Thứ Năm, 3 tháng 9, 2015

Tổng quan tàu tên lửa Trung Quốc

Tổng quan về các lớp tàu chiến nổi chủ lực trang bị tên lửa có điều khiển của hải quân Trung Quốc như: tàu khu trục, frigate, tàu (xuồng) tên lửa.
Các tàu khu trục tên lửa lớp Sovremenny của Trung Quốc tại cuộc tập trận hải quân “Hợp tác trên biển  2012”


Trong phần giới thiệu của cuốn sách “Con rồng đỏ: hải quân Trung Quốc hiện đại” của mình, tác giả Yu.V. Vedernikov lưu ý đến tình tiết mà theo ông là oái oăm là một cường quốc lục địa như Trung Quốc trong sự phát triển của mình lại đặt trọng tâm chính vào việc kiến lập thành tố sức mạnh biển. Trên thực tế, ở đây chẳng có gì là mâu thuẫn nếu chú ý tới các yếu tố có tính địa lý và kinh tế, điều đã được nhà sáng lập hãng phân tích tình báo Mỹ Stratfor, ông John Fridman chỉ ra một cách xác đáng: “Trung Quốc - về bản chất, đó là một hòn đảo. Dĩ nhiên là nó không bị nước bao bọc, mà thay vào đó bao quanh nó là các vùng địa hình không thể đi lại và các vùng đất hoang vắng cô lập nó một cách chắc chắn khỏi thế giới còn lại” [1]. Phần lớn dân số Trung Quốc sinh sống ở 1/3 lãnh thổ Trung Quốc ở ven biển, tại đây cũng tập trung toàn bộ nền công nghiệp vốn phụ thuộc nặng nề vào các luồng giao thông hàng hải liên quan đến cung cấp nguyên liệu cho Trung Quốc và xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc ra thị trường quốc tế.

Báo cáo hàng năm của Lầu Năm góc nhấn mạnh rằng, vào năm 2012, 84 % lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển qua Biển Đông và eo biển Malacca [2]. Ngoài ra, trên toàn bộ vùng biển tiếp giáp khu vực bờ biển Trung Quốc, từ Nhật Bản đến Việt Nam, Trung Quốc có tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết với các nước trong khu vực này, trong đó có những khu vực được cho là có các mỏ dầu và khí đốt.

Trong bối cảnh đó, mong muốn xây dựng lực lượng hải quân hiện đại mà trong quá khứ gặp phải những hạn chế về kinh tế xem ra có vẻ tự nhiên. Xét đến phổ nhiệm vụ rộng đặt ra trước hải quân, Trung Quốc đang xây dựng lực lượng hải quân truyền thống mà một trong những thành phần quan trọng nhất của nó là sự hiện diện đông đảo của các lớp tàu hộ tống vạn năng là tàu khu trục và frigate.

Sự chú ý đến các lớp tàu này, cũng nhưa tầm quan trọng của chúng  trong tiềm lực chung của hải quân Trung Quốc sẽ khó mà giảm đi vì nhiều lý do. Chỉ xin dẫn ra vài lập luận bảo vệ giả định đó. Tàu khu trục và frigate là các bệ mang đủ lớn và tiện lợi để bố trí các hệ thống vũ khí, cho phép giải quyết mấy nhiệm vụ chính cùng một lúc là tác chiến chống ngầm, tác chiến chống hạm, phòng không. Đồng thời, cùng với sự gia tăng uy lực của vũ khí có điều khiển trên hạm, chúng có thể được sử dụng ngày một nhiều hơn cho mục tiêu cô lập các khu trục tác chiến và phá hoại các tuyến giao thông của đối phương - những nhiệm vụ đã được phản ánh rộng rãi trong thuật ngữ A2/AD (Anti-access/area denial - chống tiếp cận/phong tỏa khu vực) của Mỹ, và cũng là điều khiến Mỹ và các đồng minh lo ngại trước hết.

Các lớp tàu này có tính độc lập khá cao và có khả năng đi biển tốt, cự ly hành trình lớn, có lượng giãn nước và kích thước cho phép lắp đặt nhiều loại vũ khí dành cho các hoạt động đơn lẻ và hoạt động trong đội hình binh đoàn, trong khi có giá chấp nhận được. 

Trung Quốc đang xây dựng hạm đội tàu sân bay, điều tất yếu đòi hỏi hải quân Trung Quốc phải có các binh đoàn tàu bảo vệ và hộ tống. Sự có mặt trong hải quân Trung Quốc vào giữa thập kỷ này của chỉ một tàu sân bay mà về bản chất là tàu thử nghiệm và những khó khăn trong việc hình thành lực lượng không quân trên hạm không hề có nghĩa là Trung Quốc sẽ từ bỏ nhiệm vụ đầy tham vọng này. Sự gia tăng năng lực chiến đấu của tàu ngầm hiện đại mà người ta thậm chí còn sử dụng thuật ngữ “cách mạng” tự động đặt ra nhiệm vụ tăng cường các phương tiện chống ngầm, không chỉ về chất mà cả về số lượng.

Biên chế và sự phát triển
Trong báo cáo thường niên của Bộ Quốc phòng Mỹ công bố ngày 24/4/2014, tổng biên chế của hải quân Trung Quốc ước có khoảng 77 tàu chiến mặt nước, hơn 60 tàu ngầm, 55 tàu đổ bộ cỡ vừa và lớn, khoảng 85 tàu (xuồng) tên lửa [3].

Cũng theo báo cáo này, số liệu chi tiết về số lượng tàu chiến có thể liệt vào nhóm tàu hộ tống là: tàu khu trục - 24 chiếc, frigate - 49 chiếc, corvette (tàu hộ vệ) - 8 chiếc [4]. Sự không khớp nào đó có thể là do những khó khăn đối với các chuyên gia về Trung Quốc trong việc xác định biên chế và tính năng các tàu để đánh giá, điều đó được nêu riêng trong văn bản báo cáo của Cục Tình báo Hải quân Mỹ (Office of Navy Intelligence) về các xu hướng hoàn thiện hải quân Trung Quốc được đệ trình trước Ủy ban Đánh giá Kinh tế và an ninh Mỹ-Trung (US-China Economic and Security Review Commission) của Mỹ vào cuối tháng 1/2014 [5].

Đáng chú ý là trong số lượng kể trên có 14 tàu khu trục, 40 frigate và 6 corvette, cũng như 67 tàu tên lửa, tức là một phần rất lớn trong toàn bộ lực lượng các lớp tàu này của hải quân Trung Quốc thuộc biên chế các hạm đội Đông Hải và Nam hải, nghĩa là ở các khu vực có các tuyến giao thông then chốt (eo biển Malacca), đảo Đài Loan và tranh chấp lãnh thổ.

Thắng lợi trong cuộc chiến tranh hiện đại trên biển - và không chỉ có thế - không thể đạt được bằng cách sử dụng các hệ thống vũ khí lạc hậu mà được xác định bởi sự hiện diện của các hệ thống vũ khí tên lửa có điều khiển hiện đại trên các hạm tàu trong khi có các điều kiện tương đương khác. Chính vì nguyên nhân đó, tổng quan về các tàu nổi của hải quân Trung Quốc nên được thực hiện đối với bộ phận các tàu chiến được trang bị vũ khí tên lửa có điều khiển.

Một luận cứ bổ sung khác hậu thuẫn cách tiếp cận đó là việc thay đổi cơ cấu biên chế tàu. Vào năm 2014, trong biên chế của hải quân Trung Quốc có 16 tàu khu trục tên lửa, 54 frigate tên lửa và 8 corvette tên lửa (frigate hạng nhẹ ) [6]. Trong hai thập niên qua, Trung Quốc đã có những nỗ lực lớn nhằm thay thế các tàu lạc hậu. Từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã mua từ Nga 4 tàu khu trục lớp Sovremenny chia thành 2 lô và đưa vào hoạt động 10 loại tàu khu trục và frigate nội địa mới mà một số loại trong số đó là các biến thể của cùng một loại tàu. Các tàu khu trục lớp Sovremenny được đặt mua vào năm 1996, 2 tàu đầu tiên được đưa vào biên chế vào năm 1999 và 2001, 2 tàu tiếp theo có thiết kế cải tiến được đặt mua vào năm 2002 và đưa vào biên chế vào năm 2005 và 2006. Trung Quốc phải mua các siêu khu trục Nga rõ ràng là vì hồi đó họ không thể giải quyết được nhiệm vụ trang bị cho hạm đội các tàu chiến nội địa hiện đại, uy lực mạnh.

Như vậy, theo đánh giá của Cục Tình báo Hải quân Mỹ , nếu chưa đầy 10 năm trước, hạm đội tàu nổi của Trung Quốc chỉ là tập hợp hổ lốn kỳ lạ của các tàu cổ lỗ, hiện đại và hiện đại hóa mua ở nước ngoài và nội địa với đủ loại vũ khí có tính năng và độ tin cậy rát khác nhau, thì vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI, chính sách trang bị cho hải quân Trung Quốc đã chuyển hẳn về hướng mua tàu chiến tự đóng, được trang chủ yếu các hệ thống vũ khí và thiết bị Trung Quốc, nhưng có sử dụng các hệ thống và bộ phận riêng lẻ nhập khẩu hay sản xuất theo giấy phép [7].

Quá trình phát triển biên chế các lớp tàu mặt nước chủ lực của hải quân Trung Quốc được giới thiệu trong bảng 1 (tàu khu trục) và bảng 2 (frigate) lập trên cơ sở tài liệu của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế CSIS (Center for Strategic and International Studies) tháng 11/2014. Các số liệu ở cột năm 2014 dẫn số liệu tính đến đầu năm 2014 (trong năm 2013). Các corvette (frigate hạng nhẹ) lớp Type 056 (Jiangdao) không được nêu trong các bảng này vì lớp tàu này là mới, theo các nguồn tin khác nhau, 8-9 tàu đầu tiên của lớp này đã được biên chế cho hải quân Trung Quốc vào năm 2013, còn đến tháng 11/2014, con số đã tăng lên tới 18. Tổng số tàu lớp Type 056 dự kiến sẽ là không dưới 30 chiếc. Dự đoán, các corvette này sẽ thay thế các frigate lạc hậu lớp Giang Hồ (Jianghu) và các tàu tên lửa lớp Houxin [8].

Bảng 1: Số lượng tàu khu trục của hải quân Trung Quốc giai đoạn 1990-2014

Lớp tàu Năm 1990Năm 2000 Năm 2010Năm 2014 
Hàng Châu (Sovremenny)-144
Lữ Đại III (Type 051GII) -11-
Lữ Đại II (Type 051G)121-
Lữ Hải (Type 051B)-111
Lữ Hồ (Type 052)-222
Lư Dương (Type 052B)--22
Lư Dương II (Type 052C)--24
Lư Dương III (Type 052D)---1
Lô Châu (Type 051C)--22
Anshan (Gordy của Liên Xô) 2---
Tổng cộng 19202816*

Theo Chinese Strategy and Military Power in 2014 / Anthony H. Cordesman // CSIS, tháng 11.2014, tr. 234. (Tài liệu gốc nêu con số 15 tàu, không khớp với số lượng tính theo các lớp).

Bảng 2: Số lượng tàu frigate của hải quân Trung Quốc giai đoạn 1990-2014

Lớp tàu Năm 1990Năm 2000 Năm 2010Năm 2014 
Giang Hồ I (Type 053H) 1326112
Giang Hồ II (Type 053H1)9196
Giang Hồ III (Type 053H2)2331
Giang Hồ IV (Type 053H1Q)2-11
Giang Hồ V (Type 053H1G)--66
Giang Vệ I (Type 053H2G)-444
Giang Vệ II (Type 053)-61010
Giang Đông
2---
Thành Đô 4---
Giang Khải I (Type 054)-
Giang Khải II (Type 054A)-15 
Lữ Đại II (Type 051)-
Lữ Đại III (Type 051DT/G)
Tổng cộng 304205254

Theo Chinese Strategy and Military Power in 2014 / Anthony H. Cordesman // CSIS, tháng 11.2014, tr. 234.  

Như vậy, Trung Quốc đang cương quyết hiện đại hóa các tàu chiến mặt nước cỡ lớn trong khi rút khỏi biên chế hạm đội các lớp tàu lạc hậu và triển khai đóng các lớp tàu mời. Ở giai đoạn hiện nay, việc rút khỏi biên chế hàng chục tàu chiến cũ dẫn tới sự sút giảm trông thấy (tàu khu trục) hay duy trì ở mức độ nào đó các tàu của hải quân Trung Quốc. Tuy nhiên, đây là sự thống kê tương đối vì trong thời gian tới việc đưa vào biên chế các tàu khu trục và frigate hiện đại mới sẽ bù đắp sự sút giảm số lượng, còn về mặt chất lượng thì những thay đổi đã diễn ra.

.Các lớp tàu khu trục tên lửa chủ lực của hải quân Trung Quốc.



Type 051


Cho đến khá gần đây, các tàu khu trục tên lửa trong biên chế hải quân Trung Quốc là các tàu lớp Lữ Đại/Type 051 (Luda) được chế tạo trên cơ sở tàu lớp Projekt 56 của Liên Xô. Tổng cộng đã đóng 17 tàu trong thập niên 1970-1990 theo mấy loạt (Lữ Đại - Type 051, Type 051DT, Lữ Đại II - Type 051G, Lữ Đại III - Type 051GII) khác nhau ở phần trang bị vũ khí. Đến năm 2014, chúng đã bị loại khỏi biên chế hải quân Trung Quốc.

Tất cả các tàu khu trục lớp Type 051 có lượng giãn nước 3.700 tấn và được trang bị 2 bệ phóng (mỗi bệ lắp 3 ống phóng tên lửa chống hạm tầm trung HY-2 (С-201) - sao chép tên lửa P-15 của Liên Xô) và 1 bệ phóng mang 8 ống phóng tên lửa phòng không HQ-7. Một số tàu được trang bị 2 bệ phóng (mỗi bệ lắp 4 ống phóng), còn loạt tàu cuối lắp các bệ phóng tên lửa chống hạm С-801.

Vũ khí pháo binh trên tàu gồm 1 hoặc 2 ụ pháo 2 nòng 130 mm, 4 ụ pháo 2 nòng 37 mm hay 57 mm, 2 cụm x 2 ống phóng lôi 324 mm, 2 bệ phóng bom chống ngầm 12 nòng. Type 051 được trang bị hệ thống thông tin-chỉ huy ZKJ-4B/6, 2 radar dẫn đường Racal RM-1290, radar phát hiện mục tiêu mặt nước/trên không Type 381 và Type 360 (Thomson-CSF Sea Tiger) hoặc Square Tie, radar phát hiện mục tiêu trên không Type 517 hay Hughes, hệ thống điều khiển hỏa lực Wasp Head (Wok Won) hoặc Sun Visor В Type 343 hay Rice Lamp, radar dẫn đường Decca 1290 của công ty Racal, các trạm thủy âm chủ động Pegas 2М và Tamir 2 hay trạm thủy âm thả chìm độ sâu thay đổi DUBV 23. Trên các tàu này bố trí 2 trực thăng chống ngầm Z-9.

Việc điều khiển hỏa lực tên lửa phòng không được thực hiện nhờ hệ thống điều khiển hỏa lực Type 345 (Castor II do công ty Pháp Thomson-CSF phát triển), còn điều khiển bắn các ụ pháo 30 mm được thực hiện nhờ hệ thống điều khiển hỏa lực Type 347G.

Như vậy, ban đầu, hạm đội Trung Quốc được trang bị các tàu không phải được chế tạo chuyên để mang vũ khí có điều khiển mà là các mẫu tàu pháo-ngư lôi được cải tạo và hiện đại hóa.

Từ giữa thập niên 1990, Trung Quốc đã có những nỗ lực thay đổi cơ cấu chất lượng đội tàu khu trục bằng cách đóng các lớp tàu Type 051B và 052.

Type 052

Năm 1994-1996, hải quân Trung Quốc đưa vào biên chế 2 tàu khu trục lớp Type 052 Lữ Hồ (Luhu) có lượng giãn nước đầy đủ 5.700 tấn. Đây là những khu trục tương đối hiện đại đầu tiên của hải quân Trung Quốc. Vũ khí gồm 2 hệ thống tên lửa chống hạm (x2 ống phóng) YJ-82 (C-802); có lẽ các thông tin này liên quan đến việc hiện đại hóa vào năm 2004, khi mà số lượng bệ phóng đã được tăng lên đến 16 (4 cụm x 4 ống phóng) và hệ thống tên lửa phòng không HQ-7 (Crotale) - 1 bệ phóng với 8 ống phóng.

Ở đuôi tàu bố trí một hăng-ga và sân cất/hạ cánh cho 2 trực thăng Z-9A (biến thể Trung Quốc sản xuất theo giấy phép của trực thăng Pháp Dauphin-II) với hệ thống bảo đảm cất/hạ cánh Safecopter. Trực thăng có thể mang 2 ngư lôi chống ngầm А244 của Italia hay Мk.46 Mod.2 của Mỹ, trạm thủy âm thả chìm của Pháp Type HG-12 và một từ kế. Để tiêu diệt mục tiêu mặt nước, trực thăng có thể mang các tên lửa chống hạm.

Ngoài ra, các tàu khu trục còn đượclắp 1 ụ pháo 2 nòng 100 mm và 4 ụ pháo phòng không 2 nòng 37 mm, 2 thiết bị phóng lôi 324 мм (ngư lôi Yu-2) và 2 hệ thống phóng bom chống ngầm 12 nòng. Các tàu sử dụng động cơ turbine khí: trên tàu đầu tiên là động cơ Mỹ GE LM2500 công suất 55.000 mã lực mua qua Thái Lan để né cấm vận, trên tàu thứ hai dùng động cơ Ukraine GT25000 công suất 48.600 mã lực.

Trong hệ thống động lực chính của tàu, thành phần động cơ diesel trên cả 2 tàu là các động cơ diesel Đức MTU 12V 1163TB83 do Trung Quốc sản xuất theo giấy phép, có tổng công suất 8.840 mã lực. Sự kết hợp động cơ turbine khí Ukraine với động cơ diesel sản xuất theo giấy phép của Đức cũng được áp dụng trên các tàu khu trục sau đó của Trung Quốc.

Các tàu khu trục lớp Type 052 được trang bị radar phát hiện Type 360 (DRBV-15 SEA TIGER) của Pháp, cho phép phát hiện mục tiêu bay ở cự ly đến 110 km, mục tiêu mặt nước ở cự ly đến 38 km, và hệ thống thông tin-chỉ huy ZKJ-4B/6 (Thomson-CSF TAVITAC của Pháp), hệ thống điều khiển hỏa lực Thomson-CSF Crotale và hệ thống điều khiển hỏa lực tên lửa/pháo VEGA, trạm thủy âm kéo DUBV-43.

Lô Châu (Luzhou), về mặt cấu tạo chính là thân tàu giống với Type 051B Lữ Hải (Luhai), lượng giãn nước tăng lên đến 7.100 tấn, nhưng được trang bị 6 bệ phóng (mỗi bệ chứa 8 tên lửa) của hệ thống tên lửa phòng không S-300F (Rif-М) của Nga và 2 hệ thống pháo phòng không Type 730 được thiết kế theo ý tưởng hệ thống Vulcan-Phalanx với các hệ thống ngắm được làm liền khối với ụ pháo, vốn đã trở thành xu thế toàn thế giới đối với các hệ thống này. Đối với hạm đội Trung Quốc, tập hợp vũ khí đó lúc đó có thể coi là bước tiến lớn về mặt tăng cường mạnh mẽ tiềm lực tác chiến phòng không của tàu, cũng như về mặt phát triển công nghệ đóng tàu quân sự của Trung Quốc.

Do những thay đổi kết cấu ở phần giữa tàu, số lượng bệ phóng tên lửa chống hạm đã giảm xuống còn 8 (2 cụm x 4 ống phóng). Tuy nhiên, khẳng định của Yu.V. Vedernikov về việc tàu không được trang bị trực thăng [11] có lẽ không hoàn toàn đúng khi phân tích các bức ảnh của tàu khu trục này. Việc bố trí 4 bệ phóng tên lửa phòng không thẳng đứng ở phần thân tàu thường dành cho hăng-ga trực thăng sẽ khó cho phép giữ chỗ cho trực thăng ở bên trong thân tàu. Nhưng việc có bãi đáp trực thăng lại cho thấy có thể triển khai trực thăng trên tàu.

Type 051В và Type 051С
Tàu khu trục Lữ Hải 167 (Type 051B) (Jeffhead.com)

Năm 1999, tàu khu trục lớp Type 051B Lữ Hải (Luhai) có lượng giãn nước 6.000 tấn và trang bị 16 bệ phóng (4 cụm x 4 ống phóng) tên lửa chống hạm С-802 và 1 bệ phóng x 8 ống phóng tên lửa phòng không ЗРК HQ-7 (Crotale). Biến thể này của lớp không được phasttrieenr tiếp, nhưng nhà nghiên cứu Yu.A. Vedernikov cho rằng [ix], trên tàu đã dự định sử dụng các bệ phóng thẳng đứng, nhưng do các hệ thống mới chưa sẵn sàng nên Trung Quốc chỉ đóng 1 tàu khu trục kiểu này.

Khẳng định giả thiết này có thể là sự xuất hiện trong biên chế hạm đội Trung Quốc vào năm 2006-2007 của 2 tàu khu trục lớp Type 051C Luzou vốn về cấu tạo chính là các thân tàu tương tự lớp Type 051B Lữ Hải (Luhai), với lượng giãn nước tăng lên đến 7.100 tấn, nhưng được trang bị đến 6 bệ phóng x 8 tên lửa/bệ của hệ thống tên lửa phòng không Nga S-300F (Rif-M) và 2 hệ thống pháo phòng không Type 730 được thiết kế tương tự hệ thống Vulcan-Phalanx với các hệ thống ngắm được bố trí liền một khối với ụ pháo, điều đã trở thành xu thế toàn cầu đối với các hệ thống như vậy.

Đối với hạm đội Trung Quốc, thì tập hợp vũ khí đó thời ấy có thể coi là bước tiến lớn về mặt tăng mạnh khả năng phòng không của tàu, cũng như về mặt phát triển công nghệ đóng tàu Trung Quốc.

Do các thay đổi kết cấu ở phần giữa tàu, số lượng bệ phóng tên lửa chống hạm đã giảm xuống còn 8 (2 cụm x 4 ống phóng). Tuy nhiên, khẳng định của Yu.V. Vedernikov về việc tàu không có trực thăng [x] có lẽ không đúng hẳn khi phân tích các bức ảnh tàu này. Việc bố trí 4 bệ phóng tên lửa phòng không thẳng đứng ở phần thân tàu thường dành cho hăng-ga trực thăng khó có thể cho phép dành chỗ cho trực thăng ở bên trong tàu. Nhưng sự hiện diện của bãi đáp lại cho thấy trực thăng có thể bố trí trên tàu.
Tàu khu trục 116 Thạch Gia Trang [Shijiazhuang] (Type 051С) (china-defense-mashup.com)

Các bệ phóng của hệ thống tên lửa phòng không S-300F (Rif-М) được bố trí ở phần mũi (2 module) và phần đuôi (4 module). Mỗi module chứa 8 tên lửa, tổng cơ số đạn là 48 tên lửa 48N6. Tầm bắn là 5-150 km, radar của hệ thống bám được đến 12 mục tiêu, bắn đồng thời 6 mục tiêu [12].

Cần lưu ý là radar điều khiển được làm như một trạm có khả năng hoạt động ở một sector nhất định [13], khối thiết bị của nó được bố trí trên phần thượng tầng ở phần đuôi tàu. Do đó, khả năng phát huy đầy đủ tiềm năng của tên lửa phòng không trong bệ phóng thẳng đứng ở sơ đồ dẫn như thế xem ra là đáng ngờ.

Ngoài tên lửa chống hạm và tên lửa phòng không, Type 051B còn được trang bị 1 ụ pháo 2 nòng 100 mm, 4 ụ pháo phòng không 2 nòng 37 mm, 2 ống phóng lôi 324 mm (ngư lôi Yu-2), 2 trực thăng Kа-28 hay Harbin Z-9C. Tàu được trang bị radar phát hiện mục tiêu bay Rice Shield, radar phát hiện mục tiêu mặt nước và trên không Type 360S, radar điều khiển hỏa lực pháo Type 344.

Ngoài hệ thống tên lửa phòng không S-300F, Type 051С được trang bị 8 bệ phóng tên lửa chống hạm YJ-83 có tầm bắn đến 120 km, lắp động cơ hành trình turbine phản lực, đầu tự dẫn radar chủ động, tốc độ hành trình 0,9 М, phần chiến đấu nặng 165 kg. Có tin, tên lửa có thể sử dụng để tấn công mục tiêu mặt đất. Tàu còn được trang bị 1 ụ pháo một nòng 100 mm có tốc độ bắn 90 phát/phút và dùng để tác chiến chống mục tiêu mặt nước và trên không; 2 hệ thống pháo phòng không 7 nòng Type 730 cỡ 30 mm với tốc độ bắn 4.600-5.800 phát/phút và tầm bắn hiệu quả 3 km. Vũ khí chống ngầm gồm 2 ống phóng lôi 324 mm với các ngư lôi Yu-7 tầm bắn 7,3 km, tốc độ chạy 43 hải lý/h và phần chiến đấu 45 kg. Tàu có 2 hệ thống bắn vật phản xạ lưỡng cực 15 nòng.

Type 051С được trang bị radar ba chiều phát hiện mục tiêu bay Fregat-MAE-5 tầm hoạt động 120 km đối với máy bay và 50 km đối với tên lửa chống hạm, có khả năng bám đồng thời đến 40 mục tiêu; radar phát hiện mục tiêu mặt nước MR36; radar ngoài đường chân trời chỉ thị mục tiêu cho tên lửa chống hạm Mineral-ME; 2 radar nội địa Type 347G điều khiển hỏa lực của hệ thống pháo phòng không Type 730[14].

Type 052В và Type 052С

Vào khoảng thời gian xuất hiện trong hải quân Trung Quốc lớp tàu khu trục Type 051С với các bệ phóng tên lửa phòng không tầm xa thẳng đứng vào giữa những năm 2000 đã đóng 2 lớp tàu mới là Type 052B và Type 052С. Cả hai loại dựa trên một thân tàu và hệ thống động lực giống nhau, Type 052В được đưa vào biên chế vào năm 2004, Type 052С - vào cuối năm 2005.

Type 052B có lượng giãn nước 6.500 tấn, về cơ cấu vũ khí gần với các tàu khu trục lớp Projekt 956E/EM, có trên boong 2 bệ phóng hệ thống tên lửa phòng không Shtil với một ray dẫn hướng (48 tên lửa), 4 bệ phóng x 4 ống phóng tên lửa chống hạm YJ-83[15], một hăng-ga dành cho 1 trực thăng, 2 máy phóng bom Type 75 tầm bắn đến 1,2 km, các vũ khí còn lại tương tự như Type 051С: 1 ụ pháo một nòng 100 mm, 2 hệ thống pháo phòng không 30 mm Type 730, 2 ống phóng lôi.

Trung Quốc chỉ đóng loạt tàu này với số lượng 2 chiếc, trong đó chiếc thứ hai được đưa vào biên chế vào cuối năm 2004. Nguyên nhân rõ ràng là do việc cải tiến sau đó của các tàu khu trục lớp này.

Đáng chú ý là lớp tàu khu trục Type 052С. Đây là tàu hộ tống đầu tiên của Trung Quốc có cấu trúc vũ khí trang bị gần giống với DDG51 trang bị hệ thống Aegis của Mỹ. Khác biệt cơ bản so với các lớp tàu khu trục trước đó là tàu được trang bị một radr đa năng anten mạng pha quét điện tử hoàn toàn, có thiết kế dạng 4 module tĩnh trên phần thượng tầng.

Tàu có lượng giãn nước 6.600 tấn, trang bị 8 bệ phóng của hệ thống tên lửa phòng không HQ-9, mỗi bệ lắp 6 tên lửa. Phần lớn các bệ phóng (4 bệ) được lắp ở phần mũi tàu, chỉ có 2 bệ lắp ở đuôi, ở giữa phần thượng tầng, vốn được sử dụng làm hăng-ga chứa trực thăng. Như vậy, khác với Type 051С, trên tàu vẫn còn chỗ dành cho một trực thăng.

Một khác biệt ở trang bị vũ khí là tên lửa chống hạm YJ-62 (C-602) lắp trên 2 bệ phóng x 4 ống phóng [16]. Các vũ khí còn lại giống như Type 052В.

Ngày 9/1/2015, hải quân Trung Quốc đưa vào biên chế tàu thứ 9 có tên Tây An (Xian) của lớp tàu này [17].

Type 052D
Với việc chế tạo các tàu khu trục lớp Type 052D, hải quân Trung Quốc đã thực hiện được bước tiến từ đóng các tàu thông thường, trang bị các hệ thống tên lửa chuyên dụng sang chế tạo một chiến hạm đa năng kiểu Aegis của Mỹ, có khả năng thực hiện nhiều nhiệm vụ hơn so với các nhiệm vụ đặc trưng của các tàu làm nhiệm vụ hộ tống trước đó của hải quân Trung Quốc, kể cả tấn công các mục tiêu bờ bằng tên lửa hành trình.

Tàu đầu tiên lớp này được đưa vào biên chế ngày 21/3/2014, cuối năm đó có tin, tàu thứ hai là Trường Sa (Changsha) đang chạy thử, còn 6 tàu khác đang được đóng ở các giai đoạn khác nhau [18].

Theo các chuyên gia, Type 052D sẽ là lần hiện đại hóa cuối cùng của họ tàu khu trục thế hệ 3 của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo chiến hạm thế hệ 4.

So với Type 052C, kích thước của tàu lớn hơn một chút do sự đổi mới thành phần thiết bị điện tử và các hệ thống vũ khí mới. Tàu có lượng giãn nước 7.500 tấn, còn theo các nguồn tin khác thì lượng giãn nước là gần 1.0000 tấn.

Hệ thống động lực kiểu kết hợp diesel-turbine khí (CODOG), gồm 2 động cơ turbine khí QC-280 có tổng công suất 28 MW và 2 động cơ diesel Shaanxi (bản sao chép của Trung Quốc động cơ MTU 20V956TB92) tổng công suất 8.840 mã lực. Trên các tàu Type 052D là lần đầu tiên trên các tàu khu trục Trung Quốc, người ta không dùng bệ phóng thẳng đứng dạng ổ quay được thiết kế cho những loại tên lửa cụ thể mà lựa chọn các bệ phóng thẳng đứng vạn năng hơn kiểu module-ô phóng chứa 8 tên lửa phòng không, chống ngầm hay tên lửa hành trình chiến thuật mỗi bệ (trên mỗi tàu lớp này có tổng cộng 64 tên lửa). 4 module bệ phóng thẳng đứng vạn năng được bố trí ở phần mũi tàu, trước phần thượng tầng, 4 module khác ở phần đuôi của phần thượng tầng, trước hăng-ga trực thăng. Trong các bệ phóng thẳng đứng vạn năng có thể bố trí các tên lửa phòng không tầm xa HHQ-9B, tên lửa chống hạm thế hệ mới YJ-18A, tên lửa chống ngầm CY-2 với phần chiến đấu là ngư lôi Yu-8. Có tin tàu còn có thể được trang bị tên lửa hành trình tấn công mục tiêu mặt đất.

Vũ khí pháo chính của tàu là ụ pháo hoàn toàn tự động vạn năng một nòng 130 mm H/PJ-38 do Trung Quốc sản xuất, sao chép ụ pháo AK-130-MR-184 của Nga, dùng để bắn mục tiêu mặt đất và mục tiêu bay, kể cả tên lửa hành trình dưới âm. Giống như các tàu khu trục Trung Quốc hiện đại khác, Type 052D được lắp 2 hệ thống pháo phòng không 30 mm Type 730. Đặc điểm quan trọng về trang bị vũ khí của tàu là việc tăng cường khả năng phòng không bằng cách lắp hệ thống tên lửa phòng không tầm gần FL-3000N với 24 tên lửa TY-90 tầm bắn 9 km. Theo ý tưởng thiết kế, hệ thống này tương tự hệ thống tên lửa phòng không RAM.

Vũ khí chống ngầm gồm 2 cụm x 3 ống phóng lôi để bắn ngư lôi Yu-7 và 4 hệ thống phóng bom phản lực 18 nòng. Ở đuôi tàu có bố trí bãi đáp và hăng-ga cho một trưc thăng chống ngầm Kа-28 của Nga hay Z-9C của Trung Quốc.

Các tàu Type 052D được trang bị radar mới Type 346 với anten mạng pha có kích thước hình học lớn hơn đáng kể radar anten mạng pha Type 438 lắp trên các tàu khu trục lớp Type 052C, cũng như radar phát hiện tầm xa Type 518 băng L.

Projekt 956E và 956EM
Trong biên chế hải quân Trung Quốc, ngoài các tàu tự đóng, còn có 4 tàu khu trục do Nga đóng (2 tàu đầu tiên là các tàu đóng dở thời Liên Xô) lớp Projekt 956 Sovremenny. Các tàu đầu tiên được đưa vào biên chế hải quân Trung Quốc vào năm 1999 (với tên gọi Hàng Châu, số hiệu 136) và những năm 2000 (Phúc Châu, số hiệu 137), chúng được (PKB) Phương Bắc phát triển dựa trên thiết kế Projekt 956 của Hạm đội Phương Bắc, Hải quân Nga vào năm 1997. Kết quả là biến thể xuất khẩu Projekt 956E cơ bản giống với thiết kế cơ sở. Trên tàu đã nghiên cứu bố trí một trực thăng Nga Ka-28 với phương án cất giữ tạm thời trong hăng-ga di động.

Khác với thiết kế cơ sở, các tàu Trung Quốc cũng được trang bị các nồi hơi chính mới KVG-3 (trên các tàu của Hải quân Nga là nồi hơi KVN-98/64-11), hệ thống liên lạc vô tuyến điện tự động hóa mới R-782-5KE. Để thực hiện đơn hàng của hải quân Trung Quốc, Nga dùng cả các tàu đóng dở cho Hải quân Liên Xô vào năm 1988 là tàu khu trục Vazhny (số hiệu nhà máy 878) và vào năm 1989 là tàu Vdumchivy (số hiệu nhà máy 879). Việc đóng hoàn thiện 2 tàu này bắt đầu tại Công ty “Nhà máy đóng tàu “Severnaya verf”” vào năm 1997 [19]

Hai tàu khu trục thiếp theo được đóng hoàn thiện theo thiết kế cải tiến là Projekt 956EM, trên đó, Trung Quốc không chỉ yêu cầu loại bỏ một phần vũ khí pháo binh: bỏ ụ pháo 130 mm ở đuôi trong thiết kế cơ sở mà Yu.V. Vedernikov đã nói đến [20], mà còn thiết kế lại phần đuôi để trang bị cơ cấu vũ khí hợp lý hơn.

Các tàu này có lượng giãn nước lớn là 8.000-8.500 tấn ngay cả khi so với các tàu khu trục đang đóng hiện nay lớp Type 052D.

Tất cả 4 tàu khu trục Projekt 956E/EM đều được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm sử dụng tên lửa 3М80 Moskit lắp trên 2 bệ phóng đồ sộ, mỗi bệ mang 4 ống phóng ở hai bên mạn tàu. Vũ khí phòng không chính là hệ thống tên lửa phòng không М-22 Uragan, vũ khí phòng không tầm gần là 4 ụ pháo АK-630 lắp trên các tàu Projekt 956E và 2 hệ thống tên lửa phòng không Kortik trên các tàu Projekt 956EM. Trong thành phần vũ khí, còn có 1 trực thăng chống ngầm, các ống phóng lôi, 2 hệ thống phóng bom phản lực RBU-1000 và thủy lôi. Về thiết kế, trên Projekt 956EM, phần thượng tầng ở phần đuôi được kéo dài, nhờ đó đã bố trí được hăng-ga để bố trí lâu dài 1 trực thăng (trên Projekt 956E hăng-ga là kiểu di động), bố trí trên mỗi tàu 1 hệ thống tên lửa/pháo phòng không Kortik [21].

Cơ số đạn của hệ thống tên lửa phòng không là 48 tên lửa, tuy nhiên nhược điểm lớn là bệ phóng chỉ mang 1 tên lửa, nhịp phóng giữa các quả tên lửa phóng đi bằng một bệ phóng là 12 s. Tầm bắn của hệ thống tên lửa phòng không là 25-32 km (theo các nguồn khác là 40-50 km).

Theo ông Yu.V. Vedernikov, các tàu lớp Projekt 956 tạo ra “dòng tàu Nga” trong các tàu khu trục của hải quân Trung Quốc mà một binh đoàn tiến công đồng nhất của 4 tàu này có sức tấn công mạnh (32 tên lửa hành trình) và tiềm lực phòng không lớn (192 tên lửa phòng không) có khả năng hoạt động tốt trên đại dương.

Xét đến thời gian xuất hiện các tàu Projekt 956E/EM trong hải quân Trung Quốc, có thể dự đoán rằng, hải quân Trung Quốc trong hoàn cảnh các tàu của họ chỉ được trang bị các hệ thống vũ khí có tính năng hạn chế nên đã cần mua một số tàu tiến công có năng lực tạo ra sức mạnh răn đe đối với kẻ thù tiềm tàng. Cú hích để làm việc đó là các sự kiện tháng 3/1996 tại eo biển Đài Loan, khi Mỹ phái đến khu vực này 2 cụm tàu sân bay, sau đó hợp đồng mua tàu chiến Nga mới bắt đầu được thực hiện thực tế mặc dù việc đàm phán mua bán tàu này với Trung Quốc bắt đầu từ năm 1992 [22].

Và hiện nay, 15 năm sau khi đưa vào biên chế tàu đầu tiên trong loạt tàu Projekt 956E/EM, trong các tổng quan phân tích về sự phát triển của hải quân Trung Quốc sự hiện diện của các tàu này được nêu riêng biệt do có khả năng tấn công bằng tên lửa chống hạm ở tầm hơn 200 km nhờ tàu có radar ngoài đường chân trời [23]. Cần nói thêm ở đây về những tính năng kỹ thuật khác thường của bản thân các tên lửa chống hạm 3М80 Moskit so với các loại tên lửa chống hạm hiện đại đông đảo. Moskit có trọng lượng phóng đến 4,5 tấn, tốc độ hành trình 2,35М, tốc độ bay ở gần mục tiêu 2,8М, trọng lượng phần chiến đấu 300-320 kg, tầm bay tùy thuộc vào biến thể là 90-100 km (3М80Е), đến 120 km (3М80Е1), đến 140 km khi bay ở độ cao nhỏ và đến 240 km khi bay theo quỹ đạo kết hợp đối với 3М80MVE [24]. Có lẽ đánh giá tốc độ của tên lửa này trong các nguồn của Mỹ là dựa trên khả năng tăng tầm bay nhờ tối ưu hóa biên dạng bay áp dụng ở tên lửa 3М80MVE.

.Các lớp tàu frigate, corvette, xuồng tên lửa chủ lực của hải quân Trung Quốc.

Frigate
Các tàu frigate (khinh hạm) loại này hiện gồm mấy loại của lạc hậu lớp Type 053 vốn đang bị thay thế nhanh chóng bằng các tàu mới đưa vào biên chế lớp Type 054А (Type 054 chỉ được đóng 2 chiếc và là biến thể quá độ). Chủ lực của đội tàu frigate lạc hậu của Trung Quốc là các frigate lớp Type 053H2G và Type 053H3 (tương ứng có 4 và 10 tàu trong biên chế hải quân Trung Quốc tính đến năm 2014).

Type 053H2G được đóng vào đầu thập niên 1990 và được đưa vào biên chế hải quân từ năm 1991-1994. Tàu có lượng giãn nước đầy đủ 2.250 tấn, chiều dài 111,7 m, tầm hoạt động 4.000 hải lý khi chạy ở tốc độ 18 hải lý/h, trang bị 6 bệ phóng tên lửa chống hạm YJ-1 tầm bắn 40 km hay các tên lửa chống hạm hiện đại hơn tầm bắn đến 120 km, hệ thống tên lửa phòng không HQ-61 với bệ phóng mang 6 tên lửa tầm bắn đến 10 km (tương tự hệ thống tên lửa phòng không Sea Sparrow). Vũ khí pháo gồm 1 ụ pháo hai nòng 100 mm (tầm bắn 22 km, trọng lượng quả đạn 15,9 kg), 4 ụ pháo hai nòng 37 mm, 2 hệ thống phóng bom Type 87 và các thiết bị rải nhiễu, 1 trực thăng (Niên giám “Jane’s Fighting Ships 2004-2005” nêu có 2 trực thăng trên các tàu Type 053H2G và Type 053H3 - trang 128-129, nhưng điều này đáng ngờ vì do hạn chế về kích thước của tàu (chiều rộng  chỉ khoảng 11 м), kích thước hăng-ga và bố trí hai bên hăng-ga 2 ụ pháo 37 mm.

Type 053H3 là sự phát triển tiếp theo của Type 053H2G và có thân tàu, lượng giãn nước và kích thước trên tàu giống nhau. Các tàu này được đóng từ cuối thập kỷ 1990, được đưa vào biên chế từ năm 1998 đến đầu những năm 2000. Khác biệt chủ yếu so với Type 053H2G là việc lắp hệ thống tên lửa phòng không HQ-7 (Naval Crotale) với bệ phóng mang 8 ống phòng, các vũ khí còn lại gần như giống hoàn toàn Type 053H2G.

Frigate được trang bị các hệ thống phát hiện mục tiêu bay Type 517 (Knife Rest) và phát hiện mục tiêu bay/mặt nước Type 360 (DRBV-15 SEA TIGER của Pháp), dẫn đường Decca 1290 của công ty Racal, điều khiển hỏa lực Type 343G, Type 345 (Castor III) và Type 341G Rice Lamp.

Type 054
Các frigate Type 054 Giang Khải (Jiangkai) được đóng (hạ thủy vào năm 2003, đưa vào biên chế năm 2005) với số lượng 2 chiếc và là biến thể quá độ trước khi khởi đóng một lô lớn các frigate hiện đại hơn là Type 054А Giang Khải II (Jiangkai II), được đưa vào biên chế từ năm 2008. Chúng có lượng giãn nước 3.900 tấn và trang bị 2 bệ phóng (mỗi bệ mang 4 ống phóng) tên lửa chống hạm tầm trung YJ-83 (С-803), cũng như hệ thống tên lửa phòng không HQ-7 (biến thể Trung Quốc sản xuất của hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn Naval Crotale của Pháp), 1 ụ pháo 100 mm (Creusot-Loire Т-100 của Pháp) và 4 ụ pháo 30  mm (AK-630 của Nga), 2 cụm x 3 ống phóng lôi 324 mm và 1 trực thăng chống ngầm Kа-28.

Động cơ được sản xuất theo giấy phép của tập đoàn SEMT Pielstick (Pháp-Đức). Tập đoàn cũng trang bị các động cơ này cho các frigate tên lửa tàng hình lớp La Fayette của Pháp. Việc điều khiển hỏa lực tên lửa phòng không được thực hiện bằng hệ thống điều khiển hỏa lực Type 345 (Castor II do Thomson-CSF của Pháp phát triển), còn hệ thống điều khiển hỏa lực Type 347G đảm nhiệm điều khiển hỏa lực các ụ pháo 30 mm.

Type 054 được trang bị hệ thống thông tin-chỉ huy chiến đấu ZKJ-4B/6, kênh truyền dữ liệu tự động hóa HN-900, khí tài liên lạc vệ tinh SNTI-240, 2 radar dẫn đường Racal RM-1290, radar phát hiện mục tiêu mặt nước/trên không Type 360 (DRBV-15 Sea Tiger của Thompson-CSF/Pháp), radar phát hiện mục tiêu mặt nước (theo nguồn tin khác là radar dẫn đường) MR-36A, hệ thống điều khiển hỏa lực pháo MR34, hệ thống thủy âm chủ động/thụ động MGK-335.

Type 054А
Frigate Từ Châu (Xuzhou) số hiệu 530 lớp Type 054A
Từ Châu (Xuzhou) số hiệu 530 là frigate đầu tiên của lớp Type 054A được đưa vào biên chế hải quân vào tháng 1/2008. Lớp frigate này được gọi là “con ngựa thồ” của hải quân Trung Quốc vì tính năng và số lượng tàu. Có tin, hải quân Trung Quốc coi Type 054А là tàu mặt nước cỡ lớn đầu tiên được đóng một cách “đúng đắn (got right) [25].

Lượng giãn nước so với Type 054 tăng lên đến 4.050 tấn. Điểm cải tiến chính so với Type 054 là sự hiện diện của một bệ phóng thẳng đứng vạn năng chứa 32 tên lửa các loại. Trang bị tiêu chuẩn của bệ phóng này là các tên lửa phòng không của hệ thống HQ-16. Hệ thống này được chế tạo dựa trên hệ thống tên lửa phòng không Shtil-1 của Nga và sử dụng tên lửa 9М38 cho phép bảo đảm phòng không cho tàu ở tầm đến 25-32 km (theo các nguồn khác là đến 50 km) [26]. Có tin bệ phóng thẳng đứng này có thể sử dụng để bố trí tên lửa chống ngầm.

Tàu được trang bị 2 bệ phóng (x4 ống phóng) tên lửa chống hạm YJ-83, 1 ụ pháo 76 mm АK-176, các ụ pháo phòng không 7 nòng 30 mm Type 730, 2 ống phóng ngư lôi Yu-7, 2 hệ thống phóng bom 6 nòng Type 87, 1 trực thăng, 2 thiết bị rải nhiễu 18 nòng (vật phản xạ lưỡng cực).

Type 054A được trang bị radar phát hiện mục tiêu trên không/mặt nước MR-36A, 2 radar dẫn đường Racal RM-1290, radar ngoài đường chân trời chỉ thị mục tiêu cho tên lửa chống hạm Type 344 (Mineral-ME), 4 radar điều khiển hỏa lực tên lửa phòng không Type 345 (МR-90 Front Dome) cho phép điều khiển bắn đồng thời 2 tên lửa phòng không, hệ thống điều khiển hỏa lực các ụ pháo Type TR47C và Type 347G, trạm thủy âm chủ động-thụ động.

Ngày 16/1/2015, tàu tiếp theo của lớp này là Hoàng Cương (Huanggang) số hiệu 577 (hạ thủy ngày 28/4/2014) và là chiếc thứ 17 của loạt tàu. Có tin cho hay, đây là frigate Type 054А thứ tư được trang bị trạm thủy âm kéo với độ sâu thả thay đổi, cho phép mở rộng vùng phát hiện tàu ngầm lên đến 20 km. Sự cải tiến này được thực hiện vì bộ chỉ huy hải quân Trung Quốc lo ngại các tàu của họ thiếu khả năng phát hiện tàu ngầm đối phương. Được trang bị trạm thủy âm kéo này còn có các tàu khu trục lớp Type 052 và corvette lớp Type 056. Cũng có dự đoán rằng, hải quân Trung Quốc đang chuẩn bị cho các tàu chiến của họ khả năng đối kháng với các tàu ngầm diesel lớp Soryu của Nhật Bản [27].

Một thay đổi dễ thấy nữa là việc thay hệ thống pháo phòng không 7 nòng Type 730 bằng hệ thống 11 nòng Type 1130 (có ký hiệu nội địa là H/PJ-12 và H/PJ-11). Theo các nguồn tin Trung Quốc, hệ thống này là biến thể cải tiến của Type 730 và cho phép tăng tốc độ bắn lên đến 10.000 phát/phút. Trước đó, hệ thống chỉ được lắp đặt trên tàu sân bay Liaoning. Trung Quốc cho biết hệ thống có khả năng tiêu diệt tên lửa chống hạm bay tiếp cận với tốc độ 4M với xác xuất 96%.

Ngoài ra, thời hạn đưa vào biên chế tàu thứ 17 của loạt tàu này cũng dài hơn, từ 363 ngày đối với các frigate trước đó lên đến 628 ngày đối với tàu Hoàng Cương cho thấy, khối lượng các hệ thống mới hay hiện đại hóa trên tàu là khá lớn [28].

Frigate lớp Type 054А được biết đến nhiều hơn nhờ tham gia các chiến dịch chống cướp biển ở vịnh Aden, trong quá trình đó đã bộc lộ những điểm yếu của hàng loạt hệ thống, cơ bản là do Trung Quốc sản xuất, mặc dù nhìn hung, các đánh giá của chuyên gia là tích cực và không có thông tin về những vấn đề lớn [29]. Ngoài ra, frigate Từ Châu còn được phái đến Libya vào năm 2011 để bảo đảm sơ tán dân thường. Tuy nhiên, ngày 29/3/2015 mới là lần đầu tiên các tàu chiến Trung Quốc được sử dụng trực tiếp cho nhiệm vụ sơ tán, khi frigate Lâm Nghi (Linyi) đón lên boong 122 công dân Trung Quốc và 2 chuyên gia nước ngoài để di tản họ từ Aden sang Jibouti. Hôm sau, 30/3/2015, frigate Duy Phường (Weifang) đã nhận lên boong 499 công dân Trung Quốc [30].

Tàu hộ vệ (corvette) Type 056

Các tàu lớp Type 056 cũng thuộc nhóm frigate, nhưng sử dụng tên gọi là frigate hạng nhẹ. Chúng là các tàu ven bờ, có lượng giãn nước đầy đủ 1.365 tấn, chiều dài 89 m, chiều rộng 11,6 m, mớn nước 4,4 m, cự ly hành trình 2.000 hải lý ở tốc độ 18 hải lý/h và được biên chế vũ khí hạn chế.

Đáng chú ý là tốc độ đóng các tàu này cao một cách khác thường. Loạt tàu này khởi đầu bằng việc đưa vào biên chế vào tháng 2/2013 tàu đầu tiên là Bạng Phụ (Bengbu), số hiệu 582, nhưng đến cuối năm, hải quân Trung Quốc đã có đến 8 tàu. Có tới 4 xưởng đóng tàu được huy động đóng lớp tàu này. Tháng 3/2015, có tin là Tín Dương (Xinyang) (theo Jane’s là tàu thứ 19, còn theo các nguồn khác là tàu thứ 21) được nhận vào biên chế. Như vậy, mỗi năm hải quân Trung Quốc đưa vào biên chế mỗi năm đến 10 tàu chiến này.

Phỏng đoán của Jane’s Fighting Ships 2014-2015 (trang 148) [31] về mối liên hệ giữa số lượng các tàu lớp này với các lớp tàu bị thay thế là các frigate lớp Giang Hồ và tàu (xuồng) tên lửa lớp Houxin (Hộ đỉnh) xem ra hơi khó tin. Phỏng đoán đó với việc thay thế các tàu lạc hậu thì có lý, nhưng đối với các tàu tên lửa đóng với số lượng lớn vào đầu những năm 2000 (năm 1995 có 6 chiếc trong biên chế, năm 2000 - 16 chiếc, năm 2014 - 20 chiếc) [32] thì cần rất cân nhắc.

Vũ khí của tàu gồm 2 bệ phóng kép tên lửa chống hạm YJ-83, 1 bệ phóng mang 8 ống phóng tên lửa phòng không tầm gần HQ-10 (AJK-10) với tầm bắn 9 km, 1 ụ pháo 76 mm H/PJ-26 với tầm bắn 16 km, 2 pháo tự động hai nòng 30 mm điều khiển từ xa dẫn tự động hay bằng tay, 2 cụm x 3 ống phòng lôi 324 mm, sân đỗ cho 1 trực thăng Harbin Z-9C [33].

Tàu được trang bị radar phát hiện mục tiêu mặt nước/trên không Type 360, radar dẫn đường Type 760, radar điều khiển hỏa lực Type LR-66, radar bảo đảm bay cho trực thăng Type 754, 2 module tác chiến điện tử, các thiết bị phóng nhiễu lưỡng cực. Có tin tàu có 1 trạm thủy âm kéo.

Ngoài ra, tạp chí Signal Magazine, khi phân tích thiết kế tàu này vào năm 2011, đã nêu ra sự hiện diện của 2 thiết bị phóng bom 6 nòng 252 mm Type 87 và cho rằng, các thiết bị phóng này do Trung Quốc cải tiến từ các thiết bị phóng 5 nòng RBU-1200 của Nga, với tầm bắn tăng lên từ 1.200 lên 3.200 m. Người ta cũng chú ý tới việc tầm bắn của ụ pháo 76 mm so với ụ pháo 100 mm bị giảm từ 20 km xuống còn 15 km được bù đắp bởi tốc độ bắn cao của pháo - 120 so với phát phút 15. Một ụ pháo của corvette/frigate lớp Type Giang Đảo (Jiangdao) cao gấp 4 lần 2 ụ pháo của các frigate lạc hậu lớp Giang Hồ (Jianghu). Khẩu đội pháo cũng ít hơn, gồm 2 người thay vì 6 người, trọng lượng cũng nhỏ hơn - 16 tấn so với 49 tấn [34].
Tàu tên lửa Type 022

Một trong các đặc điểm của hạm đội tàu nổi Trung Quốc là sự hiện diện của một số lượng lớn tàu (xuồng) tên lửa, nổi bật trong số đó là hơn 60 tàu hai thân lớp Type 022 Houbei đóng từ năm 2004.

Điều thú vị là việc thiết kế thân tàu được thực hiện trên cơ sở loại tàu chế tạo trước đó, vào năm 1993, của liên doanh có sự tham gia của công ty tư nhân đóng ở Sydney AMD Marine Consulting và Tổng công ty Kỹ thuật hàng hải Quảng Châu (Guangzhou Marine Engineering Corporation) của Trung Quốc. Liên doanh Seabus International Co. đã bắt tay vào thiết kế các tàu hai thân cao tốc bằng nhôm và tàu cứu hộ dùng cho vùng ven biển. Nhưng dần dần, các công nghệ mua theo con đường này đã được sử dụng để thiết kế xuồng tên lửa với cấu trúc dựa trên biến thể dân sự của xuồng tuần tra AMD 350 [35].

Kết quả là hải quân Trung Quốc có được loại xuồng dài 42,6 m và chiều rộng 12,2 m, lượng giãn nước 225 tấn, thủy thủ đoàn 12-14 người, tốc độ 36 (có nguồn nói đến 46) hải lý/h, cự ly hành trình dự đoán (dựa trên số liệu về AMD 350) 300 hải lý. Vũ khí gồm 4 tên lửa chống hạm và 1 ụ pháo 30 mm.

Như vậy, chỉ một lớp xuồng tên lửa của hải quân Trung Quốc cũng đã là phương tiện mang để triển khai khoảng 250 tên lửa chống hạm ở các khu vực ven biển.

.http://vietnamdefence.com/Home/ktqs/haiquan/tauchien/Tong-quan-tau-ten-lua-Trung-Quoc-Frigate-corvette-3/20158/54607.vnd


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét