Thứ Hai, 16 tháng 1, 2017

Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?

Nhà nghiên cứu Ross Babbage trong một bài phân tích trên trang War On The Rocks (trang mạng chuyên phân tích vấn đề an ninh, trụ sở tại Washington) nhận định, bây giờ là thời điểm để nhanh chóng hành động một cách khôn ngoan trước những cuồng vọng của Bắc Kinh tại Biển Đông. Bài viết này là một phần trong báo cáo của tác giả cho Trung tâm Chiến lược và Đánh giá Ngân sách, mang tựa đề « Đối phó với những hành động phiêu lưu của Bắc Kinh trên Biển Đông : Các chọn lựa chiến lược cho chính quyền Trump ».
media
















Theo tác giả, chính sách của Hoa Kỳ và các đồng minh thân cận đã thất bại. Những tuyên bố lặp đi lặp lại về lợi ích giới hạn đi kèm với những đợt cho phi cơ và chiến hạm tuần tra không ngăn được chương trình xây lên các đảo nhân tạo của Bắc Kinh, cũng như ý đồ thống trị khu vực về mặt quân sự.
Khi tìm cách làm giảm nhẹ nguy cơ đối đầu ở từng giai đoạn, Hoa Kỳ và các đồng minh trên thực tế đã nhường lại việc kiểm soát khu vực mang tính chiến lược cao độ này cho Trung Quốc, mà tác giả coi như một tiến trình đầu hàng tiệm tiến. Tiền lệ xấu đã được đặt ra, và các thông điệp nghèo nàn đã được chuyển đến cộng đồng quốc tế. Tại một phần của Thái Bình Dương, phe đồng minh đang có nguy cơ bị mất đi vị trí lâu nay, là đối tác an ninh khả tín.
Tại sao Washington và các đồng minh chủ chốt lại vụng về như thế ? Tại sao lại mất nhiều thời gian đến thế để phát triển một chiến lược đối phó hiệu quả với việc Bắc Kinh bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông ?
Một phần nguyên nhân là cung cách mà Trung Quốc áp đặt chủ quyền lên 80% vùng biển chiến lược này. Biển Đông là nơi mà hơn phân nửa trọng tải hàng hóa thế giới luân chuyển qua đây, là con đường quá cảnh quan trọng cho quân đội Mỹ và nhiều nước đồng minh, thân hữu.
Trong năm năm qua, Bắc Kinh đã đặt dấu chân cùng khắp Biển Đông, với việc đào đắp những đảo nhân tạo mới, xây dựng các cơ sở giám sát, phòng không, chống hạm, chống các lực lượng tấn công. Chiến dịch của Trung Quốc được tiến hành một cách khôn khéo, qua một loạt các động thái từ thấp đến cao, mỗi bước đều dưới cái ngưỡng có thể kích hoạt phản ứng đáp trả mạnh mẽ của phương Tây. Kết quả là nay Bắc Kinh đã có những thiết trí quan trọng trên 12 đảo ở Biển Đông, và có sự hiện diện quân đội, tuần duyên, dân quân biển quy mô nhất trong khu vực.
Trong số các khả năng quân sự của Trung Quốc, có việc bố trí trên các đảo nhân tạo các thiết bị giám sát, thu thập thông tin tình báo, các hỏa tiễn tầm xa diệt phi cơ và diệt hạm, cũng như vô số hệ thống phòng không. Ba trong số các đảo của Hoàng Sa nằm ở giữa Biển Đông, nay sở hữu các phi đạo dài đến trên 3.000 mét, quá tiện lợi cho các hoạt động của Boeing 747. Các nhà vòm kiên cố sắp hoàn thành trên ba đảo này, có thể chứa được 24 chiến đấu cơ và oanh tạc cơ ; năng lực bảo trì, các kho chứa nhiên liệu và các thiết bị hậu cần khác được mở rộng. Các máy bay cất cánh từ đây có thể bay đến tận Biển Andaman, Bắc Úc và căn cứ Guam của Mỹ.
Các đảo mới được đào đắp cũng có thể dùng để bố trí nhiều hỏa tiễn hành trình, hỏa tiễn đạn đạo tầm ngắn và tầm trung, có khả năng bắn vào các mục tiêu trên mặt đất lẫn các chiến hạm ngoài biển, đến tận Biển Sulu của Philippines, hay Singapore, Nam Malaysia.
Các hải cảng xây dựng tại các đảo này có thể tiếp nhiên liệu đầy đủ cho nhiều chiến hạm, tàu của lực lượng tuần duyên và dân quân biển. Thêm vào đó, các đảo nhân tạo cũng có thể hỗ trợ cho mạng lưới do thám tàu ngầm trên khắp Biển Đông, có nghĩa là nâng cao năng lực của Trung Quốc chống lại các tàu ngầm của phe đồng minh.
Vì ba đảo mới này không quá nhỏ, đây sẽ là nơi phân tán hầu hết tài sản của quân đội Trung Quốc trong trường hợp xung đột, bị các lực lượng đồng minh tấn công. Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) nay có kích thước như một căn cứ quân sự trên đất liền. Đá Xu Bi (Subi Reef) đã lớn hơn đến 50%, có thể so sánh với khu vực căn cứ hải quân Trân Châu Cảng. Đá Vành Khăn (Mischief Reef) cũng rộng hơn và có thể tương đương với quận Columbia. Hậu quả là Trung Quốc có vẻ đang thênh thang trên con đường biến Biển Đông thành con đường hàng hải nội bộ được vũ trang tận răng.
Hiện nay việc đi qua vô hại, đặc biệt đối với các tàu buôn, vẫn được tôn trọng. Tuy nhiên Bắc Kinh nói rõ là các điều kiện dành cho hoạt động của các tàu nước ngoài, ngay cả các quốc gia duyên hải, sẽ do Bắc Kinh quyết định. Giới chức liên quan của Trung Quốc cho biết Bắc Kinh đang cân nhắc việc tuyên bố vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông. Các thiết trí quân sự nay gần như hoàn tất cho phép lực lượng Trung Quốc thực hiện tuyên bố trên, với việc cho máy bay chiến đấu lên ngăn chặn những phi cơ không khai báo.
Mặc dù hầu hết các nhà quan sát quốc tế tin rằng nhiều hành động của Trung Quốc ở Biển Đông vi phạm nghiêm trọng luật lệ quốc tế, phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye tháng 7/2016 đã làm rõ mức độ vi phạm này. Tòa nhất trí rằng yêu sách « quyền lịch sử » mà Bắc Kinh đòi hỏi đối với Biển Đông và các đảo nhân tạo trong phạm vi « đường 9 đoạn »là vô căn cứ.
Khi đối mặt với yêu sách lãnh thổ và bành trướng quân sự của Trung Quốc trên Biển Đông, các lãnh đạo đồng minh hầu như luôn đáp trả bằng cách lặp lại câu thần chú : Chúng tôi có lợi ích quan trọng trong tự do hàng hải và hàng không, chúng tôi không yêu sách lãnh thổ trong khu vực ; chúng tôi kêu gọi tất cả các bên kềm chế, giải quyết tranh chấp theo luật lệ quốc tế. Tàu bè và phi cơ của đồng minh thỉnh thoảng đi qua khu vực, hiếm khi trực tiếp thách thức yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh. Cách đáp trả này rõ ràng đã thất bại, không ngăn cản được sự bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc.
Tại sao phương cách của Hoa Kỳ và các đồng minh thân thiết lại dè dặt và vô hiệu quả như thế ? Theo tác giả, có nhiều nhân tố tác động đến.
Trước tiên, nhiều người ở Washington và các thủ đô phương Tây khác nhìn vấn đề Biển Đông như một vấn đề phức tạp, với những hậu quả nho nhỏ, và tốt nhất không nên để ý đến. Một số nhà hoạch định chính sách và nhà bình luận cho rằng không nên gánh lấy nguy cơ đối đầu giữa các cường quốc chỉ vì « một ít đảo đá nằm rải rác » ở một vùng đất xa xôi.
Thứ hai, tầm quan trọng của chiến lược Biển Đông tương lai đối với các nước đồng minh và nước đối tác có những khác biệt đáng kể. Quan điểm chung ở Washington là Biển Đông quan trọng, nhưng không phải sống còn ; chỉ đơn giản là một trong nhiều khu vực bất ổn mà Hoa Kỳ phải giải quyết. Tokyo, Seoul và Canberra coi trọng Biển Đông hơn, do giá trị chiến lược nội tại và tầm quan trọng của nó đối với các đối tác thân thiết, là thành viên ASEAN nằm cạnh vùng biển này. Đối với các quốc gia ven Biển Đông, sự cân bằng chiến lược và chủ quyền thực sự của khu vực hết sức quan trọng cho an ninh của họ trong tương lai, và sức khỏe của nền kinh tế. Những khác biệt về ưu tiên giữa các đồng minh Tây Thái Bình Dương và những nước thân hữu gây căng thẳng cho quan hệ đồng minh dài lâu.
Một hạn chế quan trọng thứ ba là từ mô hình đồng minh theo kiểu « trục bánh xe và nan hoa »tại Tây Thái Bình Dương từ thập niên 50. Các đồng minh trong khu vực không hợp tác tốt ở vòng ngoài cũng như trong việc phối hợp kế hoạch an ninh. Những năm gần đây đã có một số tiến bộ trong việc tăng cường phối trí giữa Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc và vài nước đối tác khác ở Đông Nam Á, nhưng vẫn còn hạn chế và không thường xuyên. Washington hẳn là có khuyến khích hợp tác chặt chẽ hơn, nhưng con đường còn rất dài nếu muốn đạt đến sự phối hợp an ninh thường lệ như ở châu Âu. Một sự hợp tác kịp thời, hiệu quả để đáp trả các hành động của Bắc Kinh tại Biển Đông, không phải là điều đơn giản.
Thứ tư, nhiều công dân, hầu như tất cả các nhà báo và nhiều dân biểu, nghị sĩ có rất ít thông tin về các hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông, trong khi Bắc Kinh mở rộng các hoạt động chiến lược trong thập niên vừa qua. Các cơ quan truyền thông lớn và hãng thông tấn phương Tây cũng chẳng cố gắng nói lên sự thật về những gì đang xảy ra, hay giải thích về tham vọng của Bắc Kinh.
Thứ năm, đáp trả một cách hiệu quả các hoạt động lấn chiếm từng chút một như tằm ăn rỗi của Trung Quốc trên Biển Đông, về bản chất là rất khó. Bắc Kinh sử dụng một chiến lược rất tinh tế, có thể hành động mà không thách thức các cam kết của Hoa Kỳ với đồng minh, hay trực tiếp đối đầu với Mỹ hoặc các lực lượng đồng minh. Hơn nữa, các lãnh đạo phương Tây có rất nhiều vấn đề chính trị và hành chính phải giải quyết, khó thể duy trì liên tục sự quan tâm đến khu vực.
Thứ sáu, nhiều doanh nhân phương Tây và chính trị gia muốn tránh né các biện pháp có thể gây trở ngại cho công việc của mình và quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Các quan ngại này có thể thấy rõ nơi các đồng minh Tây Thái Bình Dương, cũng như các công ty của Mỹ và các nước khác đã đầu tư nhiều vào việc siết chặt quan hệ với các công ty Trung Quốc. Các hãng tin Trung Quốc rất tích cực khuếch đại các quan ngại này, tuyên truyền sai lạc về tình trạng khó xử, thổi phồng hậu quả đối với các nền kinh tế khu vực trước bất kỳ hành động nào đối phó với sự hung hăng của Bắc Kinh.
Thành công từ các chiến dịch thông tin của Bắc Kinh tại các nước phương Tây là nhân tố thứ bảy khiến các nước này dè dặt trước các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông. Các hoạt động này được hỗ trợ bởi việc Trung Quốc mua lại các cơ quan truyền thông phương Tây, đồng thời khuyến dụ các nhân vật lãnh đạo, nhà báo, trí thức bằng việc mời sang tham quan Trung Quốc, bao trọn mọi chi phí. Bên cạnh đó còn đóng góp vào các quỹ quan trọng của các đảng chính trị, các tổ chức thân Bắc Kinh đủ loại, trong đó có các Viện Khổng tử tại các trường đại học ; thường xuyên chi tiền để kèm các phụ trang tuyên truyền trong các nhật báo phát hành tại thủ đô các nước. Đại sứ quán, lãnh sự quán và các định chế thân Bắc Kinh thường tổ chức các cuộc biểu tình « ái quốc », chương trình văn nghệ và các sự kiện khác. Hoạt động tình báo và tin tặc được sử dụng để tăng sức nặng cho các thông điệp chính thức. Bắc Kinh còn tuyển mộ điệp viên và chuyên gia vận động hành lang ; hăm dọa, cưỡng bức, ngăn trở những hành động phản kháng.
Nhân tố thứ tám là văn hóa. Cử tri phương Tây có vẻ lo sợ hơn về khả năng kích hoạt xung đột, so với người Trung Quốc. Huge White, một nhà quan sát nổi tiếng về tình hình khu vực thậm chí còn biện luận rằng Hoa Kỳ không nên đối đầu với sự bành trướng của Trung Quốc, trừ phi các nhà lãnh đạo muốn « thuyết phục đa số người Mỹ rằng nước Mỹ cần phải đối phó với một cuộc chiến tranh nguyên tử để duy trì vai trò lãnh đạo của Mỹ ở châu Á ».
Theo tác giả Ross Babbage, các tuyên bố như thế phản ánh những đánh giá sai lầm về quyền lực của Bắc Kinh vốn chỉ tương đối, những giả định không đáng tin cậy về việc Bắc Kinh đã sẵn sàng chuẩn bị cho việc sử dụng vũ khí nguyên tử chống lại Hoa Kỳ. Đồng thời cũng không nhận định đúng mức tầm vóc của việc hình thành liên minh chiến lược, và rất nhiều khả năng ngăn chận cuồng vọng của Trung Quốc mà không cần dùng đến biện pháp quân sự. Trong phần hai « Biển Đông : Đã đến lúc phải dằn mặt Bắc Kinh », ông đưa ra những đề nghị cho chính quyền Donald Trump nhằm chặn đứng việc Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20170114-vi-sao-phuong-tay-lai-de-bac-kinh-lam-mua-lam-gio-tren-bien-dong
Trong phần một mang tựa đề « Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?»chuyên gia Ross Babbage (*) đã phân tích những lý do vì sao Bắc Kinh có thể tự tung tự tác trên Biển Đông cho đến nay. Ở phần hai, tác giả đề nghị những biện pháp cụ thể cho chính quyền Donald Trump sắp tới.




Theo ông, một trong những vấn đề cốt lõi trong cách xử sự của chính phủ Mỹ, Nhật và Úc là trần thuật sai hẳn những lợi ích từ liên minh. Các liên minh này chắc chắn là mang lại lợi ích lớn lao, qua tự do hàng hải và hàng không, giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp chủ quyền trong khu vực phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích to lớn nhất của đồng minh thực sự vượt xa khỏi những mục tiêu giới hạn, chủ yếu mang tính chiến thuật này.
Trên thực tế, lợi ích chủ chốt trước tiên của đồng minh là đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ không thống trị Biển Đông đến mức có thể đơn phương quyết định trật tự khu vực, và hạn định mức độ chủ quyền cho từng quốc gia ven biển.
Lợi ích cốt lõi thứ hai là hạn chế khả năng lấn chiếm của Trung Quốc trên Biển Đông, tạo tiền lệ cho những hành vi bất hợp pháp, hung hăng hơn của Bắc Kinh, trước mắt và về lâu về dài.
Điều cốt yếu thứ ba : giám sát chặt để Trung Quốc không lặp lại các vi phạm trầm trọng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), làm ngơ trước phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực La Haye, trực tiếp thách thức luật pháp quốc tế.
Khi theo đuổi các lợi ích thực tiễn này, các lãnh đạo đồng minh cần có chiến lược rõ ràng để chỉ đạo một chiến dịch đối phó. Các khả năng hiển nhiên nhất là chọn lựa một chiến lược cự tuyệt, chiến lược buộc phải trả giá. Một chiến lược tấn công vào chiến lược của Trung Quốc, làm cho Bắc Kinh không thể tiếp tục làm bá chủ Biển Đông. Dù chọn chiến lược nào đi nữa, cái nền chủ yếu phải là một liên minh quân sự mạnh mẽ hơn, thuyết phục hơn tại Tây Thái Bình Dương.
Chuyên gia Ross Babbage cho rằng trước các hành động của Bắc Kinh trong năm năm qua, cần phải tiến xa hơn chủ trương được gọi là « xoay trục », « tái cân bằng », để chuyển sang một cam kết toàn diện với các nước trong vùng, có thể được mệnh danh là Chương trình Đối tác An ninh Khu vực. Các mục đích chính của chương trình là chứng tỏ ưu thế vượt trội về quân sự, răn đe các hành động phiêu lưu của Trung Quốc, củng cố lòng tin nơi các đồng minh và đối tác châu Á về sự khả tín của phương Tây, để họ cảm thấy có thể chống chọi lại bất kỳ ý đồ áp đặt nào từ Trung Quốc.
Chiến lược đồng minh hiệu quả nhất cần mang tính sáng tạo và bất đối xứng. Trong những năm gần đây Bắc Kinh tập trung các hành động hiếu chiến nhất tại Biển Đông và Biển Hoa Đông, sử dụng các loại hình đa dạng từ quân đội, tuần duyên, dân quân biển, chiến tranh chính trị ; nhưng không có nghĩa là đồng minh cũng phải tập trung mọi nỗ lực bằng cách thức tương tự. Ngược lại, để chống lại Bắc Kinh, phương thức hiệu quả nhất là tập trung áp lực đủ loại vào những điểm yếu kém nhất của Trung Quốc trên mọi lãnh vực.
Những chiến dịch như thế đòi hỏi phải thận trọng phối hợp nhiều biện pháp, để có thể duy trì được dài lâu. Các biện pháp này vượt xa khỏi các lãnh vực ngoại giao và quân sự khuôn mẫu, bao gồm cả địa chính trị, thông tin, kinh tế, tài chính, nhập cư, luật pháp, chống bá quyền, và những sáng kiến khác. Có thể gồm cả việc ra tuyên bố để răn đe các hành vi của Trung Quốc, gây lòng tin nơi đồng minh và thân hữu, tạo môi trường hoạt động rộng rãi hơn. Các biện pháp khác cần được phân loại và thiết kế để làm chao đảo Trung Quốc, đồng thời khuyến khích nên thận trọng hơn với Bắc Kinh.
Tác giả nhận định, chắc chắn sẽ có những người tại các nước đồng minh muốn chính phủ mình nhắm mắt làm ngơ. Tuy nhiên, những thách thức từ Trung Quốc mang tính chất và tầm cỡ quan trọng đến nỗi nếu chiến lược đối phó của Hoa Kỳ và đồng minh khu vực thất bại, sẽ gây hậu quả nặng nề cho an ninh toàn cầu.
Trước tiên là chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông bị nhường lại cho Trung Quốc. Nếu trao cho Bắc Kinh quyền kiểm soát thực tế một tuyến đường hàng hải chính yếu như thế và mở rộng thông tin, sẽ gây những hệ quả địa chính trị nghiêm trọng và lâu dài. Bối cảnh an ninh tại Tây Thái Bình Dương sẽ bị đảo lộn, gây phức tạp cho nhiều dạng thức hoạt động của đồng minh.
Hậu quả nghiêm trọng thứ hai là việc Bắc Kinh vi phạm nặng nề luật pháp quốc tế coi như được chấp nhận ; gây thiệt hại lớn cho nỗ lực trong nhiều thập niên qua, nhằm xây dựng khuôn khổ luật pháp cho quan hệ ngoại giao, thương mại, tranh chấp quốc tế. Sẽ là dấu hiệu cho cộng đồng thế giới thấy rằng đống minh phương Tây không chuẩn bị cho việc bảo vệ luật quốc tế.
Hậu quả quan trọng thứ ba là nguy cơ Trung Quốc thêm mạnh dạn tung ra những hoạt động xâm lăng nghiêm trọng hơn trong những năm tới. Bắc Kinh có thể coi sự dè dặt, e ngại, thiếu tổ chức của các nước khác như là lời mời xâm lăng các lãnh thổ chiến lược, tiếp tục các hành động hiếu chiến hơn. Vì thế, khi duy trì thái độ dè dặt và cách hành xử vụng về, các lãnh đạo đồng minh sẽ vấp phải rủi ro nghiêm trọng hơn là vô hình trung khuyến khích xung đột nặng nề hơn với Trung Quốc trong những năm tới. Theo tác giả, xung đột này sẽ dữ dội hơn và khó tránh khỏi.
Hậu quả lớn thứ tư : khi đồng minh không có được sự đáp trả mạnh mẽ, sẽ thiệt hại cho hoạt động răn đe. Một phương Tây yếu kém trong lúc này sẽ là tín hiệu xấu gởi đến không chỉ cho Bắc Kinh, mà còn cả cho Matxcơva và Bình Nhưỡng.
Hậu quả thứ năm của việc Hoa Kỳ bình chân như vại, sẽ khiến hầu như mọi nước đồng minh và thân hữu Tây Thái Bình Dương và nhiều nước khác xa hơn buộc lòng phải tái cấu trúc về quốc phòng và an ninh quốc gia.
Một khi các lãnh đạo đồng minh không đáp trả hiệu quả trước tình trạng vi phạm hiển nhiên luật pháp quốc tế và chuẩn mực an ninh toàn cầu, thì họ cần phải có những thay đổi nào để giữ an ninh cho chính mình ? Một số nước đã bắt đầu tìm kiếm những đối tác an ninh mới đáng tin cậy hơn. Số khác có thể đưa ra những chương trình phòng vệ mới, hay đành từ bỏ những yếu tố then chốt về chủ quyền, để được yên thân trước Bắc Kinh hay các chế độ độc tài khác.
Chuyên gia Ross Babbage kết luận, vấn đề an ninh ở Tây Thái Bình Dương vẫn là lợi ích cốt lõi của Hoa Kỳ và các đồng minh thân thiết. Chính quyền ông Trump sắp tới nhất thiết phải dành ưu tiên hàng đầu cho một chiến lược đối phó hiệu quả với Bắc Kinh.
(*)Tiến sĩ Ross Babbage là Giám đốc điều hành của Strategic Forum Pty Ltd, nhà nghiên cứu của Trung tâm Chiến lược và Đánh giá Ngân sách (CSBA) ở Washington DC. Tiến sĩ Babbage từng giữ vị trí trưởng văn phòng Phân tích chiến lược của ONA, cơ quan tình báo trực thuộc văn phòng thủ tướng Úc.
http://vi.rfi.fr/chau-a/20170114-bien-dong-da-den-luc-phai-dan-mat-bac-kinh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét