Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Sự trỗi dậy của Trung Quốc và tương lai của phương Tây

Trích lược:

"...Không còn nghi ngờ gì nữa, sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ trở thành một trong những vở kịch nổi bật của thế kỷ 21. Sự phát triển kinh tế phi thường và chính sách ngoại giao linh hoạt của Trung Quốc đã tạo bước biến chuyển cho khu vực Đông Á, và những thập niên trong tương lai sẽ chứng kiến quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ hơn. Nhưng chính xác liệu vở kịch này sẽ được biểu diễn như thế nào thì vẫn còn là một câu hỏi mở. Liệu Trung Quốc sẽ lật đổ hệ thống hiện có hay sẽ trở thành một bộ phận trong đó? Và Mỹ có thể làm gì (nếu được) để duy trì vị thế trước sự trỗi dậy của Trung Quốc?

Một số nhà quan sát tin rằng kỷ nguyên của nước Mỹ đang đi đến hồi kết, khi mà trật tự thế giới định hướng bởi phương Tây được thay thế bằng một trật tự ngày càng bị chi phối từ phương Đông. Nhà sử học Niall Ferguson đã viết rằng thế kỷ 20 đẫm máu đã chứng kiến “sự xuống dốc của phương Tây” và “sự tái định hướng thế giới” về phía Đông. Các nhà chủ nghĩa hiện thực tiếp tục lưu ý rằng một khi Trung Quốc ngày càng hùng mạnh và vị thế của Mỹ bị xói mòn, hai điều có thể xảy ra: Trung Quốc sẽ cố gắng dùng sức ảnh hưởng ngày càng gia tăng để tái định hình luật lệ và thể chế của hệ thống quốc tế để phục vụ tốt hơn lợi ích của nước này. Những quốc gia khác trong hệ thống, đặc biệt là vị bá chủ đang suy yếu, sẽ bắt đầu xem Trung Quốc như một mối đe dọa an ninh ngày một lớn dần.Và kết quả của những diễn biến này được dự báo sẽ là căng thẳng, ngờ vực và mâu thuẫn – những đặc điểm điển hình của quá trình chuyển dịch quyền lực.
Theo quan điểm này, vở kịch về sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ bao gồm một Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ và một nước Mỹ đang xuống dốc mắc kẹt trong một cuộc đối đầu quyết liệt về các luật lệ và vai trò lãnh đạo hệ thống quốc tế. Và khi mà quốc gia lớn nhất thế giới trỗi dậy không phải từ bên trong mà là từ bên ngoài trật tự thế giới được hình thành hậu Thế chiến II, đó sẽ là một vở kịch hạ màn với vị trí thống trị toàn cục của Trung Quốc và sự khởi đầu của một trật tự thế giới lấy châu Á làm trung tâm.
Tuy nhiên,con đường đó không phải là không thể tránh được. Sự trỗi dậy của Trung Quốc không nhất thiết sẽ phải kích hoạt một quá trình chuyển dịch bá quyền khó nhọc. Quá trình chuyển dịch quyền lực Mỹ – Trung có thể diễn ra rất khác với quá khứ bởi Trung Quốc phải đối mặt với một trật tự quốc tế có nền tảng cơ bản khác hẳn với những gì mà các nhà nước mới nổi trong quá khứ phải đương đầu. Trung Quốc không chỉ đối mặt với một mình Mỹ mà là với cả một hệ thống lấy phương Tây làm trung tâm—một hệ thống mở, liên kết chặt chẽ, dựa trên luật lệ và có nền tảng chính trị sâu rộng. Trong khi đó, cuộc cách mạng hạt nhân đã khiến chiến tranh giữa các cường quốc càng khó có thể xảy ra – điều này loại bỏ công cụ chính yếu mà các cường quốc mới nổi đã sử dụng để lật đổ hệ thống quốc tế được các quốc gia bá chủ đang suy yếu bảo vệ. Nói tóm lại, trật tự phương Tây ngày nay dễ gia nhập nhưng rất khó lật đổ.
Trật tự thế giới bền vững và mở rộng một cách khác thường này tự thân nó là sản phẩm của sự lãnh đạo nhìn xa trông rộng của Mỹ. Sau Thế chiến II Mỹ không chỉ đơn thuần tạo dựng cho mình vị thế cường quốc lãnh đạo. Nó còn đi đầu trong việc xây dựng nên những thể chế phổ quát không chỉ mời gọi sự tham gia của các thành viên trên toàn thế giới mà còn mang các nền dân chủ và các xã hội thị trường lại gần với nhau hơn. Trật tự này được xây dựng dựa trên việc thúc đẩy sự tham gia và liên kết chặt chẽ giữa các cường quốc lâu đời với các nhà nước mới độc lập. (Chúng ta thường quên rằng trật tự hậu chiến này đã được thiết kế chủ yếu nhằm tái kết hợp các nước thuộc phe Trục bại trận và các nước thuộc khối Đồng Minh vốn chịu không ít đả kích thành một hệ thống quốc tế thống nhất). Ngày nay, Trung Quốc có thể có đầy đủ quyền tiếp cận và phát triển thịnh vượng ngay trong chính hệ thống này. Và nếu đúng như vậy thì sự trỗi dậy của Trung Quốc là hoàn toàn có thể. Tuy nhiên, nếu được điều hành hợp lý, trật tự phương Tây sẽ tiếp tục được duy trì.
Khi đối mặt với một Trung Quốc đang nổi lên, Mỹ cần nhớ rằng vai trò lãnh đạo trật tự phương Tây sẽ cho phép nước này định hình môi trường mà trong đó Trung Quốc sẽ phải đưa ra những chọn lựa chiến lược trọng yếu. Nếu muốn giữ vững vai trò lãnh đạo của mình, Washington phải củng cố các luật lệ và thể chế đóng vai trò nền tảng của trật tự này —khiến nó càng dễ dàng gia nhập hơn nhưng càng khó lật đổ hơn. Đại chiến lược của Mỹ phải được xây dựng theo phương châm “Con đường dẫn đến phương Đông sẽ phải chạy qua phương Tây”. Washington phải làm “sâu rễ, bền gốc” trật tự này hết mức có thể, đem đến cho Trung Quốc nhiều động lực để hội nhập hơn là đối nghịch và từ đó làm tăng cơ hội tồn tại của hệ thống, thậm chí sau khi quyền lực tương đối của Mỹ bị suy giảm.
Sự chấm dứt “thời khắc đơn cực” của nước Mỹ là điều không thể tránh khỏi. Nếu như cuộc đối đầu Trung – Mỹ là cuộc chiến mang tính quyết định của thế kỷ 21 thì lợi thế sẽ nghiêng về Trung Quốc, nhưng nếu đó là cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và một hệ thống phương Tây được hồi sinh thì phương Tây sẽ chiến thắng.
Các quan ngại trong giai đoạn chuyển dịch
Trung Quốc đang thực hiện tốt mục tiêu trở thành cường quốc toàn cầu của mình. Xét về kích thước, nền kinh tế Trung Quốc đã lớn lên gấp 4 lần tính từ thời điểm ban hành chính sách cải cách thị trường những năm cuối thập niên 1970 và ước tính sẽ được nhân đôi vào thập niên tiếp theo. Trung Quốc đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất hàng đầu trên thế giới và tiêu thụ chừng 1/3 nguồn cung sắt, thép và than đá toàn cầu. Tính đến cuối năm 2006 lượng dự trữ ngoại tệ của nước này đã đạt tới giá trị cực lớn, hơn 1 nghìn tỉ đô la Mỹ. Chi tiêu quốc phòng của Trung Quốc tăng trung bình 18%/năm theo tỉ lệ được điều chỉnh theo lạm phát. Chính sách ngoại giao của Bắc Kinh đã giúp nó vươn đến không chỉ khu vực châu Á mà còn cả khu vực châu Phi, Mỹ Latinh và Trung Đông. Thực chất, nếu Liên Xô chỉ là đối thủ cạnh tranh về mặt quân sự của Mỹ thì giờ đây Trung Quốc nổi lên như là một đối thủ đáng gờm cả về quân sự lẫn kinh tế, phát đi tín hiệu về một sự chuyển dịch sâu sắc trong việc phân bổ quyền lực toàn cầu.
Sự chuyển dịch quyền lực là vấn đề mang tính chất tuần hoàn trong quan hệ quốc tế. Như 2 học giả Paul Kennedy và Robert Gilpin đã mô tả, nền chính trị thế giới được đánh dấu bởi sự tiếp nối của các cường quốc nổi lên để tổ chức nên hệ thống quốc tế. Một cường quốc có thể tạo ra và củng cố các quy tắc và luật lệ của một trật tự toàn cầu ổn định để theo đuổi lợi ích và an ninh của chính mình trong trật tự đó. Tuy nhiên, không có điều gì kéo dài mãi mãi: những thay đổi dài hạn trong quá trình phân bổ quyền lực sẽ dẫn đến sự nổi lên của các quốc gia thách thức mới – nhân tố châm ngòi cho cuộc tranh đấu về các “điều khoản” của trật tự quốc tế đó. Các quốc gia đang lên mong muốn chuyển dịch thứ quyền lực mà họ mới có được thành thẩm quyền cao hơn trong hệ thống toàn cầu để có thể tái định hình luật lệ và thể chế phù hợp với lợi ích của mình. Đến lượt mình, các quốc gia đang suy yếu sợ mất quyền kiểm soát và lo ngại cho sự an toàn của vị thế đang bị suy giảm của mình.
Những thời điểm này luôn chứa đầy nguy hiểm. Khi một quốc gia giữ vững vị trí chỉ huy trong hệ thống quốc tế, cả nó và các quốc gia yếu hơn đều không có động lực gì để thay đổi trật tự hiện có. Tuy nhiên khi quyền lực của quốc gia thách thức tăng lên còn quyền lực của quốc gia lãnh đạo suy giảm thì sự cạnh tranh chiến lược xảy ra sau đó và mẫu thuẫn – có nguy cơ dẫn đến chiến tranh – là điều hoàn toàn có thể. Mối nguy hiểm của sự chuyển dịch quyền lực có thể cảm nhận một cách sâu sắc nhất trong trường hợp của nước Đức cuối thế kỷ 19. Năm 1870, Vương quốc Anh có sức mạnh kinh tế gấp 3 lần so với Đức, cùng với một lợi thế quân sự đáng kể. Đến năm 1903, Đức lại dẫn trước cả về kinh tế lẫn quân sự. Khi nước Đức thống nhất và phát triển thì cũng là lúc sự bất mãn và nhu cầu của nó tăng lên. Nó càng phát triển thì càng trở thành mối đe dọa đối với các cường quốc châu Âu khác và thế là cuộc cạnh tranh an ninh bắt đầu. Trong kế hoạch tập hợp lực lượng chiến lược sau đó, Pháp, Anh và Nga, vốn là 3 kẻ thù cũ, lại chung vai sát cánh để chống lại một nước Đức đang nổi lên. Và kết quả chính là một cuộc chiến tranh châu Âu. Nhiều nhà quan sát nhận thấy động lực tương tự nảy sinh trong mối quan hệ Mỹ – Trung. Học giả chủ nghĩa hiện thực John Mearsheimer nhận định rằng: “Nếu Trung Quốc tiếp tục đà tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng trong suốt những thập niên tới, Mỹ và Trung Quốc có khả năng lâm vào một cuộc cạnh tranh an ninh dữ dội, ẩn chứa nguy cơ chiến tranh rất lớn.”
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi cuộcchuyển dịch quyền lực đều dẫn đến chiến tranh hay sự lật đổ trật tự cũ. Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, Anh đã chuyển giao quyền lực cho Mỹ mà không hề có mâu thuẫn gay gắt hay sự gián đoạn nào trong quan hệ xảy ra. Từ cuối những năm 40 đến đầu những năm 90 kinh tế Nhật Bản phát triển vượt bậc từ mức chỉ tương đương với 5% tăng vọt lên hơn 60% GDP của Mỹ. Tuy vậy Nhật Bản lại chưa bao giờ thách thức trật tự quốc tế hiện có.
Rõ ràng là chuyển dịch quyền lực có nhiều dạng khác nhau. Một số quốc gia nhận thấy được sự phát triển kinh tế và địa chính trị đáng kể của mình nhưng vẫn điều chỉnh để phù hợp với trật tự hiện có, trong khi một số khác nổi lên lại mong muốn thay đổi trật tự đó. Một số quá trình chuyển dịch quyền lực dẫn đến sự sụp đổ của trật tự cũ và sự ra đời của hệ thống thứ bậc mới, một số khác lại chỉ dẫn đến những điều chỉnh nhất định trong hệ thống khu vực và toàn cầu.
Có rất nhiều nhân tố quyết định cách thức quá trình chuyển dịch quyền lực diễn ra. Bản chất chế độ và mức độ bất mãn với trật tự cũ của quốc gia trỗi dậy chính là những yếu tố quyết định: vào cuối thế kỷ 19, nước Mỹ – một đất nước tự do cách châu Âu cả một đại dương đã dễ chấp nhận trật tự quốc tế lấy nước Anh làm trung tâm hơn so với Đức. Nhưng mang tính chất quyết định hơn cả vẫn là đặc tính của bản thân trật tự quốc -bản chất của trật tự quốc tế mới chính là yếu tố định hình sự lựa chọn giữa thách thức và hòa nhập của một quốc gia đang lên..."
Nguồn: G. John Ikenberry (2008). “The Rise of China and the Future of the West: Can the Liberal System Survive?”,  Foreign Affairs, Vol. 87, No. 1 (Jan. – Feb.), pp. 23-37
http://nghiencuuquocte.net/2013/08/25/china-rise-future-of-the-west/

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Chứng minh Trung Quốc không có cửa trước Nhật-Mỹ

Ngày 23/11/2013, Trung Quốc công bố  bản đồ tọa độ “khu vực nhận diện phòng không trên biển Hoa Đông”, gồm cả không phận quần đảo Senkaku do Nhật Bản đang quản lý.

Ngày 26/11, các báo còn đưa tin Trung Quốc đang chuẩn bị cho một cuộc xung đột vũ trang với Nhật. Cùng ngày, chiếc tàu sân bay duy nhất của nước này đã rời cảng Thanh Đảo đến Biển Đông để “nghiên cứu khoa học (tàu sân bay nghiên cứu khoa học gì ở đây?) và tập trận với sự hộ tống của 2 tàu khu trục và 2 khinh hạm.
Trước đó, Tờ Thiết Huyết tháng 11/2013 đã trích lại bài viết trên tờ Văn Hối nói: 30 năm nữa Trung Quốc sẽ đủ điều kiện chiếm quần đảo Điếu Ngư/Senkaku.

Với các diễn biến trên, tình hình  xung quanh quần đảo tranh chấp đang ngày càng nóng, mọi việc đều có thể xảy ra.
Ba mươi năm, đó là một khoảng thời gian tương đối dài và đến lúc đó không biết sẽ như thế nào. Nhưng vào thời điểm hiện tại và trong tương lai gần, nếu xảy ra một cuộc chiến Trung – Nhật thì ai thắng ai bại?
Chúng ta hãy điểm qua một số phân tích và dự báo về kết cục của một cuộc chiến giả định giữa hai nước của 2 nhà chiến lược quân sự Nga là V. Kashin - chuyên gia thuộc Trung tâm phân tích chiến lược và công nghệ, chuyên gia Viện Viễn Đông Viện Hàn lâm khoa học Nga kiêm Tổng biên tập Tạp chí “Moscow Defence Brief” và K.Sivkov - Phó chủ tịch thứ nhất Viện Hàn lâm các vấn đề địa chính trị Viện Hàn lâm khoa học Nga mới được đăng trên báo Vzgliad (Quan điểm) ngày 18/11/2013 – tức 5 ngày trước khi Trung Quốc công bố cái gọi là “khu vực nhận diện phòng không trên biển Hoa Đông”. 
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
Quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
1. So sánh lực lượng

Về nội dung này, ý kiến 2 chuyên gia có những điểm khác nhau. Xin trích dẫn:

a. V. Kashin:
“Trên biển, hiện Trung Quốc không có ưu thế tuyệt đối về số lượng, trong khi về chất lượng thì Hạm đội của PLA kém xa Nhật Bản.
“Trung Quốc mới bắt đầu đóng các tàu tương đối hiện đại vào khoảng năm 2007. Tất cả những tàu được đóng trước đó đều là đồ bỏ đi (nếu so với các tàu của Nhật). Lực lượng tàu ngầm Trung Quốc có thể tạo ra mối nguy hiểm nhất định đối với Nhật Bản, nhưng Hải quân Nhật Bản được xây dựng với định hướng ưu tiên là đối phó với các tàu ngầm, trước hết là với các tàu ngầm của Hạm đội Xô Viết trước đây (cho nên mối de dọa đó đã được giảm thiểu).
Tôi (V.Kashin) đã từng được nghe các chuyên gia Mỹ chuyên về chiến tranh trên biển đưa ra nhận xét là – nếu chỉ tính riêng ở góc độ một cuộc chiến chống ngầm thuần túy gồm các yếu tố: kinh nghiệm, trang bị và phương pháp (tác chiến)  -  Hải quân Nhật Bản còn có mặt trội hơn cả Hải quân Mỹ. Trong khi đó, đối với Trung Quốc, chỉ riêng công tác  huấn luyện tác chiến cho các kíp thủy thủ tàu ngầm đã là cả một vấn đề”.
    
“Trung Quốc hiện đang ở tình trạng tương tự như Liên Xô cuối những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ trước. Nước này mới ở giai đoạn đầu xây dựng Hạm đội đại dương, nhưng để làm được điều đó thì thứ nhất  – cần phải khắc phục được sự tụt hậu về kỹ thuật. Thứ hai, cần phải có những đột phá trong công tác huấn luyện tác chiến, chiến thuật và tổ chức.

Hạm đội Liên Xô thời kỳ đầu cũng chỉ hoạt động ven bờ, không có khả năng hoạt động độc lập cách xa bờ biển của mình, phải mất hàng chục năm mới trở thành hạm đội hoạt động trên các đại dương. Trung Quốc bây giờ mới chỉ mới chỉ ở giai đoạn đầu của chặng đường đó.
Trong những năm 80, Hải quân Trung Quốc phát triển theo tinh thần Học thuyết phòng thủ ven bờ và theo hướng: thành lập hạm đội duyên hải với số lượng các tàu lớn chỉ ở mức tối thiểu, chủ yếu là các tàu nhỏ (lượng giãn nước từ 10 đến 400 tấn) và một khối lượng lớn pháo binh bờ biển.

Hải quân Trung Quốc mới phát triển từ giữa những năm 90, những tiến bộ về chất lượng cũng mới xuất hiện trong mấy năm trở lại đây. Trung Quốc không hề có kinh nghiệm cũng như trường phái Hải quân riêng nào cho phép họ có thể cảm thấy tự tin (khi đối đầu với Hạm đội Nhật Bản).
Chiến đấu cơ J-10 của Không quân Trung Quốc
Chiến đấu cơ J-10 của Không quân Trung Quốc
b. K.Sivkov:
“Về số lượng thì Lực lượng quân sự Trung Quốc gấp Nhật Bản khoảng chục lần. Quân đội Trung Quốc trong thời bình có 2,5 triệu người, còn Nhật Bản- khoảng 250.000 người. Nhưng trong cuộc chiến tranh giành quần đảo, lực lượng mà hai bên sử dụng chủ yếu sẽ là hải quân và không quân.
Để giải quyết các nhiệm vụ tác chiến nếu xung đột xảy ra, Trung Quốc có thể sử dụng từ 400 đến 500 máy bay chiến đấu, khoảng 20 tàu ngầm điện- diesel, 3 tàu ngầm hạt nhân. Ngoài ra, nước này còn có thể đưa vào tác chiến một số tàu tên lửa nhỏ và tàu khu khục mang tên lửa có điều khiển do các đảo này cách không xa Trung Quốc.

Về phía Nhật Bản, để chống lại lực lượng trên, nước này có thể huy động đến 150 máy bay tiêm kích chiến thuật, khoảng 10 tàu ngầm diezel, khoảng 5 đến 10 tàu phóng lôi và tàu tuần tiễu. Thành phần tác chiến của Hạm đội Nhật Bản sử dụng để bảo vệ các đảo này, về số lượng sẽ chỉ bằng một nửa so với Trung Quốc”.       

Các máy bay của Trung Quốc chủ yếu là các loai máy bay đã lạc hậu. Nếu tính yếu tố chất lượng, Nhật Bản có ưu thế áp đảo. Trung Quốc không có máy bay tuần thám radar trong khi Nhật Bản có các máy bay loại này nên có khả năng kiểm soát không phận và điều khiển tác chiến trên không, và đây chính là ưu thế đáng kể của không quân tiêm kích Nhật Bản.

Nhìn chung, xét tổng thể thì sức mạnh của Nhật Bản và Trung Quốc trên không là tương đương nhau, mặc dù Trung Quốc có ưu thế vượt trội về số lượng. 

Còn về hải quân, các tàu ngầm Trung Quốc có các tính năng kỹ - chiến thuật và công nghệ tương đương với các tàu đầu những năm 70. Có nghĩa là có độ ồn lớn. Nhật Bản có các tàu ngầm hiện đại hơn, ít tiếng ồn hơn và có thể tiến hành các hoạt động tác chiến chống lại các tàu ngầm Trung Quốc rất hiệu quả. Nhưng thành phần tàu nổi của Trung Quốc, không nghi ngờ gì nữa, vượt trội so với các tàu nổi của Nhật”.     
Oanh tạc cơ B-52
Oanh tạc cơ B-52
Nếu chiến tranh xảy ra vào ngày mai

Kịch bản một (một chọi một) -  Ý kiến của 2 chuyên gia trên vẫn hơi khác nhau.

a. V.Kashin:

“Chắc chắn hơn cả, cuộc xung đột giành các đảo sẽ kết thúc bằng một thất bại nhục nhã của Trung Quốc. Nếu hai bên sử dụng lực lượng tương đương nhau, Trung Quốc sẽ phải gánh chịu những tổn thất nặng nề trong khi không thể gây cho Nhật Bản thiệt hại nào đáng kể.

Vào thời điểm hiện tại, Nhật Bản có ưu thế rất lớn cả về trang bị lẫn huấn luyện tác chiến. Còn với Trung Quốc,  tất cả các hệ thống (vũ khí) mới đều chưa qua thử nghiệm thực tiễn, trình độ huấn luyện, kỹ năng của bộ đội đang còn là một dấu hỏi. Không những tất cả các loại vũ khí (của Trung Quốc) đều thua kém vũ khí của Nhật Bản mà Trung Quốc cũng không có khả năng tận dụng hết năng lực của các loại vũ khí mà mình có. Chắc chắn là Trung Quốc sẽ thảm bại trước Nhật Bản”.     

“Hải quân Nhật Bản rất mạnh. Mặc dù (Hải quân) Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhưng để có được trình độ (như Nhật Bản), trước hết là trong chiến thuật và huấn luyện thì nước này còn phải mất nhiều năm nữa (có lẽ vì thế mà Trung Quốc dự tính đến năm 2040 mới chiếm lại Sensaku chăng?).
  
b. K.Sivkov không đồng ý với dự đoán như vậy. Theo ông, tổn thất của Trung Quốc quả thực sẽ tương đối lớn, nhưng một mình Nhật Bản sẽ không thể ngăn chặn được Trung Quốc.

“Trong trường hợp xảy ra xung đột, Trung Quốc chủ yếu sẽ tiến hành chiến lược tiến công, trong khi Nhật Bản tập trung vào phòng thủ, và trong trường hợp đối đầu trực tiếp, Trung Quốc có nhiều cơ hội thắng hơn.

Lý do: Trung Quốc có ưu thế đáng kể về lực lượng tên lửa, các tàu phóng lôi và tên lửa có điều khiển, có thể giải quyết nhiệm vụ tiêu diệt các cụm tàu nổi của Nhật và đổ bộ lính (lên các đảo). Do Trung Quốc có ưu thế vượt trội về số lượng máy bay và quân dự bị (hàng chục lần), Không quân Nhật Bản không thể đánh trả được các đợt tấn công ồ ạt của Không quân Trung Quốc”.
   
 “Về huấn luyện binh sĩ -  Trung Quốc không thua kém gì Nhật Bản, và ở một số lĩnh vực nào đấy, có thể còn tốt hơn. Trung Quốc tiến hành các cuộc tập trận thường xuyên, liên tục và chi nhiều tiền để thực hiện nhiệm vụ này. 
Vì thế, nếu sự chuẩn bị của hai bên là như nhau thì Trung Quốc có thể giải quyết nhiệm vụ đánh bại các cụm không quân Nhật Bản trên chính lãnh thổ nước họ dù cái giá phải trả là rất đắt, và (Không quân Trung Quốc) cũng sẽ giải quyết được nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không tại khu vực đổ bộ (lên các đảo)”. 
Kịch bản hai “hai đánh một”

Trong trường hợp này, quan điểm của 2 chuyên gia trên hoàn toàn trùng nhau – Trung Quốc không có cửa nào.       
Nhật Bản, mặc dù quân số của Lực lượng phòng vệ kém PLA Trung Quốc hàng chục lần, nhưng có một ưu thế: đó là có đồng minh Mỹ. Theo Hiệp ước an ninh giữa hai nước thì trong trường hợp Nhật Bản bị xâm lược, Mỹ phải có trách nhiệm can dự. Khác với sự khác biệt về dự báo trong trường hợp “một chọi một”, khi dự báo về kết cục dành cho Trung Quốc nếu đối đầu quân sự với cả Nhật Bản và Mỹ, các chuyên gia đều có một quan điểm chung.    

Căn cứ quân sự Mỹ trên đảo Okinawa

a.  K. Sivkov:

“Chỉ riêng yếu tố Mỹ đã hoàn toàn loại trừ khả năng của Trung Quốc tiến hành chiến dịch quân sự ở khu vực các đảo trên. Trong cuộc “đối đầu trực tiếp” (giả định) giữa Trung Quốc và Nhật Bản-Mỹ thì dù Không quân Trung Quốc có ưu thế vượt trội về số lượng nhưng Không quân của Hải quân Mỹ cùng với Không quân tiêm kích chiến thuật triển khai tại Okinawa sẽ thừa sức để đánh trả các đòn tấn công và gây những thiệt hại không thể chịu đựng nổi cho Không quân tấn công Trung Quốc.  

Dĩ nhiên khi đó các sân bay Trung Quốc sẽ bị tấn công bằng các tên lửa có cánh kiểu Tomahawk, phần lớn máy bay (đậu trên sân bay) sẽ bị tiêu diệt, cơ sở hạ tầng cũng sẽ chịu chung số phận, và chỉ trong vòng một đến 2 tuần với sự tham gia của Mỹ, đại bộ phận lực lượng của Không quân Trung Quốc sẽ bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Hải quân Trung Quốc, tương tự như vậy, cũng bị đánh tan vì các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ kiểu Los Angeles lúc đó sẽ tham gia – những tàu loại này sẽ “giải quyết” các tàu Trung Quốc một cách nhẹ nhàng.

Vũ khí trên tàu của Trung Quốc tương đối mạnh, nhưng vũ khí phòng không (của các tàu đó) rất yếu, vì thế các tàu này sẽ nhanh chóng bị các tên lửa có cánh của Mỹ phóng từ cự ly ngoài tầm với của các tên lửa Trung Quốc tiêu diệt.

Theo ông Sivkov, nếu Trung Quốc biến những tuyên bố hung hăng thành hành động và xảy ra xung đột quân sự thì cuộc xung đột này chỉ giới hạn trên biển và trên không, sau đó Mỹ đe dọa can thiệp và gần như chắc chắn Trung Quốc sẽ phải chấm dứt các chiến dịch quân sự, nhưng thay vào đó là sẽ áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế mạnh.

Ông này kết luận: “Dù không có sự hậu thuẫn của Mỹ, các Lực lượng phòng vệ của Nhật Bản vẫn đủ sức giữ các đảo (trong trường hợp xảy ra xung đột quy mô nhỏ). Nhưng nếu giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn quyết định chiếm các đảo này bằng mọi giá thì (lúc đó) Nhật Bản sẽ không đủ sức. Tổn thất trong trường hợp này như sau: Không quân Trung Quốc sẽ chịu tổn thất đáng kể - khoảng 150 máy bay, còn Nhật Bản sẽ mất khoảng vài chục chiếc. Đến lúc Mỹ can thiệp (và phải can thiệp), thì Lực lượng vũ trang Trung Quốc sẽ đại bại.  

b.V.Kashin:

“Mỹ không có lập trường rõ ràng về các tranh chấp lãnh thổ, nhưng có điều gì đó xảy ra với Nhật Bản thì dứt khoát Mỹ sẽ can thiệp. Mỹ có tại khu vực này một cụm quân gồm tàu sân bay G. Washington, lính thủy đánh bộ trên đảo Okinawa, không quân và lục quân tại Hàn Quốc.
Có nghĩa là ngay sát cạnh các đảo tranh chấp, Mỹ đang có một lực lượng quân sự mạnh, kể cả các cụm tàu sân bay tấn công -  những tàu này trong trường hợp xảy ra mối đe dọa xung đột thì chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ là đã có mặt ở khu vực tác chiến và tham gia ngay. So sánh lực lượng quá bất lợi cho Trung Quốc và nước này không có một cơ hội nào. Phải còn rất lâu nữa, Trung Quốc còn phải qua một chặng đường rất dài nữa mới có thể trở thành một mối đe dọa thực sự đối với Nhật Bản”.   

Vài lời nói thêm

1.  Nhật Bản có quyền chủ quyền đối với các đảo này vào cuối thế kỷ XIX, sau cuộc chiến tranh Trung - Nhật lần thứ nhất. Sau khi thua trận trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật mất chủ quyền đối với tất cả các khu vực lãnh thổ chiếm được trước đó, những đảo này nằm dưới quyền tài phán của Mỹ.
Đến năm 1972, Mỹ đã trao trả đảo Okinawa và quần đảo này cho Nhật Bản. Chính vì vậy mà Mỹ lại càng không có lý do gì để ngồi nhìn những hòn đảo mà chính mình trao lại cho Nhật lại bị Trung Quốc chiếm đoạt.  

Ngay từ năm 1943, chủ đề các đảo tranh chấp với Nhật đã được đề cập tới trong hội nghị Cairo năm 1943 với sự tham dự của Tưởng Giới Thạch, Roosevelt và Churchill.

2. Cách đây không lâu (ngày 20/5/2013) báo Lenta.ru có đăng bài với tiêu đề “Đối với Thiên triều (Trung Quốc) – thì bao nhiêu (lãnh thổ) cũng là ít”, trong đó liệt kê một số tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc với các nước láng giềng.
Tinh thần của bài báo là: tham vọng lãnh thổ của “Thiên triều” đối với các nước láng giềng là không bao giờ thay đổi - từ xa xưa, từ Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, thời kỳ Mao, tiền Mao và hậu Mao…
Vấn đề là ở chỗ sức của Trung Quốc tới đâu, thủ đoạn gì cũng như đối sách và sức mạnh của các “nạn nhân” như thế nào. Không thể tin vào các câu mà giới lãnh đạo Trung Quốc thường rao giảng về “láng giềng hữu nghị ….”  – vốn luôn ngược với những điều mà họ nghĩ cũng như những điều mà họ làm .

3. Ngày 26/11, Trung Quốc đã điều chiếc tàu sân bay duy nhất của nước này (Liêu Ninh) đến Biển Đông để “nghiên cứu khoa học” và tập trận với sự hộ tống của 2 tàu khu trục và 2 khinh hạm. Sau khi vấp phải sự phản đối kịch liệt của các nước có liên quan như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Australia... trước “khu vực nhận diện phòng không”, Trung Quốc chuyển hướng dọa dẫm sang các nước láng giềng phía nam chăng?

4. Diễn biến mới đáng chú ý hơn cả: Vào lúc 19h00 ngày thứ 2 (25/11- theo giờ bờ đông nước Mỹ - tức sáng ngày thứ ba 26/11 – giờ Việt Nam), 2 máy bay B-52 của Mỹ cất cánh từ sân bay Guam đã bay vào “khu vực nhận diện phòng không” nói trên mà không thèm báo trước cho phía Trung Quốc “theo quy định”.
Đã không hề có một biện pháp “quân sự khẩn cấp” nào được áp dụng, thậm chí phía Trung Quốc cũng đã không tìm cách liên lạc với 2 chiếc máy bay này.
Nói theo cách nói của tờ Wall Street Journal thì bước đi trên đây của Mỹ là “thách thức trực tiếp” đối với Trung Quốc liên quan đến vụ “thành lập khu vực phòng không “…

Nên hiểu sao về Trung Quốc sau vụ này?        

Lê Hùng
http://baodatviet.vn/the-gioi/quan-he-quoc-te/chung-minh-trung-quoc-khong-co-cua-truoc-nhat-my-2360774/

Kịch bản chiến tranh với Trung Quốc: Mỹ giành ưu thế

VietnamDefence - Theo khái niệm Tác chiến không-biển (Air-Sea Battle Operational Concept), chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ diễn ra theo hai giai đoạn.
Đánh chìm tàu sân bay và tàu chiến Mỹ là mơ ước ấp ủ của giới diều hâu Trung Quốc

Giai đoạn một sẽ là chặn đứng các cuộc tiến công ban đầu, chủ yếu là các cuộc tiến công bằng tên lửa, của quân đội Trung Quốc, cũng như hạn chế thiệt hại về quân đội và sự tổn hại của các căn cứ quân sự của Mỹ và đồng minh.

Khó nhất đối với quân đội Mỹ sẽ là bảo vệ các căn cứ và hải cảng, cũng như các tàu mặt nước cỡ lớn của Hải quân Mỹ nằm trong tầm hoạt động của tên lửa, máy bay và tàu ngầm của quân đội Trung Quốc. Trong những ngày đầu xung đột, khó có thể duy trì được lực lượng hải quân mặt nước lớn của Mỹ trong bán kính đến chuỗi đảo thứ nhất. Cần chấp nhận là Mỹ bị đặt vào tình thế quân sự còn khó khăn hơn khi sự căng thẳng chính trị và quân sự gia tăng trong khu vực sẽ buộc người Mỹ phải điều động lên các vị trí phía trước những lực lượng quân sự lớn nhằm thuyết phục các đồng minh tin tưởng vào ý định bảo vệ họ của Mỹ (đây là việc tung sức mạnh nhằm mục tiêu chính trị). Nhưng đồng thời, điều đó sẽ phản tác dụng về mặt quân sự bởi vì nó lập tức kích động một cuộc tấn công ồ ạt của Trung Quốc vào các vị trí này.

Dự kiến hành động của các bên 

Các tàu chiến của Mỹ và Nhật Bản trang bị hệ thống AEGIS để chống tên lửa sẽ được lệnh chiếm lĩnh các vị trí bảo vệ đã định. Các tàu chiến mặt ước có giá trị chiến đấu lớn như tàu sân bay sẽ được rút khỏi tầm hoạt động của các lực lượng/phương tiện chống tiếp cận/phong tỏa khu vực (A2/AD) của Trung Quốc và sẽ bắt đầu liên tục cơ động để đối phó với các cuộc tiến công của đối phương. Các tàu tác chiến điện tử dùng để chế áp và đánh lừa đối phương cũng sẽ chiếm lĩnh các vị trí đã định. Các tàu ngầm của các nước đồng minh với Mỹ cũng sẽ được triển khai ở các vị trí chiến đấu phía trước đã định dọc theo chuỗi đảo thứ nhất, cụ thể là dọc theo các eo biển của quần đảo Ryukyu và ngang qua eo biển Luzon.

Những vị trí này tạo ra những điều kiện tốt cho cuộc chiến tranh tàu ngầm bởi vì các tàu ngầm Trung Quốc phải đi qua nhiều lần ở những địa điểm nguy hiểm đối với chúng các khu vực dọc quần đảo Ryukyu (các tàu ngầm Trung Quốc tính năng yếu, có tầm hoạt động nhỏ, sức chiến đấu thấp và thường xuyên phải vào cảng để bổ sung nhiên liệu). Điều đó rất quan trọng từ góc độ địa lý khu vực ở phương diện điều đó có thể tận dụng triệt để để tác chiến chống tàu ngầm Trung Quốc. Các tàu ngầm tiến công của Mỹ trái lại sẽ chiếm các vị trí ở các vùng biển ven bờ biển Trung Quốc để tấn công vào các mục tiêu nằm sâu trong lãnh thổ Trung Quốc, cũng như vào các hệ thống sonar ngầm và các sensor ở gần bờ biển. Những tàu ngầm còn lại sẽ làm nhiệm vụ các căn cứ quân sự Mỹ quan trọng nhất như Guam và các quân cảng ở Hawaii và kiểm soát hoạt động đi lại của các tàu Trung Quốc ở phía tây biển Philippines.

Giả thiết là căn cứ quân sự Kadena ở Nhật, căn cứ Guam và các căn cứ ở quần đảo Mariana sẽ bị tiêu diệt hoặc bị phá hủy tạm thời vì cuộc tấn công tên lửa của Trung Quốc ở ngay đầu cuộc xung đột, vũ khí trang bị của Mỹ sẽ được đưa đến các căn cứ ở miền đông Nhật Bản để tăng cường khả năng phòng thủ của Nhật chống các cuộc tấn công xuất phát từ biển Nhật Bản và biển Hoa Đông. Vũ khí trang bị (máy bay, đạn dược, nhiên liệu…) được chuyển nhanh chóng và thành công đến miền đông Nhật Bản sẽ tăng cường khả năng phòng ngự của Nhật, cũng như bảo toàn triển vọng thắng lợi cuối cùng. Các vũ khí trang bị còn lại có thể đến từ Mỹ hay khu vực vịnh Persique nhanh nhất là sau một tuần.

Tiếp đó, người Mỹ sẽ tập trung làm “mù” các trung tâm chỉ huy quân đội Trung Quốc bằng cách tiêu diệt các vệ tinh Trung Quốc trong vũ trụ, cũng như các hệ thống radar kiểm soát không phận bố trí trên bờ biển và giành quyền khống chế không gian mạng. Việc bịt mắt đối phương sẽ khiến Trung Quốc không còn khả năng đánh giá mức độ thành công của các cuộc tấn công của họ và đánh giá tổn thất chiến đấu gây ra, điều đó dẫn đến không thể nắm bắt tình hình hiện tại và tiêu hao phương tiện chiến đấu vào các mục tiêu đã bị tiêu diệt hoặc không quyết định tấn công phù hợp để tiêu diệt.

Ngay sau khi bịt mắt thành công đối phương, người Mỹ sẽ phát động tấn công vào các bệ phóng tên lửa tầm trung và tầm xa, cũng như các hệ thống vũ khí tiến công khác của Trung Quốc. Đó là mục tiêu then chốt mà khi thực hiện hành công sẽ cho phép tước bỏ khả năng của quân đội Trung Quốc giành chiến thắng nhanh chóng và không thể đảo ngược. Để giành thắng lợi trong các nhiệm vụ đó, cần sử dụng các máy bay tiến công tầm xa khó bị radar đối phương phát hiện của Không quân và Hải quân Mỹ (các máy bay hiện có của Hải quân Mỹ không có những tiêu chí này, còn bán kính hoạt động của chúng nhỏ hơn của các hệ thống vũ khí phòng thủ của quân đội Trung Quốc, nhưng tình hình này sẽ sắp thay đổi khi Hải quân Mỹ nhận vào trang bị loại máy bay không người lái tầm xa phát triển cho hải quân Х-47В), cũng như các tên lửa phòng từ tàu ngầm.

Các cuộc không kích nhằm vào Trung Quốc sẽ được thực hiện bởi các máy bay tiến công có thể đột phá hệ thống phòng không (các máy bay ném bom B-2) nên cho phép tiêu diệt các mục tiêu cơ động và khó xác định, cũng như bởi các máy bay tiến công oanh kích ồ ạt từ cự ly xa khi sử dụng các vũ khí trên khoang (các máy bay ném bom В-52 với tên lửa hành trình) để tiêu diệt các mục tiêu tĩnh tại. Việc lựa chọn các mục tiêu trên lãnh thổ Trung Quốc phải được giới lãnh đạo chính trị thông qua để tránh khả năng leo thang không thể kiểm soát các cuộc tấn công trả đũa nhằm vào các mục tiêu dân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.

Ở giai đoạn này của cuộc chiến, sự hiệp đồng giữa không quân và hải quân sẽ được thể hiện rất rõ: các tàu chiến AEGIS sẽ bảo vệ không phận bên trên các căn cứ không quân của Không quân Mỹ, còn các tàu ngầm và máy bay không người lái tiến công tương lai sẽ vượt qua hệ thống phòng không và mở cửa không phận Trung Quốc cho các cuộc tấn công ồ ạt được thực hiện bởi các máy bay đa nhiệm không có khả năng tự đột phá phòng không đối phương.

Các hành động nêu trên sẽ giúp Mỹ giành lại thế chủ động trong tất cả các môi trường tác chiến mà trong chiến tranh siêu hiện đại sẽ bao trùm không trung, biển , vũ trụ và không gian mạng. Các nhà phân tích Mỹ cho rằng, giai đoạn đầu sẽ không ngắn bởi vì các thách thức tác chiến liên quan đến giai đoạn này sẽ rất lớn.

Giai đoạn phong tỏa
Người Mỹ sẽ vấp phải những khó khăn lớn về hậu cần bởi vì các chiến dịch ở phía tây tuyến Guam-Saipan sẽ đòi hỏi những chi phí lớn (khoảng cách xa giữa các căn cứ, các cơ sở cung ứng hậu cần nhỏ, hoạt động trong điều kiện có tác chiến đối kháng cường độ cao của đối phương), những yếu tố đó sẽ kéo dài thời gian của tất cả các hành động và chiến dịch.

Sẽ là điểm bước ngoặt là khi Không quân và Hải quân Mỹ có khả năng hoạt động tại khu vực giữa quần đảo Ryukyu và Đài Loan, ở Biển Đông và biển Hoa Đông bắt đầu khi khả năng A2/AD của Trung Quốc bị suy yếu. Một yếu tố quan trọng khác sẽ là khi quân đội Mỹ giành được ưu thế tác chiến và làm chủ không phận bên trên Nhật Bản. Các nhà phân tích Mỹ dự định ở giai đoạn đầu chiến tranh kéo không quân Trung Quốc vào một trận không chiến lớn ở không phận bên trên phía đông Nhật Bản, mà với ưu thế chất lượng của máy bay, kinh nghiệm chiến đấu và các kỹ năng của phi công Mỹ sẽ bảo đảm thắng lợi của Mỹ và đồng minh, và nhanh chóng loại các máy bay chiến đấu Trung Quốc khỏi cuộc đấu giành quyền khống chế trên không bên trên Biển Đông và biển Hoa Đông, và qua đó cho phép máy bay Mỹ và đồng min tự do hành động trong các phi vụ tiến công nhằm vào các mục tiêu (tàu bè, đoàn tàu vận tải, hạ tầng).

Giai đoạn 2 sẽ tập trung trước hết vào phong tỏa bờ biển Trung Quốc và cắt đứt các tuyến đường vận chuyển đến Trung Quốc tại khu vực chuỗi đảo thứ nhất, trước hết là bằng lực lượng tàu ngầm (cả trong các cuộc tấn công trực tiếp vào các mục tiêu, cũng như rải thủy lôi các tuyến đường biển), cũng như phá hủy hoạt động thông tin liên lạc và vô hiệu hóa các trung tâm chỉ huy và hậu cần cần để tiến hành chiến tranh.

Việc phá hủy các trang bị dưới nước và hạ tầng tàu ngầm của Trung Quốc tại Biển Đông và biển Hoa Đông sẽ tạo ưu thế lớn cho Mỹ vì nó cho phép người Mỹ triển khai hoạt động tại khu vực này và tiêu diệt hạm đội tàu ngầm Trung Quốc, điều này sẽ dẫn đến thủ tiêu mối đe dọa đối với tàu nổi của Hải quân Mỹ và đồng minh tại khu vực chuỗi đảo chiến lược thứ nhất.

Cuộc chiến tàu ngầm có đặc thù riêng và không thể trong thời gian ngắn phát hiện và vô hiệu hóa tất cả các tàu ngầm đối phương (do đó mà Mỹ chủ trương kiểm soát lên tục tàu ngầm đối phương trong thời bình và gia tăng số lượng tàu ngầm chiến lược của Hải quân Mỹ), do đó, chiến dịch vô hiệu hóa các tàu ngầm Trung Quốc có thể kéo dài nhiều tháng.

Mặt khác, việc kết thúc nhanh chiến dịch tiêu diệt lực lượng tàu ngầm Trung Quốc sẽ cho phép hạm đội tàu ngầm Mỹ chuyển sang nhiệm vụ ngăn chặn các tuyến đường vận tải của Trung Quốc ngay sát bờ biển nước này, cũng như tiến hành rải thủy lôi quy mô lớn các hải cảng Trung Quốc, điều sẽ làm thay đổi cán cân sức mạnh theo hướng có lợi cho Hải quân Mỹ.

Các chiến lược gia Mỹ dành cho hạm đội tàu ngầm Mỹ một vai trò lớn trong cuộc chiến tranh này. Trong tất cả các kịch bản, một số lượng lớn tàu ngầm được giao các nhiệm vụ tiến công các mục tiêu trên bộ, cũng như tiêu diệt các tàu ngầm và tàu nổi của đối phương, rải thủy lôi, xâm nhập và phá hoại, tiêu diệt các đoàn tàu vận tải. Việc tiêu diệt nhanh chóng hạm đội tàu ngầm Trung Quốc, việc vô hiệu hóa sơ bộ các hệ thống phản ứng gần bờ biển Trung Quốc sẽ tạo cơ hội giải thoát các tàu chiến Mỹ khỏi trách nhiệm hộ tống và áp tải các đoàn tàu vận tải chở hàng quân sự.

Sau khi loại trừ mối đe dọa từ phía hạm đội tàu ngầm Trung Quốc vàu sau khi giành quyền kiểm soát không phận khu vực chuỗi đảo chiến lược thứ nhất, người Mỹ sẽ bắt đầu săn đuổi các tàu mặt nước Trung Quốc cho đến tận bờ biển nước này. Họ sẽ sử dụng các máy bay chiến đấu xuất kích từ các tàu sân bay sẽ được đến chiến trường để làm việc này. Mục tiêu sẽ là tiêu diệt hạm đội đối phương hay kìm chân nó trong cả các hải cảng.

Mục tiêu tiến công cuối cùng của phía Mỹ sẽ là tiêu diệt hoặc làm suy giảm mạnh năng lực sản xuất quân sự của Trung Quốc, cụ thể là sản xuất vũ khí, đạn dược mà việc kiểm soát được việc sản xuất này sẽ là then chốt để giành thắng lợi trong cuộc xung đột đối với mỗi bên.

Những hậu quả có thể của giai đoạn đầu chiến tranh
Phương tiện trực tiếp mang lại chiến thắng cho người Mỹ trong cuộc chiến tranh sẽ là phong tỏa đường biển thành công mà để làm được cần phải đạt được tất cả các mục tiêu nên ở trên. Mỹ sẽ có thể kiểm soát các tuyến giao thương trên biển đến chừng nào thì Trung Quốc sẽ bị tước bỏ khả năng tiếp cận các tài nguyên từ hướng biển chừng ấy.

Sau khi thiết lập được vòng phong tỏa hoàn toàn, kinh tế Trung Quốc sẽ lâm vào suy thoái rất nhanh và một Trung Quốc thua cuộc sẽ cầu xin hòa bình. Và sẽ không cần bất kỳ chiến dịch mặt đất lớn nào. Các ví dụ của nước Đức thời Thế chiến I và Nhật Bản trong Thế chiến II cho thấy, việc chặt đứt hoạt động ngoại thương có thể là yếu tố then chốt và quyết định để giành thắng  lợi trong chiến tranh.

Ngoài ra, xuất phát từ việc các điều kiện địa lý các vùng biển duyên hải Trung Quốc rất sơ hở, nên việc phong tỏa đường biển Trung Quốc sẽ là việc đơn giản hơn là phong tỏa đường biển Nhật thời Thế chiến II. Người Mỹ sẽ có thể phong tỏa các tuyến đường đến và đi từ Trung Quốc từ khoảng cách khá xa Trung Quốc (ngoài tầm hoạt động của các phương tiện A2/AD của Trung Quốc, tức là phong tỏa từ xa). Hoặc là các tàu chở hàng Trung Quốc sẽ phải đi đến Trung Quốc qua những tuyến đường cách khá xa Hoa lục: eo biển Malacca, Singapore, các eo biển Indonesia hay Ryukyu/Luzon. Từ vị trí địa lý như nêu ở trên, việc phong tỏa tàu bè đi từ hay đến Trung Quốc không nhất thiết đòi hỏi đánh đắm chúng mà đơn giản chỉ cần chặn chúng lại (cùng với hàng hóa) trên các tuyến giao thông.

Các phương tiện của quân đội Mỹ
Mặc dù, hiện nay quân đội Mỹ không có cả những phương tiện lẫn kế hoạch tác chiến đã được thông qua, lẫn học thiết khả dĩ tạo điều kiện để giành thắng lợi trong cuộc chiến ở tây Thái Bình Dương với Trung Quốc, Khái niệm Tác chiến không-biển (Air-Sea Battle Operational Concept), ngoài việc thực hiện bản thân kế hoạch tác chiến vốn là một bộ phận của nó, còn bao hàm các hành động và sáng kiến sau đây (được lựa chọn từ một số phương án riêng biệt):

- Đưa các phương tiện, vũ khí phòng thủ tên lửa đủ mạnh đến căn cứ quân sự then chốt trên đảo Guam hoặc các căn cứ ưu tiên được lựa chọn khác trong khu vực. Mở và trang bị đầy đủ các phương tiện cần thiết cho các căn cứ nhỏ trong khu vực này như: Tinian, Saipan, Palau. Nhất thiết phải xây dựng đường ống dẫn dầu ngầm giữa Guam, Tinian, Saipan;

- Xóa bỏ sự mất cân bằng chất lượng và số lượng hiện tại giữa Mỹ và Trung Quốc về các phương tiện chiến đấu tầm xa, có thể tiêu diệt các mục tiêu ưu tiên đặc dụng ở giai đoạn đầu xung đột, bằng cách đưa vào trực chiến trong Hải quân Mỹ các tên lửa đường đạn có phương án bố trí khác nhau và tầm bắn không dưới 1.000 km. Phát triển và đưa vào trang bị cho Không quân và Hải quân Mỹ các phương tiện chiến đấu cơ động, khó bị phát hiện, tầm xa thế hệ mới; phát triển và trang bị các vũ khí siêu vượt âm có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở bất cứ nơi nào trên trái đất trong  vòng 1 giờ;

- Phát triển và trang bị các phương tiện chiến đấu có thể nhận dạng và tiêu diệt mục tiêu trên lãnh thổ đại lục Trung Quốc;

- Tăng cường khả năng tiến hành các hoạt động dưới nước, trong đó có các tàu ngầm và tàu ngầm robot và thủy lôi vốn sẽ có ý nghĩa hàng đầu để giành quyền bá chủ ở cái gọi là chuỗi đảo chiến lược thứ nhất, điều có ý nghĩa quyết định đối với kết cục chiến tranh;

- Thay đổi hệ thống chỉ huy các lực lượng Mỹ bằng cách tiêu chuẩn hóa các hệ thống thông tin giữa các quân binh chủng, cũng như tiến hành bảo vệ hệ thống chỉ huy quân đội trước các cuộc tấn công từ vệ tinh và từ không gian mạng. Xây dựng và đưa vào khai thác hệ thống chỉ huy quân đội dự phòng, khẩn cấp;

- Phát triển và trang bị cho quân đội vũ khí năng lượng định hướng;

- Sự tương tác và liên kết chặt chẽ trong thời gian tới của các kế hoạch, tập trận, diễn tập và các hệ thống hỗ trợ các phương tiện chiến đấu giữa Hải quân và Không quân Mỹ tại chiến trường tây Thái Bình Dương, bởi vì chính hai quân chủng gánh vác trọng trách chính của cuộc chiến tương lai;

- Sản xuất và lưu trữ số lượng đủ lớn các loại vũ khí, cũng như hỗ trợ cơ sở công nghiệp sản xuất đủ số lượng các hệ thống vũ khí trang bị và đạn dược, có khả năng tăng đột biến sản lượng sản phẩm quân sự;

- Duy trì và mở rộng các liên minh quân sự với Nhật Bản và Australia. Giúp đỡ các nước này có được các phương tiện chiến đấu mới, chẳng hạn bán cho họ các máy bay đa năng thế hệ 5, cũng như soạn thảo các kế hoạch chung và phát triển các hệ thống phòng không.
Nguồn: malanka, ukr-portal, 14.8.2013.   
http://vietnamdefence.com/Home/Home/phantich/Kich-ban-chien-tranh-voi-Trung-Quoc-My-gianh-uu-the-2/201310/52968.vnd

Học được gì từ vụ Bãi đá Scarborough?

Bãi đá Scarborough là một chiến thắng chiến thuật đối với Trung Quốc, nhưng cũng đồng thời hé lộ công thức của Bắc Kinh nhằm lợi dụng các quốc gia yếu hơn. Để ngăn chặn khuynh hướng gia tăng sự cứng rắn của Trung Quốc, Washington nên tập trung vào việc xây dựng năng lực cho các đối tác, củng cố các thể chế ở khu vực và làm cho Bắc Kinh thấy rõ nước này sẽ phải trả giá khi áp dụng “Mô hình Scarborough” trong tương lai.

 
Vào tối ngày 15/6/2012,  Philippines đành chịu thua sau 10 tuần đụng độ gay gắt với Trung Quốc và đã rút các tàu biển của nước mình ra khỏi vùng nước xung quanh bãi đá Scarborough. Bãi đá này là một nhóm các đá nhỏ nằm ở 120 dặm về phía tây so với Vịnh Subic. Giống như rất nhiều đảo và đá ở Biển Đông, chủ quyền của bãi đá Scarborough đang là tranh cãi giữa rất nhiều nước có yêu sách, trong trường hợp này là Trung Quốc, Philippines và Đài Loan. Và mặc dù các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhanh chóng tránh những quan niệm về một cuộc cạnh tranh bên được bên mất, nhưng không hề có nghi vấn nào về việc Trung Quốc đã giành được một thắng lợi mang tính chiến thuật với việc nắm giữ và chiếm đóng các khu vực tranh chấp, và điều này không hề có lợi cho Manila.
Cuộc khủng hoảng đã có thể dẫn đến một cuộc chiến khu vực. Hàng tá tàu thuyền của chính phủ và tàu cá đã luôn lượn lờ một cách nguy hiểm ở khu vực xung quanh bãi đá trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ và dân chúng rất bất bình. Nhưng sâu xa hơn, cuộc đụng độ ở bãi đá Scarborough chứng minh rằng các nỗ lực của Mỹ nhằm ngăn chặn sự cứng rắn của Trung Quốc không hề có hiệu quả. Ngay sau khi Philippines rời khỏi bãi đá, các quan chức và học giả Trung Quốc đã bắt đầu đề cập đến “Mô hình Scarborough” cho việc sử dụng ảnh hưởng và thôn tính những vùng lãnh thổ tranh chấp. Từ những sự kiện này, các học giả hàng đầu của Trung Quốc đang khám phá các chiến lược “cưỡng chế lan rộng” (“extended coercion” - một trò chơi nhằm mở rộng sự ngăn chặn) mà thông qua đó Trung Quốc có thể tạo áp lực lên các đồng minh của Mỹ trong khi vẫn có thể kiềm chế được Washington.
Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực nhiều hơn ở Biển Đông sẽ đi ngược lại với lợi ích của Mỹ. Cùng với mối đe dọa đến thịnh vượng và hòa bình của khu vực, sự việc này có thể đặt ra nghi vấn về quyền lực hiện tại của Mỹ ở Châu Á và những ngờ vực về giá trị của việc làm đồng minh với Mỹ.
Vì Trung Quốc đã rút ra được bài học từ vụ đụng độ với Philipines và đang tìm kiếm phương pháp tương tự ở những nơi khác, do đó Mỹ cũng cần phải học cách kiểm soát lại hành vi của mình bằng việc hiểu chính xác việc gì đã xảy ra ở bãi đá Scarborough, tại sao vũ lực của Trung Quốc lại lợi hại đến thế, và Mỹ có thể làm gì khác hơn trong tương lai.
Cuộc khủng hoảng bùng nổ khi một máy bay tuần tra của hải quân Philipines phát hiện ra 8 tàu cá Trung Quốc gần bãi đá Scarborough vào ngày 8/4/2012. Đúng như nghi vấn, Philippines tìm thấy những con sò khổng lồ, san hô và cá mập trên những con tàu này. Đây đều là những loài bị đánh bắt bất hợp pháp và có nguy cơ tuyệt chủng - hành vi của các con tàu này đã vi phạm luật của Philippines. Philippines sau đó đã điều động tàu BRP Gregorio del Pilar, một tàu bảo vệ bờ biển Mỹ không dùng đến, để bắt những ngư dân này. Tuy nhiên, điều mà các máy bay do thám của Philippines không nhìn thấy là các tàu hải giám của Trung Quốc cũng ở trong khu vực đó. Mặc dù Philippines thường sử dụng tàu hải quân để ngăn chặn các hoạt động phi pháp trong vùng biển của mình (do số lượng hạn chế của các tàu tuần duyên và tàu hải quân của nước này cộng lại), Trung Quốc hết sức giận dữ khi cho rằng Philippines đã điều tàu quân sự cho các hoạt động chấp pháp.
Buộc tội Philippines quân sự hóa tranh chấp, Bắc Kinh đã tiến hành chính sách mà học giả Stephanie Kleine-Ahlbrandt gọi với cái tên khá phù hợp là “sự cứng rắn mang tính phản ứng”, nhanh chóng điều các tàu biển ngăn Philippines bắt giữ các ngư dân của mình. Với sự đụng độ của các tàu chính phủ ở bãi cạn, hai nước bị mắc kẹt trong thế mặt đối mặt về tranh chấp chủ quyền.
Mặc dù yêu cầu Philippines ngay lập tức rút quân, nhưng Trung Quốc lại nhanh chóng làm leo thang vụ đụng độ bằng việc điều số tàu bằng và sau đó là vượt quá số tàu ít ỏi của Philippines - những tàu được điều đến để giải vây cho tàu chiến của Philippines. Tàu biển của Trung Quốc, có tin cho rằng đã phối hợp với các ngư dân, thực hiện một bước đi khá táo bạo là dựng lên một rào chắn bằng dây thừng ngang qua vùng cửa biển hình chữ C, trước hết là để ngăn chặn các ngư dân Philippines còn mắc kẹt bên trong bãi đá, và cấm họ không quay trở lại một khi được phép ra khỏi đây. Trong khi đó, tàu của Hải quân quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAN) liên tục lượn lờ ở quanh đó như một thông điệp gửi đến Manila rằng đừng có dại gì mà gây hấn.
Bắc Kinh cũng sử dụng sức ép kinh tế bằng việc thông báo kiểm tra bất ngờ đối với chuối nhập khẩu của Philippines, và những quả chuối này đã bị bỏ chín nẫu ở cảng của Trung Quốc. Việc cấm du lịch lan rộng cũng đã giảm đáng kể số lượng khách du lịch Trung Quốc đến Philippines.
Khi vụ đụng độ ngày càng căng thẳng hơn, các kênh ngoại giao truyền thống thu được rất ít kết quả. Việc liên lạc giữa Bắc Kinh và Manila hết sức trì trệ một phần là do những nguyên nhân không mấy liên quan gì đến khủng hoảng. Philippines chưa bổ nhiệm vị trí đại sứ còn trống ở Trung Quốc và đại sứ Trung Quốc ở Philippines bị đánh giá là làm việc không hiệu quả và không hiểu ý Bắc Kinh.
Phức tạp hơn, nhà ngoại giao hàng đầu của Bắc Kinh ở Trung Quốc, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao phụ trách Châu Á Phó Oánh, đã từng làm Đại sứ Trung Quốc ở Philippines vào năm 1999 khi Trung Quốc gia tăng một cách khiêu khích các yêu sách của mình ở Biển Đông bằng việc xây dựng một cơ sở quân sự ở Đá Vành Khăn đang tranh chấp (mà Trung Quốc đã chiếm từ năm 1995). Như một quan chức Philippines đã nhận xét: “Nếu có bất cứ ai đó biết cách để trộm đảo, đó chính là bà ấy.” Những nỗ lực để thúc đẩy các kênh ngoại giao bí mật đáng tin cậy giữa Bắc Kinh và Manila không đạt được kết quả nào.
Việc chính quyền hai nước không thể nói chuyện với nhau ngầm ám chỉ vai trò của Mỹ như một người đối thoại và hòa giải mặc định. Cả hai bên đều bắt đầu những cuộc đàm phán riêng rẽ với các quan chức Mỹ - những người sau đó phải chuyển các thông điệp qua lại giữa hai bên.
Mặc dù Trung Quốc không ưa thích gì việc nhờ đến Mỹ là người trung gian hòa giải, nhưng thực tế thì Bắc Kinh lại thúc đẩy Washington gây áp lực buộc Philippines xuống nước, và miêu tả giới lãnh đạo Manila là nông nổi, khó đoán định và dễ liều lĩnh lao vào phiêu lưu khi tin vào những tuyên bố của Obama và chính quyền của ông rằng Mỹ đang tái cân bằng sự chú ý và nguồn lực đối với Châu Á.
Trong khi đó, ngoại giao giữa Mỹ và Philippines phản ánh nhận thức chung về tầm quan trọng của việc tiếp tục thận trọng và kiềm chế. Manila một lần nữa hy vọng về sự trở lại nguyên trạng trước đây, đồng thời tìm kiếm sự rõ ràng hơn từ phía Mỹ về những điều kiện mà theo đó Hiệp ước Phòng thủ chung giữa hai nước đồng minh có thể đưa đến sự can thiệp của Mỹ. Cuộc họp cấp bộ trưởng giữa Clinton và Panneta với những người đồng cấp Philippines vào tháng 4/2012 và chuyến thăm của Tổng thống Aquino đến Washington vào tháng 6 nhằm gửi đi tín hiệu về sự đoàn kết giữa hai đồng minh, mặc dù một cách công khai Mỹ vẫn luôn duy trì “sự mơ hồ chiến lược” về tác động của hiệp ước trong trường hợp bùng nổ chiến sự ở Biển Đông.
Sau nhiều tuần thảo luận, thương lượng, vào giữa tháng 6 các quan chức Mỹ đã làm trung gian cho cái mà họ tin rằng là một thỏa thuận cùng rút lực lượng của hai bên. Vì quá mệt mỏi, bị áp đảo về số lượng và thiếu những lựa chọn khác có tính khả thi, Manila đã rút số tàu còn lại với lý do có một cơn bão sắp đến để đỡ mất mặt. Trung Quốc, trái lại, không tuân theo hạn chót đã được thống nhất và vẫn giữ lại các tàu biển ở bãi cạn, nơi mà họ hiện nay vẫn còn thường xuyên tuần tra.
Mặc dù quân đội Mỹ vẫn có khả năng ngăn chặn chiến tranh giữa các cường quốc ở Châu Á, nhưng nguy cơ xung đột trên quy mô lớn là hết sức xa vời. Thay vào đó, sự bất ổn khu vực sẽ dễ nảy sinh hơn từ các tranh chấp và cãi vã nằm trong ranh giới nhập nhằng giữa chiến tranh và hòa bình.
Trung Quốc nắm giữ hàng loạt các lợi thế chiến lược trong môi trường này, một sự thật mà Bắc Kinh chưa bao giờ bỏ qua. Không hề tình cờ khi các tàu biển phi quân sự được coi là lực lượng đi đầu trong chính sách cưỡng ép của Trung Quốc ở Bãi đá Scarborough. Điều này giúp bảo đảm tranh chấp sẽ được dàn xếp như một cuộc chiến không cân xứng giữa lực lượng tuần duyên hùng hậu của Trung Quốc và một lực lượng tương tự gần như không tồn tại của Philippines. Bắc Kinh tận dụng lợi thế này hết mức có thể, nhưng vẫn giữ dưới ngưỡng quân sự hóa, nhằm tránh khả năng đáp trả của Hải quân Mỹ.
Cùng với khoảng cách khá xa giữa năng lực biển của Trung Quốc và của Philippines, Bắc Kinh cũng khai thác lợi ích bất đối xứng với Mỹ. Các quan chức ngoại giao đã nhanh chóng trích dẫn quan điểm của các nhà yêu nước cả ở trong quân đội (PLA) và trong dân chúng Trung Quốc, kêu gọi chính phủ sử dụng vũ lực chống lại Philippines. Các nhà hoạch định chính sách cấp cao ở Bắc Kinh đã gián tiếp đề cập đến yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông là “lợi ích cốt lõi”, một cụm từ được sử dụng cho các vấn đề như Đài Loan và Tây Tạng, theo đó Trung Quốc sẵn sàng tiến hành chiến tranh để ngăn các lực lượng chống đối hoặc các thế lực thù địch đạt được mục đích của họ.
Đáp lại, các quan chức Mỹ tỏ ra hết sức thận trọng, không muốn khiêu khích đẩy Trung Quốc vào xung đột. Thế lưỡng nan của Mỹ ngày càng rõ nét khi mà Bắc Kinh không muốn thiết lập các kênh ngoại giao đáng tin cậy với Manila. Trách nhiệm đàm phán tìm ra một giải pháp cho khủng hoảng do đó phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ. Hệ lụy phát sinh đó là tranh chấp đã trở thành một vấn đề chủ yếu giữa Mỹ và Trung Quốc, gây ra sự phức tạp liên quan đến việc gìn giữ quan hệ ổn định Trung - Mỹ. Bắc Kinh càng nhấn mạnh điểm này bằng cách đổ lỗi các hành động của Philippines cho Mỹ một cách công khai và riêng tư.
Để ngăn khu vực đoàn kết ủng hộ Manila, Trung Quốc đã chuyển sang cô lập Philippines và tìm cách chia rẻ các thành viên trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Lúc đầu, điều này khá dễ dàng, nếu tính đến số lượng các nước trong khu vực cùng chia sẻ quan điểm công khai của Trung Quốc rằng Philippines là nước đã khơi mào khủng hoảng bằng việc điều các tàu hải quân cho các hoạt động chấp pháp. Cuộc đụng độ cũng nổ ra khi mà Philippines được coi là người ngoài cuộc trong các nỗ lực nội khối của ASEAN nhằm đạt được đồng thuận cho một Bộ quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC).
Nhưng khi thời gian trôi qua, và đặc biệt khi Trung Quốc dựng lên một rào chắn thực sự ở bãi đá, thì ở khu vực đã nổi lên một sự đồng thuận về việc Bắc Kinh đã vượt quá giới hạn của mình. Thời điểm để công chúng có thể phán xét một cách cẩn thận sự việc này diễn ra vào Diễn đàn an ninh khu vực ARF vào tháng 7 và Cấp cao Đông Á (EAS) sau đó.
Đoán trước được điều này, Bắc Kinh đã phản ứng với chính sách ngoại giao hai bước. Đầu tiên, sau hàng tháng không chịu thay đổi lập trường, Trung Quốc đã thông báo về thiện chí của mình, chỉ vài ngày trước ARF 2012, rằng nước này đồng ý bàn thảo về COC vào cuối năm. Tuy thông báo này chỉ là cam kết khá hời hợt, nhưng nó đã giúp làm chìm những lời chỉ trích của các nước trong khu vực.
Với khả năng ảnh hưởng mạnh về kinh tế, Bắc Kinh cũng tìm cách chia rẽ ASEAN, chẳng hạn như việc mua chuộc Campuchia, chủ tịch ASEAN 2012 và chủ trì ARF. Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào thăm Phnom Penh trước khi hội nghị diễn ra với cam kết đầu tư và viện trợ hàng triệu USD. Điều này đủ để thuyết phục Campuchia hạn chế thảo luận về các vấn để biển nhạy cảm, những vấn đề mà có thể làm nổi rõ sự cứng rắn của Trung Quốc. Không thể nhất trí về ngôn từ liên quan đến vấn đề Biển Đông ở ARF, ASEAN lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm không thể đưa ra một tuyên bố chung.
Cuối cùng, không phải tất cả các kế hoạch trên đều diễn ra hoàn hảo, nhưng kết hợp lại, các kế hoạch này làm nên thắng lợi của Trung Quốc ở Bãi đá Scarborough. Trung Quốc sở hữu sức mạnh biển vượt trội so với Philippines và thể hiện quyết tâm khó bì. Bắc Kinh còn cô lập Philippines và bảo đảm rằng ASEAN không thể và không sẵn sàng giải cứu nước này. Trong khi đó, Bắc Kinh cố gắng cách ly Washington bằng việc dựa vào các tàu hải quân dân sự và đặt vấn đề Biển Đông vào đại cục quan hệ Mỹ - Trung.
Việc Trung Quốc đã tiến hành tất cả các động thái trên một cách cố ý và có bài bản chiến lược hay không không còn quan trọng nữa. Tác động đều như nhau và bài học rút ra từ đó là hết sức rõ ràng. Mặc dù chưa thể biết được chính xác diễn biến tương lai sự cứng rắn của Trung Quốc (ngay cả đối với Bắc Kinh), nhưng Trung Quốc đã tìm cách sao chép các khía cạnh của mô hình này để chống lại Nhật Bản, Malaysia, Philippines và Việt Nam.
 Có những người Mỹ không xem sự cứng rắn của Trung Quốc là một tín hiệu cảnh báo thực sự. Từ góc nhìn của họ, việc giữ thái độ hòa hoãn với Trung Quốc vẫn còn hơn liều lĩnh gây chiến chỉ vì “một nắm đảo đá”. Nhưng các quan chức Mỹ có lẽ cần suy nghĩ nghiêm túc rằng liệu họ có sẵn sàng chấp nhận một trật tự khu vực ở Châu Á trong đó kẻ mạnh là kẻ chiến thắng không.
Suy tính cẩn thận các sự kiện ở bãi đá Scarborouh, Mỹ nên tăng cường ổn định khu vực theo ba hướng hành động dưới đây, đối với đồng minh và đối tác của Mỹ, đối với khu vực nói chung, và tất nhiên với cả Trung Quốc.
Nhiệm vụ đầu tiên của Mỹ là giúp xây dựng năng lực của các quốc gia trong khu vực để ngăn chặn và đối phó với năng lực biển của Trung Quốc. Điều này không có nghĩa là khởi động việc chạy đua vũ trang hay đặt ra các mục tiêu không thực tế như cố gắng chạy đua với lợi thế tiềm lực khổng lồ của Trung Quốc. Thay vào đó, sự hỗ trợ của Mỹ nên tập trung vào tăng cường năng lực chấp pháp biển, bao gồm tình báo và chia sẻ hiểu biết chung về biển, như vậy các nước mới có thể tự tin hơn và có khả năng giám sát vùng biển của họ. Các thông tin có sẵn và được chia sẻ rộng rãi hơn có thể có tác dụng ngăn chặn với những ai muốn đi ngược lại để kiểm chứng giới hạn của các hành vi được chấp nhận.
Trong dài hạn, Mỹ có thể giúp các nước trong khu vực phát triển năng lực bất đối xứng để ngăn chặn xung đột cường độ cao. Trung Quốc đang theo đuổi chiến lược “chống tiếp cận/ phong tỏa khu vực” để thách thức năng lực triển khai quân của quân đội Mỹ ở Đông Á. Các cường quốc yếu hơn có thể khiến Bắc Kinh phải thận trọng hơn bằng việc áp dụng chiến lược tương tự để thuyết phục Trung Quốc giảm sử dụng vũ lực.
Thứ hai, Mỹ có thể củng cố hợp tác đa phương và hạn chế khả năng chia rẽ các quốc gia của Trung Quốc. Washington có thể đóng góp vào môi trường an ninh ngày càng được kết nối bằng việc hỗ trợ các mối quan hệ an ninh song phương và đa phương đang nở rộ ở Châu Á, ngày càng phát triển giữa các quốc gia trong khu vực, bao gồm Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Hàn Quốc và Việt Nam.
Quan trọng hơn là Mỹ cần tiếp tục là người ủng hộ đi đầu của ASEAN và các thể chế do ASEAN làm trung tâm. Sự tham gia của các cường quốc bên ngoài, trong các cơ chế như EAS và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng, đã làm gia tăng sự gắn kết và mục tiêu của ASEAN thông qua việc cung cấp những bổ sung thiết yếu về tính chính danh và năng lực của tổ chức này.
Hơn thế, xây dựng thói quen hợp tác đa phương và phát triển các cơ chế giải quyết tranh chấp thể chế hóa theo con đường ngoại giao là cần thiết để cung cấp các biện pháp hòa bình cho việc quản lý và giải quyết khủng hoảng, không sử dụng con đường quân sự và các hình thức vũ lực khác. Các quan chức của Mỹ cần phải cam kết can dự ở nhịp độ cao vào các nghị trình ở Châu Á, và giữ vững cam kết này ngay cả khi khủng hoảng quốc tế nổi lên ở những nơi khác.
Hỗ trợ việc tuân thủ luật quốc tế cũng hết sức cần thiết. Philippines cũng đã đệ trình lên Tòa án quốc tế về Luật Biển để phân xử hàng loạt các bất đồng với Trung Quốc ở Biển Đông. Mỹ cũng nên đứng đằng sau tiến trình này và - trước khi có phán quyết - nên kêu gọi Trung Quốc tuân theo các quyết định của tòa và thúc đẩy các đồng minh và đối tác bao gồm Úc, EU, Ấn Độ, Indonesia và Singapore làm điều tương tự. Phải thừa nhận là việc Thượng viện Mỹ không sẵn sàng phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển đã làm cho điều này khó khăn hơn, tổn hại đến lợi ích quốc gia của Mỹ.
Song song với việc tiếp tục ủng hộ đàm phán Trung Quốc - ASEAN về Bộ Quy tắc Ứng xử, Mỹ cũng cần khuyến khích việc ổn định các cơ chế xây dựng lòng tin, như đường dây nóng giữa thủ đô các nước tranh chấp và các sáng kiến an toàn hàng hải khác, như các thỏa thuận về các vụ va chạm trên biển, có thể áp dụng trong tương lai gần. Trong các cuộc khủng hoảng trong tương lai, ngoại giao Mỹ có thể ưu tiên giúp đỡ các đồng minh và đối tác phát triển và duy trì các kênh liên lạc mở với Trung Quốc, hơn là nắm giữ vai trò hòa giải.
Cuối cùng, Mỹ cũng cân nhắc những biện pháp khác để gây ảnh hưởng lên quá trình hoạch định chính sách của Trung Quốc. Đến nay, ngoại giao cá nhân và lên án công khai mạnh mẽ đã cho thấy là không đủ sức nặng. Và cả việc Mỹ thúc giục Trung Quốc hành xử như một cường quốc có trách nhiệm cũng vậy.
Vấn đề là Trung Quốc không có vẻ sẽ từ bỏ các yêu sách chủ quyền cố chấp ở Biển Đông và Biển Hoa Đông chừng nào Bắc Kinh tin rằng nước này có thể làm như thế với rủi ro bất lợi thấp nhất. Và cuối cùng, các quan chức Mỹ sẽ phải cân nhắc khi nào và làm thế nào để áp đặt cái giá phải trả lên Trung Quốc nếu nước này còn tiếp tục cố gắng thay đổi nguyên trạng lãnh thổ ở Châu Á.
Washington còn nhiều không gian để cư xử cứng rắn hơn những gì mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ nghĩ. Dàn lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đang phải đối mặt với các thách thức kinh tế, môi trường, chính trị và xã hội trong nước nên hiểu rõ tầm quan trọng của việc duy trì quan hệ ổn định với Mỹ.
Trong bối cảnh tiếp tục can dự mạnh mẽ với Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ cũng nên tìm ra - và thể hiện ý chí sẵn sàng sử dụng - một loạt các biện pháp khiến Bắc Kinh phải trả giá trong giới hạn an ninh biển nếu như sự cứng rắn của Trung Quốc tiếp tục diễn ra, đe dọa các đồng minh và đối tác của Mỹ, và làm giảm sự ổn định của khu vực.
Các biện pháp chính sách tiềm năng cho cái giá phải trả của Trung Quốc bao gồm tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực, mở rộng phạm vi bảo đảm an ninh của Mỹ với các đồng minh và đối tác, mở rộng các loại hình sức mạnh quân sự mà Mỹ sẵn sàng chuyển giao, thay đổi quan điểm trung lập của Mỹ đối với một số vụ tranh chấp lãnh thổ cụ thể, đưa ra sự hỗ trợ pháp lý đối với các nước sẵn sàng tham gia vào thủ tục trọng tài quốc tế và coi các tàu biển của Trung Quốc như là các tàu hải quân tham chiến nếu các tàu này có các hành động sử dụng vũ lực hiếu chiến.
Không nên coi thường bất kỳ lựa chọn nào trong số trên, nhưng việc khẳng định các lợi ích quốc gia của Mỹ ở Biển Đông sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu nếu Mỹ không thể trả lời rõ ràng một câu hỏi vặn vẹo hết sức đơn giản: “Thế lợi ích quốc gia của Mỹ thực sự là gì?”
Bãi đá Scarborough là một chiến thắng chiến thuật đối với Trung Quốc, nhưng cũng đồng thời hé lộ công thức của Bắc Kinh nhằm lợi dụng các quốc gia yếu hơn, chia rẽ các cơ chế đa phương và gạt Mỹ sang bên lề. Để ngăn chặn khuynh hướng gia tăng sự cứng rắn của Trung Quốc ở các vùng biển gần, Washington nên tập trung vào việc xây dựng năng lực cho các đối tác, củng cố các thể chế ở khu vực và cuối cùng làm cho Bắc Kinh thấy rõ nước này sẽ phải trả giá khi áp dụng “Mô hình Scarborough” trong tương lai.
Tác giả Ely Ratner là Phó Giám đốc Chương trình An ninh Châu Á - Thái Bình Dương tại Trung tâm An ninh Mỹ mới. Bài viết được đăng lần đầu tiên trên trang The National Interest.
Người dịch: Thùy Anh
Hiệu đính: Minh Ngọc
 http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-nuoc-ngoai/3818-hoc-duoc-gi-tu-vu-bai-da-scarborough

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Giả định xung đột Mỹ - Trung: Washington "diệt" Bắc Kinh thế nào?

(Kienthuc.net.vn) - Nếu xảy ra một cuộc xung đột Mỹ - Trung, Washington sẽ sử dụng chiêu bài gì?
Thời gian gần đây, người ta nói nhiều về sự tăng cường mạnh mẽ khả năng tác chiến của quân đội Trung Quốc nhằm đối phó với các lực lượng của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương thông qua chiến lược chống tiếp cận/chống xâm nhập hay còn gọi là chương trình A2/AD. Chống tiếp cận/chống xâm nhập khu vực có nghĩa là lực lượng pháo binh có căn cứ ở ven biển, không quân và hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) có thể đẩy lùi một cuộc dàn quân nhanh của các lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột.
Chính vì thế, điều này được xem là thách thức mà các nhà quân sự của Bộ Quốc phòng Mỹ đang xem xét và xây dựng một chiến lược quân sự mới có tên Học thuyết Thủy – Không tác chiến (AirSea Battle - ASB), mà trong đó nổi lên là ý tưởng về bao vây phong tỏa về đường biển với Trung Quốc.
Chiến lược phong tỏa Trung Quốc
Bằng cách này, Mỹ sẽ tận dụng sự phụ thuộc nặng nề của Trung Quốc vào ngoại thương, đặc biệt là dầu mỏ, để làm suy yếu kinh tế Trung Quốc. Một cuộc cấm vận có thể trở thành một công cụ ghê gớm của sức mạnh quân sự Mỹ góp phần đối phỏ lại với vũ khí A2/AD đáng gờm của Trung Quốc và giúp học thuyết ASB triển khai dễ dàng hơn.
 
Trong bối cảnh xảy ra một cuộc chiến tranh Trung-Mỹ, nước Mỹ sẽ biến sức mạnh quốc gia lớn nhất của Trung Quốc là mô hình kinh tế định hướng xuất khẩu, tăng trưởng bùng nổ thành một nhược điểm lớn về quân sự. Để làm như vậy, Mỹ phải thực hiện một cuộc phong tỏa đường biển đối với Trung Quốc nhằm bóp nghẹt phần lớn hoạt động thương mại hàng hải của Trung Quốc. Trong những các điều kiện thuận lợi, Mỹ có thể giành chiến thắng bằng cách làm suy yếu nền kinh tế để buộc Bắc Kinh ngồi vào bàn đàm phán.
Phong tỏa gần và xa
Về mặt tác chiến, mấu chốt của các cuộc bao vây phong tỏa là khoảng cách tới bờ biển của quốc gia bị phong tỏa và chia làm hai hình thức: gần và xa. 
Một cuộc bao vây phong tỏa gần thường được thực hiện bằng cách lập một hàng rào của các tàu chiến ở ngoài khơi bờ biển đối phương để lục soát tất cả các tàu buôn đến hoặc đi và ngăn chặn các tàu chở hàng lậu. Tuy nhiên, trong hơn một thế kỷ qua, các cuộc phong tỏa gần ngày càng trở nên bất lợi do các nước tham chiến đã phát triển được công nghệ bắn phá từ bờ biển. Đối phó với tình trạng này, các cường quốc tiến hành phong tỏa lại chuyển sang hình thức phong tỏa từ xa. 
Một cuộc phong tỏa từ xa giúp tránh được các nguy cơ về quân sự gần bờ bằng cách bố trí lực lượng, phương tiện phong tỏa ở xa, nhưng vẫn ngăn chặn được các tuyến đường biển của đối phương và do đó, nó triệt phá được hoạt động thương mại của đối phương giống như phong tỏa gần.
 Các tuyến đường biển huyết mạch của Trung Quốc
Tuy nhiên, các hình thức phong tỏa này lại có những hạn chế riêng. Một mặt, một cuộc phong tỏa gần thông thường sẽ cực kỳ khó khăn vì Mỹ muốn giảm thiểu các nguy cơ quân sự cho các tàu chiến Mỹ. Một khi tiến gần vào lãnh thổ Trung Quốc, các lực lượng Mỹ sẽ đặt mình vào tầm uy hiếp của các hệ thống A2/AD của Trung Quốc và phải chịu những tổn thất nặng nề. 
Để tránh mối đe dọa từ hệ thống A2/AD của Trung Quốc, quân đội Mỹ phải tiến hành cuộc phong tỏa gần bằng các tàu ngầm, lực lượng không quân tầm xa và thủy lôi, nhưng cách này lại không có khả năng phân biệt được đâu là các hoạt động thương mại trung lập và và hoạt động thương mại của kẻ thù.
Mặt khác, các cuộc phong tỏa từ xa thông thường cũng bị mất hiệu quả bởi sự phát triển của thương mại hiện đại. Ngày nay, nguyên liệu thô và hàng hóa chở trên tàu có thể được bán qua và bán lại nhiều lần trong một hành trình, vì thế không thể biết quyền sở hữu và điểm đến cuối cùng của hàng hóa trên tàu cho đến khi tàu cập cảng. Mặc dù Mỹ có thể thiết lập một cuộc phong tỏa từ xa để ngăn chặn tất cả các tàu thuộc sở hữu Trung Quốc hoặc mang cờ Trung Quốc, thì Bắc Kinh vẫn có thể đơn giản mua hàng hóa của các tàu chở hàng trung lập sau khi chúng đã đi qua vòng đai phong tỏa, làm thất bại hoàn toàn mục đích của cuộc phong tỏa.
Giải pháp: Phong tỏa hồng tâm
Để khắc phục những nhược điểm này, Mỹ sẽ tận dụng những ưu điểm của hai biện pháp trên và thực hiện một chương trình phong tỏa “hai vành đai” như hai vòng tròn đồng tâm bao quanh bờ biển Trung Quốc.
Trung tâm của phong tỏa hai vành đai sẽ là “vành đai bên trong” thực thi như một dạng phong tỏa gần chủ yếu nhằm vào việc ngăn chặn các tàu biển đi đến Trung Quốc mà không cần biết mục đích gì. Vành đai này sẽ tạo ra một khu vực cấm vận chuyển thương mại và được thực thi bởi một chính sách “bắn chìm nếu trông thấy” thông qua việc sử dụng các tàu ngầm tấn công, không quân tầm xa và thủy lôi.
Vành đai ngoài sẽ được thiết lập ở ngoại vi các vùng biển gần Trung Quốc, tức là bên ngoài tầm hoạt động của hệ thống A2/AD của Trung Quốc và sẽ được tập trung quanh các hành lang quan trọng trong khu vực Đông Nam Á và Đông Á, trong đó có eo biển Malacca.
Điều kiện chiến lược
Mặc dù vậy muốn thực hiện hiệu quả chiến lược phong tỏa thương mại Trung Quốc trên đường biển, Mỹ sẽ phải phụ thuộc lớn vào sự hợp tác với các bên thứ ba trong khu vực. Nói đúng hơn, sự phong tỏa kinh tế hàng hải Trung Quốc của Mỹ sẽ vô ích nếu Bắc Kinh cầu được trợ giúp của các nước láng giềng.
Trong nhiều nước láng giềng, có ba nước đóng vai trò thiết yếu là Ấn Độ, Nhật Bản và Nga. Nhật và Ấn Độ sẽ là những nhân tố quan trọng trong việc giúp Mỹ cắt đứt các tuyến đường thương mại của Trung Quốc ở phía nam, phía đông và gây sức ép với các nước láng giềng nhỏ khác cùng làm như vậy. Nếu không có sự hợp tác của hai cường quốc này, nhiệm vụ của Mỹ sẽ trở nên “bất khả thi”.
Nước cuối cùng là Nga sẽ đóng vai trò then chốt quyết định thành bại của kế hoạch phong tỏa của Mỹ, làm cán cân lợi ích nghiêng về Bắc Kinh hay Washington. Một mặt, với kho vũ khí hạt nhân và các lực lượng quân sự của mình, Nga có thể ngăn cản bất kỳ mưu toan ép buộc quân sự nghiêm trọng nào của Mỹ. Ở cấp độ chính trị, Moscow có những ảnh hưởng lớn tới quyết định của các quốc gia láng giềng Trung Á của Trung Quốc và thuyết phục họ từ chối đóng vai trò là các quốc gia quá cảnh cho hàng Trung Quốc. Nga cũng có thể đảm bảo rằng sẽ không còn cung cấp dầu cho Trung Quốc nữa. 
Để thực hiện được một cuộc phong tỏa có hiệu quả đối với Trung Quốc, Mỹ cần xây dựng một “liên minh tối thiểu” với Ấn Độ, Nhật Bản và Nga. Nếu cả ba quốc gia cùng chung sức thực hiện cuộc phong tỏa cùng Mỹ, thì Trung Quốc sẽ bị đẩy vào vòng kiềm tỏa bóp nghẹt cả về kinh tế và chính trị.
Liệu có thành đòn đau?
Trước hết phải thừa nhận rằng, ngay cả chiến lược phong tỏa của Mỹ có thành công cũng sẽ không thể ngăn chặn hoàn toàn các hoạt động thương mại của Trung Quốc, bởi vì Trung Quốc vẫn sẽ có khả năng mua được các mặt hàng và tài nguyên thiết yếu nhờ những quy luật cung và cầu. Lệnh cấm vận trong khu vực mà Mỹ thiết lập càng hiệu quả, thì lợi nhuận bán hàng nhập khẩu vào Trung Quốc càng cao. Ngay cả khi tất cả các nước láng giềng của Trung Quốc đồng tình cấm vận nước này, thì Mỹ vẫn sẽ phải bó tay với nạn buôn lậu tràn lan ở cấp độ phi nhà nước.
 
Một cuộc phong tỏa cũng sẽ không thể trực tiếp làm suy yếu quân đội Trung Quốc. Ví dụ, Trung Quốc có thể có các nguồn dự phòng và kho dự trữ của mình, cùng với sản xuất trong nước để cung cấp nhiên liệu cho bộ máy quân sự của mình trong suốt cuộc xung đột.
Giá trị thực của một cuộc phong tỏa sẽ nằm ở tổn thất tài chính mà Bắc Kinh phải gánh chịu nặng nề ra sao?  Nền kinh tế Trung Quốc sẽ rơi vào suy sụp nếu đánh vào ba yếu huyệt: sự phụ thuộc kép của Trung Quốc vào cả nhập khẩu nguyên liệu trung gian và nhập khẩu nguyên liệu thô và mức độ sáng tạo nội địa thấp.
Như vậy, nếu muốn tiến hành một cuộc phong tỏa đối với Trung Quốc thì Mỹ và các đồng minh sẽ phải cân nhắc cẩn thận những ảnh hưởng chiến lược tới lợi ích đôi bên. Mặc dù vậy, các nhà chiến lược của Mỹ vẫn hy vọng, với sự phụ thuộc về thương mại hàng hải như của Bắc Kinh, chiến lược phong tỏa sẽ góp phần lớn tiêu hao sinh lực của nền kinh tế Trung Quốc dẫn tới sự thất bại của Bắc Kinh.
Bình Nguyên (theo The National Interest)
http://kienthuc.net.vn/nong-sau/gia-dinh-xung-dot-my-trung-washington-diet-bac-kinh-the-nao-280570.html