Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

Chuyên gia Mỹ “định vị” Việt Nam trong ván cờ siêu cường

Giống như từ ngàn xưa, Hà Nội vẫn là thành phố của những tính toán chính trị phức tạp. Đó là cái giá của việc là một cường quốc trung bình đầy tiềm năng, có dân số đứng thứ 13 thế giới, với đường bờ biển dài, ở vị trí giao lộ giữa các tuyến đường biển quan trọng và nằm sát khu vực dự trữ năng lượng khổng lồ ngoài khơi.

Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có chuyến thăm lịch sử tới Việt Nam trong năm 2016Tổng thống Mỹ Barack Obama đã có chuyến thăm lịch sử tới Việt Nam trong năm 2016

Nói đến Hà Nội là nói đến lịch sử của Thủ đô, nhưng không chỉ là tiếng vọng của các triều đại hay các cuộc chiến chống ngoại xâm mà là những con người quả cảm và những tính toán chiến lược cân não. Trong bảo tàng lịch sử của Hà Nội có rất nhiều những bản đồ, tranh ảnh và những tấm bia lớn tưởng niệm những cuộc chiến chống các triều đại phong kiến phương bắc xâm lược: Tống, Minh và Thanh vào thế kỷ XI, XV và XVIII. Cho dù Việt Nam trải qua thời kỳ bắc thuộc đến tận thế kỷ thứ X, nhưng Việt Nam luôn giữ vững sự độc lập chính trị với Trung Quốc và đây là một điều phi thường mà không một luận thuyết nào có thể lý giải đầy đủ được.
Thực tế, để có thể hình dung về lịch sử Việt Nam cần phải có sự thấu hiểu và cảm xúc mãnh liệt. Chiều sâu của những thắng cảnh như đền Ngọc Sơn (đền tưởng niệm chiến thắng quân Nguyên vào thế kỷ XIII), tượng Phật bằng đồng được bao phủ bởi hương, vàng lá và gỗ sơn son thiếp vàng và được bao quanh bởi Hồ Hoàn Kiếm xanh ngắt với bờ hồ trải đầy lá, đưa người ta tìm đến lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hồ Chủ tịch, con người nhỏ bé mà vĩ đại của thế kỷ XX, đã hợp nhất chủ nghĩa Mác, Nho giáo và tinh thần dân tộc thành một thứ vũ khí vô song đối phó với Trung Quốc, Pháp, Mỹ, đặt nền móng cho cuộc chiến đấu chống ba đế quốc lớn của thế giới. Lăng của Người nằm giữa những tòa nhà xây dựng theo lối châu Âu có tuổi thọ hàng thế kỷ và những công trình một thời là trung tâm đầu não của Đông Dương, một thể chế mà Pháp cố kéo dài sau Thế chiến II, gây ra một cuộc chiến với Việt Nam và đã khiến Pháp thảm bại nhục nhã cực độ sau chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.
Bên cạnh những dấu ấn kỳ vĩ của thành phố đầy truyền thống đấu tranh anh dũng với thiên sử thi hào hùng là những khu phố buôn bán ồn ào, khu kinh doanh rộn ràng, những dòng người vừa lái xe vừa tranh thủ nhắn tin lúc tắc đường và những cửa hàng mặt tiền tấp nập. Đây là một chuỗi các cửa hàng kiểu tư bản, với những quán café ở khắp mọi nơi, mỗi quán lại thiết kế khác nhau, phục vụ vài loại cà phê ngon nhất thế giới…
Một cửa hiệu Louis Vuitton trên phố Tràng Tiền, Hà Nội
Người Việt Nam hiện nay đang học hỏi các nước phát triển, vì lợi ích của họ và gia đình nhưng cũng để bảo vệ sự độc lập trước một Trung Quốc năng động không kém. Và giống như từ ngàn xưa, Hà Nội vẫn là thành phố của những tính toán chính trị phức tạp. Đó là cái giá của việc là một cường quốc trung bình đầy tiềm năng, có dân số đứng thứ 13 thế giới, với đường bờ biển dài, ở vị trí giao nhau giữa các tuyến đường biển quan trọng và nằm sát khu vực dự trữ năng lượng khổng lồ ngoài khơi.
Trong chuyến thăm đến Việt Nam, tôi đã nhận thấy một đất nước đang không chỉ cấp bách phát triển kinh tế mà còn vấp phải những thách thức trong việc tìm kiếm một tạm ước với Trung Quốc - người hàng xóm lâu đời và đang tìm kiếm vị thế bá chủ. Đây là thách thức mà Việt Nam ngày càng nhìn về phía Mỹ để tìm sự trợ giúp, cho dù hai nước từng là kẻ thù một thời.

Điều đó có thể khiến người Mỹ ít nhất là phải thay đổi quan điểm lịch sử của mình và cố gắng nhìn thế giới qua con mắt của Việt Nam. Ông Ngô Quang Xuân, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội khi đó đã nói với tôi rằng thời điểm quan trọng của nước Việt Nam ngày nay không chỉ là năm 1975, khi Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền nam mà là năm 1995, khi quan hệ Việt – Mỹ bình thường hóa, Việt Nam gia nhập ASEAN và ký vào bản Hiệp định khung với Liên minh châu Âu. “Nói cách khác, chúng tôi đã hòa nhập với thế giới”, ông Ngô Quang Xuân nói. Ông Xuân thừa nhận rằng trước khi đưa ra những quyết định này, nội bộ Việt Nam đã phải thảo luận rất nhiều. Mặc dù Việt Nam đã thắng Pháp và Mỹ nhưng giới chức Việt Nam đã cảm nhận sự thua kém vì những sự kiện sau đó, theo như các quan chức nước này giải thích với tôi trong chuỗi đối thoại diễn ra trong vài tuần.
Hãy cùng xem xét: Việt Nam đã đưa quân sang Campuchia vào năm 1978, giải phóng đất nước này khỏi nạn diệt chủng của Polpot của chính quyền Khmer Đỏ. Hành động này mang tính tự vệ và thực hiện nghĩa vụ quốc tế để đẩy lùi mối đe dọa chiến lược từ chế độ Khmer Đỏ tàn bạo, đã mang lại tác động nhân đạo tích cực và sâu sắc. Tuy nhiên, vì nghĩa cử nhân đạo này, nước Việt Nam thân Liên Xô lúc bấy giờ đã bị cấm vận bởi liên minh thân Trung Quốc bao gồm cả Mỹ, vì kể từ sau chuyến thăm của Tổng thống Richard Nixon tới Trung Quốc năm 1972, Mỹ đã nghiêng hẳn về phe Trung Quốc.
Việt Nam đã tiêu diệt Khmer Đỏ tàn bạo, giúp hồi sinh đất nước Campuchia từ họa diệt chủng
Năm 1979, Trung Quốc đã tấn công Việt Nam để ngăn Việt Nam tiêu diệt bè lũ diệt chủng ở Campuchia. Trong khi đó, Liên Xô không thể hỗ trợ nhiều cho đồng minh của mình. Việt Nam lúc bấy giờ bị cô lập về ngoại giao, bị mắc kẹt ở vũng lầy Campuchia và phải chịu gánh nặng nghèo đói và những khó khăn kinh tế. Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu, đã viết trong cuốn hồi ký năm 2000 của ông rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam vào những năm 1970 mang niềm kiêu hãnh như nước Phổ ở Đông Nam Á.
Nhưng sự kiêu hãnh đó không kéo dài được lâu. Tình trạng thiếu hụt lương thực trầm trọng và sự sụp đổ của Liên Xô vào những năm 1989- 1991 đã buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia. Việt Nam lúc này hầu như không có bạn bè, và chiến thắng lẫy lừng trước Mỹ năm nào giờ chỉ còn là ký ức xa xăm.
Một nhà ngoại giao phương Tây giải thích: “Người Việt Nam không quên cuộc kháng chiến chống Mỹ vào những năm 1960, 1970.  Trong khi, một vài thế hệ người Mỹ đã bị mắc kẹt trong một giai đoạn khủng hoảng tinh thần”. Người Việt Nam vẫn chưa quên 20% diện tích lãnh thổ không có người sinh sống vì bom mìn còn chưa nổ hay những vùng đất bị nhiễm chất độc màu da cam khiến cây cối, động vật không thể sinh trưởng được. Nhưng 3/4 người Việt Nam hiện nay sinh ra sau cuộc kháng chiến chống Mỹ (gọi như vậy để phân biệt với những người sinh ra trước và sau thời gian này) và thậm chí số người không còn mấy ký ức về cuộc chiến tranh còn nhiều hơn thế. Những sinh viên và cán bộ trẻ mà tôi gặp tại Học viện Ngoại giao Việt Nam, một cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao, đều sinh sau cuộc kháng chiến chống Mỹ rất nhiều năm chứ không như thế hệ Baby Boomers của Mỹ sinh ngay sau Thế chiến II.
Trong cuộc gặp của tôi tại hội trường Học viện Ngoại giao, trong hội trường có bức tượng của Hồ Chủ tịch, các sinh viên và cán bộ đã nói với tôi rằng thực tế, họ vẫn luôn lên án cuộc xâm lược của Mỹ, nhưng họ không muốn nói đến chiến tranh nữa. Họ đã thất vọng về việc Mỹ không can thiệp chống lại Trung Quốc những năm 1990 khi Trung Quốc thách thức Philippines tại Đá Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa trên Biển Đông (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Một sinh viên đã tóm tắt rằng “sức mạnh của Mỹ rất quan trọng đối với an ninh thế giới”.
Người dân Việt Nam đã khép lại quá khứ, nồng nhiệt chào đón tổng thống Mỹ Barack Obama trong chuyến thăm Việt Nam
Quả thực, sau đó các sinh viên và cán bộ tại Học viện ngoại giao đều sử dụng thuật ngữ “cân bằng quyền lực” để so sánh Mỹ và Trung Quốc. “Trung Quốc quá mạnh và hung hăng. Đó là lí do vì sao Pax Sinica (hòa bình theo trật tự kiểu Trung Quốc) rất nguy hiểm”, một nữ học giả phân tích. Trong khi Mỹ đối với Việt Nam đã là quá khứ thì hiện nay Trung Quốc vẫn là trung tâm. Robert Templer đã viết trong cuốn Shadow and wind - một cuốn sách mở đường về Việt Nam đương đại năm 1998 rằng: “Phần lớn lịch sử Việt Nam đều là chống xâm lược, chủ yếu là chống xâm lược phương bắc. Nỗi lo sợ bị thống trị vẫn luôn thường trực và vượt qua mọi khoảng cách về ý thức hệ, nó đã tạo nên nỗi lo lắng và ý thức gìn giữ bản sắc Việt”.
Một nhà ngoại giao Việt Nam đã từng nói với tôi: “Láng giềng phương bắc đã xâm lược Việt Nam 17 lần. Mỹ xâm lược Mexico chỉ 1 lần và hãy thử nhìn xem vấn đề này nhạy cảm với người Mexico thế nào. Chúng tôi lớn lên với những cuốn sách giáo khoa ngập tràn những câu chuyện về những người anh hùng chiến đấu chống quân xâm lược phương bắc”. Nỗi lo của người Việt Nam rất lớn vì Việt Nam chưa thể thoát khỏi ảnh hưởng của người láng giềng phương bắc khổng lồ này, nước mà chỉ riêng dân số đã gấp 15 lần Việt Nam. Người Việt Nam biết rõ rằng đặc điểm địa lý đã tạo nên mối quan hệ giữa hai nước và có cách ứng xử rất tinh tế: Việt Nam có thể giành chiến thắng nhưng sau đó vẫn sang Trung Quốc cầu hòa. Tình thế đó hoàn toàn xa lạ với Mỹ - một đất nước giống như một quốc đảo.

http://viettimes.vn/the-gioi/dia-chinh-tri/chuyen-gia-my-dinh-vi-viet-nam-trong-van-co-sieu-cuong-74722.html
Vịnh Cam Ranh sẽ có thể trở thành phương tiện tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ và tạo điều kiện cho sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á như là đối trọng với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Vịnh Cam Ranh có vai trò hoàn hảo với chiến lược “địa điểm chứ không phải căn cứ quân sự” của Lầu Năm Góc...
Quân cảng Cam Ranh của Việt NamQuân cảng Cam Ranh của Việt Nam
Việt Nam bị buộc phải theo nhà Hán vào năm 111 TCN. Từ đó trở đi, Việt Nam luôn bị phương bắc đô hộ hoặc ở trong tình trạng chư hầu trong gần 1.000 năm. Sau đó, các triều đại Việt như Lý, Trần, Lê đã chiến đấu chống lại sự kiểm soát từ phương bắc, đẩy lùi quân xâm lược đông hơn gấp nhiều lần. “Ảnh hưởng của Trung Hoa tới Việt Nam thể hiện trong mọi lĩnh vực văn hóa, xã hội và chính quyền, từ đôi đũa của người nông dân đến cây bút lông của các chí sĩ và quan lại”, Keith Weller Taylor của Đại học Cornell đã viết như vậy trong cuốn The Birth of Vietnam (tạm dịch: Sự ra đời của nước Việt Nam) năm 1983.
Quả thực, văn học Việt Nam thấm đẫm các di sản cổ điển Trung Hoa: Chữ Hán từng là ngôn ngữ của tầng lớp trí thức Việt Nam, cũng giống như châu Âu từng dùng tiếng Latin. Tuy nhiên trải qua tất cả những điều đó, văn hóa dân gian Việt Nam vẫn giữ được sự độc đáo hơn so với văn học bác học. Theo như chuyên gia Victor Lieberman từ Đại học Michigan Đông Nam Á giải thích: “Trong giới trí thức bấy giờ, các quy tắc của Trung Hoa được áp dụng phổ biến đến mức những nguồn gốc lạ lẫm trở nên không thích hợp”.
Mong muốn mãnh liệt của người Việt Nam được độc lập với Trung Quốc được tăng cường hơn trong quá trình tiếp xúc với người Chăm và người Khmer ở phía nam, những dân tộc chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Ấn Độ thay vì nền văn minh Trung Hoa. Mặc dù có sự tương đồng khá lớn với Trung Quốc, người Việt Nam vẫn giữ sự kiêu hãnh về những khác biệt nho nhỏ và điều này khiến các sự kiện từ quá khứ trở nên mạnh mẽ, sâu sắc hơn.

"Những chiến thắng trước Trung Quốc và người Chăm ở phía nam đã giúp Việt Nam xây dựng một bản sắc riêng – một quá trình dài mà Trung Quốc không lúc nào để Việt Nam được yên, cho đến tận thời kỳ hiện đại. Năm 1946, Quốc Dân Đảng đã cấu kết với thực dân Pháp để quân Tưởng Giới Thạch xuống thay thế quân Pháp ở miền bắc Việt Nam. Lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình “không bao giờ chịu hết cừu hận Việt Nam”, học giả Templer đã viết như vậy. Ngoài việc xua 100.000 quân tấn công Việt Nam năm 1979,  Đặng Tiểu Bình còn thực thi chính sách thâm hiểm khiến Việt Nam “chảy máu” bằng cách đẩy Việt Nam vào cuộc chiến du kích ở Campuchia.
Nhưng hiện nay, khi vấn đề đường biên giới trên bộ - nguyên nhân của các cuộc xung đột- đã phần lớn được giải quyết thì cuộc tranh giành mang đậm chủ nghĩa dân tộc ở châu Á lại chuyển sang diễn ra trên Biển Đông. Với gần 2.000 dặm đường bờ biển ở Biển Đông, Việt Nam bỗng nhiên rơi vào giữa vở kịch lịch sử và địa chính trị có thể sẽ bi tráng tương đương với những cuộc chiến tranh trên bộ vào cuối thế kỷ XX.
Đá Chữ Thập sau khi được cải tạo thành đảo nhân tạo có diện tích lớn nhất Trường Sa với một đường băng dài 3km và các nhà chứa máy bay
Cận cảnh một phần Đá Chữ Thập đã bị Trung Quốc bồi lấp, xây đảo nhân tạo trái phép
Biển Đông nối liền Ấn Độ Dương với Tây Thái Bình Dương, kết nối các tuyến đường biển quốc tế qua các eo biển Malacca, Sunda, Lombok và Makassar. Hơn một nửa lượng hàng hóa vận chuyển hàng năm trên thế giới và ¾ giao thông hàng hải toàn cầu đi qua những điểm huyết mạch này. Lượng dầu vận chuyển từ Ấn Độ Dương qua eo biển Malacca, trên đường đến Đông Á đi qua Biển Đông gấp 3 lần lượng dầu vận chuyển qua kênh đào Suyez và gấp 15 lần lượng dầu vận chuyển qua kênh đào Panama. 2/3 nguồn cung cấp năng lượng cho Hàn Quốc, gần 60% nguồn cung cấp năng lượng cho Nhật Bản và Đài Loan và khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đi qua Biển Đông. Biển Đông cũng có lượng tích trữ lên đến 7 tỷ thùng dầu và khoảng 900 nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên. Nếu tính toán của Trung Quốc rằng Biển Đông có trữ lượng 130 tỷ thùng dầu là chính xác thì Biển Đông sẽ có trữ lượng dầu lớn hơn bất kỳ nơi nào trừ Ả rập Xê út.
Biển Đông có hơn 200 đảo nhỏ, bãi đá và rặng san hô, trong số đó chỉ hơn 30 thực thể địa lý nổi trên mặt nước. Đây đều là đối tượng của những tranh chấp lãnh thổ địa chính trị gay gắt và phức tạp với số lượng ngày càng tăng lên. Vào giữa năm 2010, Trung Quốc khuấy động cả khu vực khi gọi Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”. Trung Quốc đã yêu sách toàn bộ những gì nằm trong khu vực mà nước này coi là “đường lịch sử” và đánh dấu trên bản đồ bằng cái gọi là “đường chín đoạn” ngang ngược - một đường vòng cung hình lưỡi bò bao trọn tất cả các đảo từ đảo Hải Nam cách Trung Quốc 1.200 dặm về phía nam đến gần Singapore và Malaysia. Đây là trung tâm của toàn bộ Biển Đông. Kết quả của tuyên bố bành trướng hung hăng này là tất cả các quốc gia ven biển đều chống lại Trung Quốc. Họ cũng ngày càng quay sang Mỹ để giành lấy sự ủng hộ về mặt quân sự và ngoại giao.
“Đường biên giới trên bộ không còn là vấn đề quan trọng với chúng tôi nữa khi so sánh với Biển Đông”, ông Nguyễn Duy Chiến, Phó Chủ tịch Ủy ban Biên giới quốc gia khi đó cho hay. Khi chúng tôi gặp ông ở văn phòng bày trí hết sức giản dị của ông, ông Chiến đang vận bộ complet màu xám và tiếp đón tôi theo phong cách đặc trưng của người Việt Nam khiến tôi nhớ tới ấn tượng của chính khách Singapore Lý Quang Diệu, về các nhà lãnh đạo Việt Nam những năm 1970 là vô cùng nghiêm túc và trọng Nho giáo. Cuộc gặp bắt đầu và kết thúc rất đúng giờ. Ông Chiến cho chúng tôi xem một bài thuyết trình hết sức chi tiết, phê phán tham vọng bành trướng ở Biển Đông từ mọi góc độ.
Ông Chiến cho hay 1/3 dân số Việt Nam sống ở ven biển và lĩnh vực biển chiếm 50% GDP của đất nước. Việt Nam có chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý trên Biển Đông. Đây chính là vùng đặc quyền kinh tế được Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển công nhận. Ông Chiến giải thích rằng Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết được phần lớn các vấn đề ở Vịnh Bắc Bộ bằng cách chia đôi khu vực vịnh. Ông Chiến quả quyết: “Nhưng chúng tôi không thể chấp nhận “đường lưỡi bò”. Trung Quốc nói rằng khu vực này đang trong tranh chấp. Chúng tôi không công nhận điều đó. “Đường lưỡi bò” đã xâm phạm đến chủ quyền của 5 quốc gia”.
Sau đó ông Chiến cho tôi xem một loạt các bản đồ trên máy tính của ông và kể lại lịch sử lâu đời của dân tộc: “Khi quân Minh xâm lược Việt Nam vào thế kỷ XV, họ không chiếm đóng trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Nếu những quần đảo này thuộc về Trung Quốc, tại sao nhà Minh không vẽ trên bản đồ? Vào đầu thế kỷ XX, nếu như hai quần đảo này thuộc về Trung Quốc thì tại sao nhà Thanh lại lờ chúng đi ?”.
Trung Quốc đã triển khai trái phép các công trình quân sự và chiến đấu cơ J-11B tới đảo Phú Lâm trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam
Vào năm 1933, Pháp đưa quân đến quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ông Chiến nêu rõ rằng những quần đảo này thuộc về Đông Dương thuộc Pháp, do đó bây giờ chúng phải thuộc về Việt Nam. Ông cũng bổ sung rằng vào năm 1956 và năm 1988, Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm lấy các đảo đá trong quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam). Cuối cùng, ông Chiến cho tôi xem một slide hình ảnh nhà thờ Santa Maria del Monte ở Italy đang giữ một ghi chép địa lý từ năm 1850 với một trang rưỡi giải thích quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam ra sao.
Người Việt Nam nhắc đi nhắc lại với tôi rằng Biển Đông không chỉ là khu vực tranh chấp lãnh thổ, nó còn là nơi giao nhau của thương mại hàng hải toàn cầu, là khu vực hết sức quan trọng đối với nhu cầu năng lượng của Hàn Quốc và Nhật Bản và là nơi mà một ngày nào đó Trung Quốc có thể kiểm tra sức mạnh của Mỹ ở châu Á. Việt Nam thực sự nằm ở trung tâm lịch sử và văn hóa của khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương – cái tên mà các nhà hoạch định chính sách của chính quyền Obama gọi khu vực Ấn Độ và Đông Á.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta từng đến thăm Cam Ranh
Không gì minh họa mong muốn của Việt Nam trở thành một nhân tố lớn trong khu vực hơn việc nước này gần đây đã mua của Nga 6 tàu ngầm lớp Kilo tuyệt tác. Một chuyên gia quốc phòng phương Tây ở Hà Nội nói với tôi rằng thương vụ tương đối tốn kém với Việt Nam khi phải bỏ ra một khoản kinh phí không nhỏ để duy trì những tàu ngầm này. Quan trọng hơn, chuyên gia cho rằng người Việt Nam sẽ phải huấn luyện các thủy thủ để sử dụng chúng – một công việc phải đào tạo cả một thế hệ mới. “Để đối phó với tàu ngầm đối thủ, họ nên tập trung vào tác chiến chống tàu ngầm và bảo vệ ven biển”. Rõ ràng người Việt Nam đã mua những chiếc tàu ngầm này để khẳng định rằng “Chúng tôi đang rất nghiêm túc”.
Thỏa thuận tàu ngầm trị giá nhiều tỷ USD với Nga này bao gồm cả 200 triệu USD chi phí xây dựng cơ sở bảo dưỡng, nâng cấp cảng Cam Rang – một trong những cảng nước sâu tốt nhất Đông Nam Á, khống chế các tuyến đường hàng hải ở Biển Đông và từng là một căn cứ vận hành lớn của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt – Mỹ. Người Việt Nam đã tuyên bố mục đích của họ là để Vịnh Cam Ranh luôn sẵn sàng chào đón hải quân các nước ghé thăm.
Việt Nam đã khai trương cảng quốc tế Cam Ranh và tiếp đón tàu hải quân nhiều nước ghé thăm
Tàu ngầm Kilo và chiến hạm Gepard của hải quân Việt Nam trên vịnh Cam Ranh
Tàu ngầm Kilo của hải quân Việt Nam
Ian Storey, một nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore đã nhận định Vịnh Cam Ranh sẽ có thể trở thành phương tiện tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ và tạo điều kiện cho sự hiện diện của quân đội Mỹ ở Đông Nam Á như đối trọng với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Vịnh Cam Ranh có vai trò hoàn hảo với chiến lược “địa điểm chứ không phải căn cứ quân sự” của Lầu Năm Góc. Theo đó các tàu bè và máy bay Mỹ có thể thường xuyên ghé thăm các tiền đồn quân sự nước ngoài để sữa chữa và tiếp tế mà không cần sự sắp xếp chính thức và nhạy cảm về mặt chính trị.
Quan hệ đối tác chiến lược Việt – Mỹ trên thực tế đã được tuyên bố vào tháng 7/2010 tại Diễn đàn khu vực Đông Nam Á họp tại Hà Nội, khi Ngoại trưởng Hillary Clinton đã tuyên bố rằng Mỹ có lợi ích quốc gia ở Biển Đông và Mỹ sẵn sàng tham gia vào các nỗ lực đa phương để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ tại đây. Theo bà Hillary, các yêu sách lãnh hải phải dựa trên cơ sở các thực thể trên mặt đất, khái niệm thềm lục địa đã bị cái gọi là “đường lịch sử” của Trung Quốc xâm phạm. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì khi ấy đã gọi bài phát biểu của bà Hillary “thực sự là một cuộc tấn công Trung Quốc”. Thế nhưng các quan chức Mỹ đã nhún vai trước lời bình luận của ông Dương Khiết Trì.

Việt Nam hiểu rõ tình thế bất đối xứng về địa lí: “Nước xa không cứu được lửa gần”. Trung Quốc ở ngay sát sườn còn Mỹ lại cách Việt Nam cả nửa vòng trái đất. Ông Nguyễn Tâm Chiến, cựu Thứ trưởng ngoại giao đã tâm sự: “Chúng tôi không chuyển nhà đi đâu được. Theo số liệu thì chúng tôi chỉ bằng một tỉnh của Trung Quốc”.

Lực lượng trinh sát đăc nhiệm của Quân đội nhân dân Việt NamLực lượng trinh sát đăc nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam
Kể từ đó, chính quyền ông Obama đã công bố kế hoạch luân phiên 2.500 lính thủy đánh bộ trong và ngoài Bắc Úc, tuyên bố rằng sự cắt giảm ngân sách của Lầu Năm Góc sẽ không đời nào ảnh hưởng đến chi phí của quân đội Mỹ ở Thái Bình Dương. Đồng thời Obama cũng công bố chiến lược xoay trục từ Trung Đông sang Thái Bình Dương. Cách Mỹ nhìn nhận thế giới cũng giống như các nước láng giềng Trung Quốc: Thế giới đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc. Điểm khác biệt là trong khi Mỹ có nhiều lợi ích địa chính trị ở đây, Việt Nam chỉ có duy nhất một lợi ích: đó là đối phó với tham vọng của Trung Quốc.
Nhưng Việt Nam không hề rời xa Trung Quốc và sa vào vòng tay của Mỹ. Việt Nam có mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc. Trong khi Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, Việt Nam lại nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc nhiều hơn bất kỳ nước nào, từ bông, máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu, đồ điện tử, da và các mặt hàng tiêu dùng khác.
Nhiều ngành trong nền kinh tế Việt Nam vận hành chật vật nếu thiếu Trung Quốc, kể cả khi sự tràn ngập các hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc cản trở sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước. Hơn nữa, các quan chức Việt Nam hiểu rõ tình thế bất đối xứng về địa lí của họ: “Nước xa không cứu được lửa gần”. Trung Quốc ở ngay sát sườn còn Mỹ lại cách Việt Nam cả nửa vòng trái đất. Ông Nguyễn Tâm Chiến, cựu Thứ trưởng ngoại giao đã tâm sự với tôi: “Chúng tôi không chuyển nhà đi đâu được. Theo số liệu thì chúng tôi chỉ bằng một tỉnh của Trung Quốc”.

Vì Liên Xô từng không giúp đỡ Việt Nam năm 1979 (đặc biệt là năm 1988-ND) nên Việt Nam sẽ không bao giờ hoàn toàn tin tưởng một cường quốc ở xa nữa. Ngoài vấn đề về khoảng cách địa lý, Việt Nam về cơ bản cũng không tin tưởng Mỹ. Một quan chức Việt Nam đã nói với tôi rằng Mỹ đang suy yếu, tình trạng này ngày càng tồi tệ vì sự tiếp tục sa lầy của Mỹ ở Trung Đông hơn là vì sự trỗi dậy của Trung Quốc ở Đông Á, bất chấp những phản đối gần đây. Cho dù phân tích như vậy là chủ quan nhưng nó vẫn có thể đúng.
Tổng thống Mỹ Barack Obama được đón tiếp nồng hậu tại Việt Nam
Người dân Hà Nội nồng nhiệt đón chào ông Obama
Do đó, Việt Nam có quyền nghi ngại rằng Mỹ sẽ bán đứng Việt Nam để tạo mối quan hệ nồng ấm hơn với Trung Quốc. Ông Ngô Quang xuân, cho rằng sự mở đường của Nixon cho Trung Quốc đã tạo bối cảnh chiến lược cho Trung Quốc tấn công Việt Nam. Ông Xuân nói: “Nó có thể xảy ra một lần nữa”. Ông Lê Chí Dũng, Vụ trưởng ở Bộ Ngoại giao thời điểm đó đã giải thích tư tưởng chính trị của Việt Nam: “Giá trị cao nhất nằm ở sự độc lập và đoàn kết dân tộc. Chính nhà nước chứ không phải một cá nhân nào đem lại tự do”.
Trên thực tế, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với kinh tế thị trường kiểu tư bản một phần được giải thích bởi sự tín nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố đã lãnh đạo và đưa đất nước tới thành công trong suốt các cuộc chiến đấu chống Pháp, Mỹ và Trung Quốc. Hơn nữa, cũng giống như nhà lãnh đạo Tito ở Nam Tư, Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo Việt Nam đích thực, chứ không phải nhân vật do nước ngoài dựng lên.
Những người Cộng sản Việt Nam đã thực hiện những điểm tương đồng giữa Tư tưởng Hồ Chí Minh và Nho giáo, đó là sự tôn trọng gia đình và chính quyền. “Tinh thần dân tộc được hình thành từ Nho giáo”, ông Lê Chí Dũng đúc rút. Neil Jamieson, tác giả của cuốn Understanding Vietnam (tạm dịch: Thấu hiểu Việt Nam) năm 1993 đã viết về những giá trị chung của người Việt về chủ nghĩa tuyệt đối, một sự thừa nhận “trật tự luân lý cơ bản trên thế giới”. Đặc tính này liên quan đến tư tưởng chính nghĩa - có thể hiểu là nghĩa vụ xã hội với gia đình và cộng đồng.
Tuy nhiên một lí do nữa giải thích vì sao Đảng Cộng sản có thể giữ vị thế lãnh đạo lâu dài Việt Nam là bởi khả năng linh hoạt, tự đổi mới. Việt Nam ở trong tình thế giống Trung Quốc, họ đều đã bắt tay vào một cuộc thí nghiệm tương tự: Đem lại sự giàu có kiểu tư bản vào một đất nước do Đảng Cộng sản cầm quyền.
Trong ¼ thế kỷ, Việt Nam đã chuyển từ thời kỳ bao cấp sử dụng tem phiếu trở thành một trong những nước dư thừa gạo nhất trên thế giới. Việt Nam đã thoát khỏi nước có thu nhập thấp lên nhóm nước có thu nhập trung bình thấp với GDP trên đầu người đạt 1.100 USD. Thay vì chỉ có một nhà lãnh đạo đơn lẻ, độc quyền nhưng không hiệu quả giống như ở Tunisia, Ai Cập, Syria và các nước Ả Rập khác, ban lãnh đạo của Việt Nam gồm Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và Thủ tướng… đã lãnh đạo đất nước đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 7%/năm trong hơn một thập kỷ qua. Kể cả trong cơn đại suy thoái năm 2009, Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 5,5%.
“Đây là một trong những thành tích ấn tượng nhất trong công cuộc xóa đói giảm nghèo trong lịch sử thế giới”, một nhà ngoại giao phương Tây cho hay, “người Việt Nam trước đây chỉ đi xe đạp, giờ họ đã có xe máy.” Điều đó đối với người Việt Nam có lẽ là dân chủ. Và người ta có thể nói rằng chế độ ở Việt Nam và Trung Quốc không cướp đi nhân phẩm của người dân như cách mà người Trung Đông đã làm. Một cựu quan chức cấp cao đã bộc bạch với tôi: “Các lãnh đạo Trung Đông ở trong trụ sở quá lâu và đã duy trì tình trạng khẩn cấp trong nhiều thập kỷ qua. Nhưng ở Việt Nam thì không phải thế. Tuy nhiên, vấn đề tham nhũng, khoảng cách thu nhập giàu nghèo và tỉ lệ thất nghiệp ở người trẻ cao thì chúng tôi vẫn còn nhiều vấn đề”.
Mức sống của người Việt Nam ngày càng cao. Dự kiến Việt Nam sẽ có khoảng 33 triệu người thuộc tầng lớp trung lưu và giàu có vào năm 2020
Các cuộc triển lãm ô tô ở Việt Nam luôn thu hút rất đông khách tham quan
Bóng ma của Mùa xuân Ả Rập ít làm Đảng Cộng sản Việt Nam lo ngại. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo cũng lo lắng rằng sự cải cách chính trị không đúng có thể dẫn tới con đường như miền Nam trước 1975 với chính phủ yếu kém và nạn bè phái đã dẫn tới sự sụp đổ của chính quyền. Hay như Trung Quốc vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với chính quyền trung ương yếu kém dẫn đến sự đô hộ của nước ngoài. Các quan chức Việt Nam ngưỡng mộ Singapore, một nước chủ yếu theo chế độ lãnh đạo một đảng nhưng duy trì một chính phủ kỷ luật, sạch sẽ và đất nước phát triển.
Trong khi đó, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục dựa vào truyền thống và niềm kiêu hãnh lịch sử, các chính sách kinh tế tư bản chủ nghĩa và sự kiểm soát chính trị chặt chẽ để duy trì sự độc lập đối với Trung Quốc. Họ biết rằng, không giống như những quốc gia Mùa xuân Ả Rập, Việt Nam phải đối mặt với một kẻ thù bên ngoài đích thực,.
Nhưng giống như các lãnh đạo Ấn Độ, các lãnh đạo Việt Nam rất thận trọng với bất kỳ hiệp ước nào với Mỹ. Thực tế, nếu như nhu cầu về một hiệp ước quốc phòng với Mỹ nổi lên hơn bao giờ hết, điều đó có nghĩa là tình hình an ninh ở Biển Đông đã trở nên bất ổn hơn. Trong bất kỳ trường hợp nào, vận mệnh của Việt Nam và khả năng trụ vững trước Trung Quốc sẽ bộc lộ rất nhiều năng lực của Mỹ trong việc triển khai sức mạnh ở Thái Bình Dương và trên toàn thế giới trong thế kỷ XXI, như Việt Nam đã từng thể hiện trong thế kỷ XX.
* Lược thuật bài viết của tác giả Robert D.Kaplan - nhà phân tích địa chính trị hàng đầu tại Stratfor và là phóng vên quốc gia của The Atlantic. Ông cũng là tác giả của cuốn The Revenge of Geography: What the Map Tells Us About Coming Conflicts and the Battle Against Fate (tạm dịch “Sự trả thù của địa lí: bản đồ bật mí về những cuộc xung đột và trận chiến chống lại số phận sắp diễn ra”) xuất bản tháng 9/2012
http://viettimes.vn/the-gioi/dia-chinh-tri/cam-ranh-viet-nam-voi-van-co-sieu-cuong-74983.html

http://viettimes.vn/the-gioi/dia-chinh-tri/viet-nam-truoc-van-co-sieu-cuong-my-va-trung-quoc-75186.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét