 nhập khẩu phôi thép giảm đến 89%, bột giấy 90%, nguyên liệu bông và len 91%, chất béo và dầu 92%, quặng sắt 95%, xi măng 96%, gỗ 98%, thức ăn gia súc 99%.
Việc sụt giảm nghiêm trọng năng lực nhập khẩu đã ảnh hưởng đến các vấn đề về lương thực trong nước. Các báo cáo ghi nhận trong năm 1944 lượng calo giảm 12% so với yêu cầu tối thiểu dành cho dân số phi nông nghiệp.



936 tàu ngầm trong đó có 401 chiếc tàu ngầm hạt nhân đã tham gia vào một cuộc chạm trán tuy không tiếng súng nhưng không kém phần ác liệt suốt thời gian chiến tranh lạnh.
(ĐVO) Tàu ngầm trong chiến tranh (kỳ 4): Cuộc chiến không tiếng súng dưới biển

Một xuất phát điểm, hai hướng phát triển
Kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2 cả Mỹ và Liên Xô, Anh đều có được một số mẫu tàu ngầm Type-XXI lớp U hiện đại nhất. Thật ngạc nhiên công nghệ của những tàu ngầm này rất tiên tiến và gần như không có đối thủ, thật may là những tàu ngầm này không kịp tham chiến. Trên cơ sở những mẫu tàu ngầm này, Mỹ, Liên Xô đã phát triển và xây dựng hạm đội tàu ngầm hùng hậu của mình theo quan điểm tác chiến của từng quốc gia.
Liên Xô đã nắm bắt các công nghệ từ tàu ngầm Type-XXI tốt hơn Mỹ và kết quả là sự ra đời của tàu ngầm dự án 613 lớp Whiskey, trên cơ sở này Liên Xô tiếp tục nâng cấp và cho ra đời nhiều biến thể khác với các dự án 644, 665.

Mỹ phát triển một lối đi hoàn toàn khác trong thiết kế tàu ngầm, sự tiến bộ của công nghệ hạt nhân đã cho phép phát triển các lò phản ứng có kích thước nhỏ gọn, trang bị lò phản ứng hạt nhân trên tàu ngầm sẽ cho phép nó hoạt động mà không lo hết năng lượng. Tất nhiên, cả Mỹ và Liên Xô đều nhận thấy giá trị tiềm năng của động lực hạt nhân trong việc phát triển các hệ thống vũ khí mang tầm chiến lược trong đó có tàu ngầm.
Sự ra đời của tàu ngầm động lực hạt nhân đầu tiên USS-Nautilus đã đẩy Mỹ và Liên Xô vào cuộc đua khốc liệt trong phát triển tàu ngầm hạt nhân.

USS Nautilus (SSN-571) chiếc tàu ngầm đầu tiên trên thế giới sử dụng động cơ đẩy năng lượng hạt nhân đã mở ra một bước ngoặt lớn trong phát triển tàu ngầm trên thế giới. Không lâu sau đó, Liên Xô cũng cho ra đời tàu ngầm động lực hạt nhân đầu tiên của mình là Project 627 lớp November. Trong thiết kế này Liên Xô đã áp dụng một thiết kế hoàn toàn mới, lần đầu được sử dụng trên tàu ngầm đó là hệ thống mặt nạ âm thanh chống lại các loại sonar dò tìm tàu ngầm.
Bên cạnh đó, các tàu ngầm của Liên Xô được trang bị rất phong phú và đa dạng các loại tên lửa hành trình chống tàu, hạm đội tàu sân bay của Mỹ chính là đính ngắm của các tên lửa phóng từ tàu ngầm Liên Xô.
Trong khi Mỹ chỉ phát triển tàu ngầm động lực hạt nhân, Liên Xô phát triển song song cả tàu ngầm động lực hạt nhân và tàu ngầm điện diesel điều này đã tạo nhiều lợi thế cho Liên Xô trong cuộc chạm trán dưới mặt nước.
Hải quân Mỹ đã phát triển khả năng tấn công hạt nhân  trên các tàu sân bay và triển khai các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo Polaris vào đầu những năm 1960 đã tạo ra nhiều áp lực quân sự cho Liên Xô. Ngăn chặn và đáp trả tấn công hạt nhân trên biển đã trở thành nhiệm vụ tối cao của Hải quân Liên Xô.
Tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Delta mang lại cho Liên Xô khả năng răn đe hạt nhân ghê ghớm trên biển.

Không lâu sau đó, Liên Xô đưa vào sử dụng tàu ngầm hạt nhân chiến lược dự án 667A Yankee để lấy lại sự cân bằng đáng kể về khả năng tấn công hạt nhân trên biển. Sự xuất hiện của tàu ngầm SSBN Yankee đã làm suy yếu khái niệm chiến tranh chống ngầm (ASW) của Mỹ và đồng minh. Bởi những tàu ngầm hạt nhân của Liên Xô hoàn toàn có thể vượt qua hàng rào chống ngầm (SOSUS) của Mỹ và thực hiện nhiệm vụ tấn công hạt nhân vào lãnh thổ nước này.
Khả năng của những chiếc tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Liên Xô liên tục được cải thiện từ dự án 667A Yankee I/II đến Charlie I/II, Oscar I/II, Delta I/II/III/IV, Akula.. và trở thành trụ cột cho năng lực răn đe hạt nhân trên biển của Liên Xô, những tàu ngầm này cùng với tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Mỹ như  lớp Geoge Washington, Sturgeon, Los Angeles, Ohio.. trở thành những tàu ngầm có khả năng hủy diệt ghê gớm nhất thế giới.
Chiến tranh tình báo với tàu ngầm
Nhiệm vụ của những chiếc tàu ngầm hạt nhân chiến lược của đôi bên trong suốt thời gian chiến tranh lạnh là khá nặng nề, ngoài việc đảm bảo khả năng răn đe hạt nhân trên biển, những tàu ngầm này còn một nhiệm vụ tối quan trọng khác là thu thập thông tin tình báo.
Cả tàu ngầm Liên Xô và Mỹ đều cố gắng tiếp cận các tàu chiến của nhau để tìm hiểu về hệ thống vũ khí, độ ồn khi hoạt động của chân vịt, hệ thống radar và cách liên lạc giữa các đơn vị liên quan. Với Mỹ, họ triệt để thực hiện các hoạt động tình báo để phát hiện sự di chuyển rời cảng của các tàu ngầm hạt nhân Liên Xô, đặc biệt là từ căn cứ trên đảo Kola.
Na Uy được xem là tiền đồn trong việc cung cấp dấu vết hoạt động của các tàu ngầm hạt nhân Liên Xô qua biển Barent. Những tin tức từ Na Uy  được biết đến với tên mã là Sunshine sẽ cung cấp các thông tin cho hệ thống phát hiện tàu ngầm SOSUS được xây dựng dọc theo bờ biển Greeland, Iceland và Vương Quốc Anh.
Từ đầu những năm 1960, các vệ tinh do thám của Mỹ có thể xác định được thời điểm rời cảng của các tàu ngầm Liên Xô và lần theo dấu vết các tàu ngầm này trong suốt quá trình hoạt động trên biển. Với chiến lược này Mỹ tin rằng họ “dễ dàng áp đảo” các tàu ngầm hạt nhân Liên Xô trước một cuộc chiến tiềm năng.
Tuy nhiên, điều Mỹ không ngờ tới là vào cuối những năm 1960 Liên Xô đã xây dựng được nguồn tình báo hải quân có thể cung cấp một cách chi tiết hoạt động của các tàu ngầm hạt nhân chiến lược Mỹ, kế hoạch chiến tranh, thông tin liên lạc và chương trình SOSUS. Nguồn tin tình báo này chính là John A. Walker một chuyên gia về truyền thông hải quân có quyền truy cập mọi thông tin về tàu ngầm và kế hoạch tác chiến của Hải quân Mỹ và đồng minh.
Trên cơ sở những thông tin tình báo của Walker, Hải quân Liên Xô đã cơ cấu lại kế hoạch tác chiến của họ cũng như phát triển các hệ thống điện tử mới trên tàu ngầm hạt nhân và cho phép nó dễ dàng vượt qua các biện pháp chiến tranh chống ngầm của Mỹ. Trong một thời gian dài các tàu ngầm hạt nhân chiến lược Liên Xô có thể di chuyển trên biển mà không một tàu chiến nào của Mỹ và đồng minh có thể tấn công nó.
Các cuộc “va chạm nguội”
Các tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Liên Xô đã trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với Hải quân Mỹ trong suốt thời gian chiến tranh lạnh, mọi kế  hoạch xây dựng của Mỹ và đồng minh từ trước đều phải cơ cấu lại.
Hiểu rõ từng đường đi nước bước của nhau, các tàu ngầm hạt nhân đôi bên liên tục chạm trán và thực hiện hàng trăm lần trò chơi “mèo vờn chuột” trên biển. Những vụ va chạm tàu ngầm giữa đôi bên luôn được giữ kín. Tuy nhiên, theo thống kê, có 2 tàu ngầm hạt nhân của Mỹ và 4 tàu ngầm của Liên Xô đã bị chìm bởi những sự cố và tai nạn không loại trừ khả năng do các vụ va chạm xảy ra trên biển.
Số ít trong hàng trăm vụ va chạm được công bố là vụ va chạm giữa tàu sân bay USS-Kitty Hawk và tàu ngầm hạt nhân lớp Victor-I vào ngày 21/03/1984.
Tháng 10/1986 tàu ngầm USS-Augusta(SSN-710) đã va chạm với tàu ngầm hạt nhân chiến lược Delta-I của Liên Xô ở Đại Tây Dương khi tàu ngầm này thử nghiệm một hệ thống sonar mới.
 USS-Augusta(SSN-710).
Điều thú vị trong vụ va chạm này là tàu ngầm của Mỹ hoàn toàn không phát hiện được sự xuất hiện của tàu ngầm Liên Xô, với trọng lượng nhỏ hơn so với Delta tàu ngầm Augusta đã chịu thiệt hại nặng hơn và buộc phải quay về căn cứ trong khi tàu ngầm Liên Xô vẫn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ.
Các vụ va chạm tàu ngầm đôi bên thậm chí vẫn còn diễn ra sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, ngày 11/2/1992 tàu ngầm USS- Baton Rouge(SSN-689) đã va chạm với tàu ngầm hạt nhân lớp Sierra của Nga gần khu vực Murmansk, sau vụ va chạm, Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã khiếu nại đến Lầu Năm Góc.
Ngày 20/3/1993  tàu ngầm USS-Grayling (SSN-646) đã va chạm với tàu ngầm Delta-III ở biển Barent, không ai bị thương trong vụ va chạm này nhưng Tổng thống Mỹ Clinton đã rất giận giữ khi hải quân vẫn để những sự cố này xảy ra.
Chiến tranh lạnh đã kết thúc nhưng những cuộc chạm trán giữa lực lượng tàu ngầm đôi bên vẫn để lại nhiều ký ức sâu đậm trong tâm trí các thủy thủ tàu ngầm về những khoảnh khắc mà tính mạng của họ cũng như vận mệnh chính trị giữa hai bên như “ngàn cân treo sợi tóc”.
Chiến trường không tiếng súng nhưng không ít sự hy sinh của các thủy thủ tàu ngầm, trong đó thiệt hại nhiều hơn thuộc về Liên Xô, sự hy sinh của họ cũng thầm lặng và bí mật như nhiệm vụ của họ trên những tàu ngầm hạt nhân ẩn sâu trong lòng biển.


http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/Tau-ngam-trong-chien-tranh-ky-1/20128/226931.datviet

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét