Thứ Tư, 2 tháng 11, 2011

Sự suy tàn của các cường quốc và đồng nội tệ: La Mã, Pháp, Anh và Mỹ

Bình luận của người dịch:

Nếu nước Mỹ thực sự tham chiến thì chỉ do một nguyên nhân duy nhất như Slogan tranh cử của Bill Clinton:"It's the economy, stupid"
 
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------

Các đồng nội tệ thường mất giá trước tiên khi các đế chế trên thế giới đi vào giai đoạn suy tàn. Điều này càng hiện rõ hơn qua các khoản nợ của họ, khi các đế chế này phần lớn được xây dựng trên các khoản vay mượn. Dĩ nhiên mỗi một trường hợp đều có những nguồn gốc riêng biệt khác nhau, nhưng đều có một đặc điểm chung, các đồng tiền quốc gia của họ đều lao dốc và mất giá không phanh trong giai đoạn đế chế đi xuống.

Chúng ta hãy cùng điểm lại lịch sử các đế chế, bắt đầu từ đế quốc La Mã:

- Đế chế La Mã - Rom:

Biểu đồ phía dưới mô tả bằng phần trăm lượng bạc trong đồng tiền kim loại La Mã từ năm 50 đến 268 sau Công nguyên. Thế nhưng đế chế La Mã tồn tại từ năm 400 trước Công nguyên đến năm 400 sau Công nguyên. Lịch sử của đế chế này gắn liền với quá trình bành trướng lãnh thổ, như tất cả các đế quốc khác. Qúa trình bành trướng được thực hiện bằng các cuộc chiến tranh với một đội quân từ những chiến binh chuyên nghiệp được trả công bằng tiền xu bằng bạc và các vùng lãnh thổ mà họ chiếm đoạt được.

Mỗi khi nguồn tiền trong ngân khố quốc gia không đủ, họ lại pha trộn thêm các kim loại rẻ sẵn có hơn vào lượng tiền bạc và cho phát hành ồ ạt tiền xu bạc mới với hàm lượng bạc thấp hơn để chi phí cho chiến tranh. Điều chắc chắn có thể chỉ ra qua biểu đồ, đồng tiền xu bằng bạc của La Mã ngày càng chứa hàm lượng bạc ít hơn và bởi thế càng giảm dần giá trị.



- Đế quốc Pháp - France:

Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong thời kỳ trị vì của triều đại Buốc-Bông (Bourbonen):


Biểu đồ 2 chỉ ra giá trị của đồng nội tệ Pháp từ 1600-1800 sụp đổ đến gần như mất giá hoàn toàn. Các quốc vương nước Pháp gây chiến liên miên để xâm chiếm các vùng đất ở các lục địa khác như châu Âu, Phi, tất nhiên hoàn toàn dựa vào các khoản vay nợ như lệ thường. Trong một cuộc chiến kéo dài 7 năm, khoảng 1653, nước Pháp bại trận và mất đi một phần lãnh thổ tương đương phần lớn miền Trung của nước Mỹ ngày nay, sang tay của đế quốc Anh.

Qua đó, đất đai và lợi nhuận bị chiếm mất, các khoản nợ khổng lồ cùng với lãi suất thì vẫn tồn tại và không trả nổi. Lãi suất phải trả trong năm 1781 chiếm 24 % và trong năm 1790 là 90 % các khoản thu nhập từ thuế trong ngân khố quốc qia. Thế nhưng, đối tượng phải nộp thuế chỉ có các tầng lớp bình dân (Đẳng cấp thứ 3), còn tầng lớp quý tộc và tăng lữ được miễn thuế hoàn toàn. Bởi vậy không ai ngạc nhiên khi Cách mạng Pháp nổ ra: Đám quý tộc bị treo cổ trên các cột đèn đường ở Paris, nhà thờ bị sung công và quốc vương Pháp bị chặt đầu.


- Đế quốc Anh - England:

Người Anh bề ngoài có vẻ như là người thắng cuộc và hưởng lợi. Thế nhưng cuộc chiến với Hoàng đế Napoleon nước Pháp và mất thuộc địa, khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ giành được độc lập, đã đẩy khoản nợ quốc gia lên tận mây xanh.



Qua việc cải tiến các công cụ tài chính (như kéo dài vô hạn các khoản vay bằng thế chấp các khoản thu thuế tương lai) của Ngân hàng Trung ương Anh, những công cụ này trong năm 1694 chỉ nhằm chi phí cho chiến tranh giữa quốc vương Heinrich III và đối tác Hà Lan trên phương diện cá nhân đã tạm thời cứu thoát đế quốc. Vận may lớn đến với nước Anh khi cuộc cách mạng Công nghiệp nổ ra đem lại thịnh vượng kinh tế và làm giảm tốc các khoản nợ khổng lồ của đế quốc. Cùng lúc đó, nước Pháp sau đại bại của Napoleon ở Waterloo và các kẻ thù khác cũng không còn là mối lo của đế quốc Anh.


Giới quý tộc Anh trong thế kỷ 19 chỉ lo chi tiêu vung vãi các chiến lợi phẩm mà họ cướp bóc và chiếm đoạt được. Trong con mắt Thụy Sỹ thì đám người Anh này được coi trọng như những "Quý Ông", bởi vì ở đó chỉ khi làm việc cật lực cả đời ở đó mới mong kiếm được nhiều tiền như vậy. Nước Pháp vẫn là kẻ thù tiềm ẩn của Anh và khi Bismarck, thủ tướng Đức, năm 1871 tuyên chiến với nước Pháp thì sự kiện này được chào đón nồng nhiệt ở London. Sự khai sinh ra nước Đức không chỉ là sự xuất hiện một quốc gia mới mà còn là một nền kinh tế hùng mạnh ở châu Âu, trong khi nước Anh bước vào thời kỳ kinh tế suy thoái (Kondratieff-Winter). Nước Đức ngược lại bước vào giai đoạn kinh tế phục hưng với các phát minh đột phá như đưa các loại động cơ Diesel, Xăng và động cơ điện vào thực tiễn và lượng thép sản xuất đã vượt qua nước Anh. Việc nước Đức dùng loại năng lượng mới là dầu thay cho các động cơ hơi nước với vận tốc nhanh hơn làm cho các đô đốc Anh giật mình, khi các hạm đội chạy bằng hơi nước đến nay vẫn thống trị các vùng biển thế giới.



Khi một hệ thống đường sắt theo sáng kiến của Ngân hàng Đức và Siemens xuyên qua Áo-Hung và đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) tới tận Bagdad (Iraq) được xây dựng nhằm tránh con đường vận tải biển bị Anh khống chế hoàn toàn để vận chuyển dầu mỏ từ Trung Đông về châu Âu thì Anh lâm vào tình trạng báo động. Cuối cùng, khi Thủ tướng Đức Bismarck, một chính trị gia nhìn xa trông rộng thúc đẩy một chính sách cân bằng quyền lực giữa các cường quốc trên lục địa châu Âu, bị quốc vương sa thải và nước Đức đẩy mạnh chính sách tranh giành thuộc địa, thì tầng lớp tinh hoa cầm quyền Anh đi đến quyết định, cắt đứt nguồn cung cấp dầu mỏ của Đức và thay thế các tập đòan của mình vào đó. 

Cuộc chiến tranh thế giới lần I như vậy đã thành hình. Các mục đích của Anh, cường quốc thống trị thế giới thời đó, bao gồm: Gỉai thể đế chế Ottoman; chiếm đọat nguồn dầu lửa gần Bagdad, nguồn dầu lửa duy nhất được biết đến thời đó ngòai các nguồn ở Mỹ và Baku thuộc Nga cũng như triệt hạ các cường quốc đối nghịch ở lục địa châu Âu như Đức, Áo, Pháp và Nga bằng cách kích động các nước này tự chống lại nhau. Tham vọng này quá lớn và tốn kém, bởi vậy cùng với giới đại tài phiệt ngầm Anh (Đi đầu là dòng họ Rothschild và dòng họ tài phiệt Đức Warburg) và đại tài phiệt Mỹ J.P.Morgan trước khi nổ ra chiến tranh thành lập ngân hàng trung ương Mỹ nhằm tạo ra một nguồn dự trữ tài chính khổng lồ, nguồn tiền này được chi dùng trong đại chiến thứ I và nếu không có nó thì họ có lẽ không thể thắng được trong cuộc đại chiến này.

Nguồn dự trữ tài chính này được tạo dựng qua: Nước Anh mua các khí tài chiến tranh từ Mỹ và thanh tóan bằng đồng bảng Anh, sau đó các nhà sản xuất đem tiền Anh đến ngân hàng trung ương và đổi ra Dollar Mỹ. Ngân hàng trung ương Mỹ trợ giúp Anh bằng cách, họ không đem số bảng Anh này đổi ra vàng tại ngân hàng trung ương Anh (Đồng Bảng Anh thời đó được đảm bảo bằng vàng - ND) mà giữ lại làm đồng tiền dự trữ, bởi vì sự bảo đảm bằng vàng của đồng bảng Anh bị bãi bỏ ngay sau đại chiến bùng nổ. Nếu không có ngân hàng trung ương Mỹ (FED) thì đồng bảng Anh sẽ bị bán tháo trên thị trường tiền tệ và sụt giá thê thảm. Lượng tiền lưu thông trong thời gian này tại Mỹ tăng đến 45 %. Hậu quả là người dân lao động Mỹ phải hứng chịu với lạm phát phi mã.

Nguồn tài chính này còn được sử dụng thông qua ngân hàng J.P.Morgan làm nguồn cung cấp tín dụng lớn nhất cho Anh, Pháp và Ý. Nhờ có sự xuất hiện của FED với chính sách nới lỏng tiền tệ mà các nước này có thể tiếp cận được nguồn tài chính để chi phí cho chiến tranh ở châu Âu. Luật thành lập FED được thông qua một cách vội vàng và ngọan mục trong tháng 12 năm 1913, ngay trước lễ Noel, khi một phần các nghị sỹ đã đi nghỉ.

Trong tháng 4 năm 1914 quốc vương Anh Georg V. cùng với ngọai trưởng E. Grey viếng thăm Tổng thống Pháp Poincaré. Cùng tham dự có cả đại sứ Nga Iswolski. Có lẽ trong cuộc hội đàm này quyết định tuyên chiến với Đức và Áo sau nhiều năm chuẩn bị được thông qua. Cuối tháng 6 năm 1914 xẩy ra vụ ám sát Thái tử sắp kế vị của Áo ở Sarajewo và chiến tranh nổ ra giữa các cường quốc châu Âu. Một binh đòan Anh năm 1917 chiếm Bagdad, rải chất độc hóa học và kiểm sóat nguồn dầu lửa vùng này.

Đế chế Ottoman sụp đổ và các cường quốc châu Âu tàn sát nhau đến cùng tận. Mục đích cuộc chiến đã đạt được nhưng cái giá phải trả là khủng khiếp: Hơn 55 triệu người chết và chi phí chiến tranh khổng lồ. Khỏan nợ công của nước Anh (Biểu đồ 3) tăng từ mức trung bình 20 % lên đến 190 % GDP (Từ 0.7 triệu lên 7.8 triệu bảng theo số liệu chính thức công bố của Anh). Nền tảng tài chính Anh qua đó bị lung lay và cuộc đại chiến thế giới thứ II đẩy nó tới sụp đổ.




Đồng Bảng Anh đi xuống đồng hành với chiều hướng suy tàn của đế chế Anh. Ngòai vài đảo đá thì hệ thống thuộc địa lâu đời cũng chẳng còn. So sánh với đồng Frank Thụy Sỹ tới nay thì đồng Bảng Anh đã mất giá tới hơn 90 % và xu hướng này vẫn tiếp diễn. Tới những năm đầu thập kỷ 70 thì đồng Bảng còn cầm cự trên một mức cản phía dưới một thời gian để sau đó đột ngột lao dốc không phanh. Theo quan điểm của tác giả thì đồng Dollar Mỹ cũng đang ở thời điểm tương tự!

Những khỏan bồi thường chiến tranh của Đức được trả qua Pháp, Anh, Ý đến tay chủ nợ J.P.Morgan và các chủ nợ khác. Những khỏan này lại được quay vòng sử dụng cho một vòng quay mới: Cuộc đại chiến thế giới thứ II và vị thế thống trị thế giới của Mỹ.

- Mỹ - USA:

Nhưng sự nổi lên của Mỹ cũng dựa vào chiến tranh và vay nợ như các dẫn chứng về các đế chế trước kia trong lịch sử như La Mã, Pháp, Anh và tất nhiên cũng sẽ cùng có chung kết cục.



Ngay từ cuộc nội chiến Mỹ đã được chí phí bằng cách in tiền và đồng Dollars bị mất giá trầm trọng mặc dù thời điểm đó đồng Dollar vẫn còn được đảm bảo bằng vàng. Sự ra đời của FED tạo ra nguồn tài chính cho đại chiến thế giới thứ I và thứ II. Cuối đại chiến thứ II, khỏan nợ liên bang của Mỹ đạt tới 130 % GDP so với khi thành lập FED năm 1913 là 3 %. Hiện tại thì khỏan nợ công Mỹ tương đương 100 % GDP và phình ra nhanh chóng tiếp tục.

Câu hỏi đặt ra là, tại sao đồng Dollar sau chiến tranh không mất giá như đồng Bảng Anh?

- Hệ thống Bretton Woods:

Ngay trong lúc chiến tranh vẫn tiếp diễn năm 1944 thì một hệ thống gọi là Bretton Woods được thành lập. Nước Mỹ cam kết, đồng Dollar được dự trữ trong các ngân hàng trung ương nước ngòai có thể chuyển đổi vô điều kiện sang vàng ngay lập tức với giá 35 Dollar/1 Ounce. Bởi lúc đó không có đồng tiền nào mạnh hơn nên đồng Dollar được ưa thích. Lần đầu tiên trong lịch sử một đồng nội tệ (tiền giấy) được sử dụng như một lọai tiền dự trữ. Trước kia chỉ có tiền vàng, bạc kim lọai được dùng vào mục đích này. Hệ thống này tồn tại đến năm 1971. Chỉ có Pháp may mắn trước thời điểm này nhanh tay đổi tòan bộ tiền Dollar dự trữ sang vàng, sau đó tổng thống Nixon quyết định ngày 15.08.1871 là ngày chấm dứt sự tồn tại của hệ thống này. Đồng Dollar bắt đầu lao dốc nhanh chóng: Từ chỗ, 1 Dollar đổi được 4.30 năm 1970 còn 1.45 đồng Frank Thụy Sỹ năm 1979!   

Biểu đồ 2 hiển thị xu hướng đồng Dollar so với đồng Frank Thụy Sỹ theo mốc thời gian từng tháng. Sau khỏang thời gian lao dốc 1971-1979 xu hướng giảm tạm chững lại. Mô hình cái nêm hướng lên chỉ ra xu hướng, quá trình lao dốc sẽ sớm tiếp diễn khi đường giá hướng tới mức cản mạnh phía trên tại vùng 0.55.

Hệ thống Bretton Woods cùng với World Bank và IMF là biểu tượng sự thống trị của Mỹ với phần còn lại thế giới. Nước Mỹ không thiết lập chế độ thuộc địa như các đế quốc châu Âu nhưng thực thi quyền thống trị với những biện pháp kín đáo và tinh vi hơn nhiều. Phương thức áp dụng ở thế giới thứ 3 thường là đứng sau các cuộc bạo lọan và đảo chính quân sự! 







Thâm hụt thương mại với dòng chảy vốn đầu tư từ nước ngòai chảy vào Mỹ hiện khỏang 8.000 tỷ USD và xu hướng này vẫn tiếp diễn.



8.000 tỷ USD tương đương tổng số chi phí quân sự sau chiến tranh thế giới thứ II. Nói cách khác, các nước khác gánh trả tòan bộ chi phí chiến tranh của Mỹ. Do khỏan nợ nước ngòai khổng lồ và lãi suất nên lợi nhụân trở nên thực âm, và điều đó càng tăng áp lực lên đồng Dollar. 

Đồng Dollar Mỹ là đồng tiền (giấy-ND) đầu tiên được sử dụng rộng rãi làm đồng tiền dự trữ. Trước kia luôn là vàng. Qua đó một khỏan khỏang 8-10 nghìn tỷ USD được lưu trữ ở nước ngòai. Một đồng tiền dự trữ liên tục mất giá làm những nước sở hữu nó bất an trước bài tóan tiếp tục mua thêm và tăng thêm xu hướng, bán đồng Dollar ra thị trường. Hiện tại tình trạng bán tháo chưa xảy ra nhưng biểu đồ kỹ thuật đang chỉ ra, xu hướng này đang đến rất gần.

Các biểu đồ dưới đây cùng với các tín hiệu kỹ thuật minh chứng cho điều này:

- Biểu đồ so sánh Dollar Úc với USD





- Tương tự như biểu đồ so sánh đồng USD với Bảng Anh:





- Biểu đồ so sánh đồng EURO với USD:




- Một minh chứng nữa là biểu đồ USD-Index. Mô hình Vai-Đầu-Vai  chỉ ra xu hướng lao dốc mạnh của đồng Dollar nếu vùng cản phía dưới bị phá vỡ. 




- Tương tự khi so sánh USD với đồng Krone Thụy Điển:




© Rolf Nef- 21.10.2011 um 7:13

Dương Đức lược dịch

từ bản gốc tiếng Đức:
http://www.goldseiten.de/content/diverses/artikel.php?storyid=17654&seite=0



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét