Thứ Năm, 23 tháng 7, 2020

Vì sao Mỹ có thể tạo ra siêu vũ khí thời tiết?

Một khi kiểm soát được tầng điện ly, Washington có thể tạo ra những trận siêu bão hay siêu lốc xoáy đủ sức “xóa sổ” một quốc gia mà không cần đến một viên đạn.
Natural News mới đây tiết lộ một bí mật về việc Mỹ đang âm thầm phát triển một chương trình vũ khí mang tên HAARP (High Frequency Active Auroral Research Program, tạm dịch chương trình nghiên cứu hoạt động cực quang cao tần). Đây là một chương trình nghiên cứu khoa học tối mật của Mỹ. Hải quân, Không quân Mỹ, Cơ quan nghiên cứu các dự án quốc phòng tiên tiến DARPA và Đại học Alaska đồng tài trợ chương trình này.
Mục đích của HAARP
Chương trình HAARP bắt đầu được triển khai vào năm 1993. Nhà thầu chính là BAE Systems Advanced Technologies của Anh. Trang web của chương trình viết rõ: “HAARP là một nỗ lực lớn của khoa học nhằm nghiên cứu tính chất, hành vi của tầng điện ly, đặc biệt chú trọng vào khả năng hiểu và sử dụng nó để tăng cường thông tin liên lạc và các hệ thống giám sát trên toàn cầu cho cả mục đích quốc phòng và dân sự”.
Cơ sở nghiên cứu của dự án HAARP nằm ở một khu vực hẻo lánh ở bang Alaska. Nó bao gồm 132 máy phát tần số cao tần. Ảnh: theforbiddenknowledge.
Mặc dù là chương trình nghiên cứu khoa học nhưng HAARP được liệt vào danh sách “an ninh quốc gia” và hoàn toàn bí mật đối với giới khoa học trong và ngoài nước. Đây là một phần trong kế hoạch phòng thủ “Star War” của Mỹ được triển khai trong những năm 1990.
HAARP sẽ sử dụng các máy phát tín hiệu điện từ cao tần vào tầng điện ly sau đó ghi nhận những thay đổi do quá trình tác động này tạo ra. Tín hiệu sẽ được bắn vào tầng điện ly theo 3 cấp độ khác nhau: tần số cực thấp ULF, tần số cao HF và tần số siêu cao VHF.
Các nhà khoa học nhận thấy rằng, khi bắn các tín hiệu điện từ tần số siêu cao vào tầng điện ly, các nguyên tử ở đây bị ion hóa một cách nhanh chóng. Tại thời điểm này, hiện tượng “sưởi ấm tầng điện ly” xảy ra và làm cho tính chất vật lý của nó bắt đầu thay đổi. Điều này kéo theo sự thay đổi của vùng không khí bên dưới vị trí bị kích thích.
Nhờ những thiết bị công nghệ tiên tiến, các nhà khoa học có thể ghi nhận những thay đổi rất nhỏ ở tầng điện ly khi bị kích thích liên tục hoặc ngắt quảng ở những tần số khác nhau.
Tại sao HAARP có thể tạo ra siêu vũ khí?
Tầng điện ly nằm cách mặt đất từ 70-300 km. Tầng này là quá trình chuyển đổi giữa khí quyển (không khí trên mặt đất) và từ quyển (từ trường của trái đất). Các nhà khoa học trên thế giới nhận thấy, những thay đổi thời tiết bên dưới mặt đất thường bị chi phối bởi những thay đổi ở tầng điện ly.
Chương trình HAARP đang nghiên cứu những thay đổi ở tầng điện ly khi bị kích thích bằng tín hiệu điện từ tần số cao. Ảnh minh họa: Montalk.
Cấu trúc của tầng điện ly bao gồm các nguyên tử di chuyển một cách tự do. Một số kết hợp với nhau để tạo nên phân tử khí oxy, nitor sau đó di chuyển xuống bầu khí quyển. Một số khác di chuyển lên cao hơn chạm vào từ quyển và bị dội lại.
Những thay đổi ở tầng điện ly chi phối quá trình thay đổi thời tiết ở trên mặt đất. Tính chất vật lý của tầng điện ly thay đổi liên tục theo từng giờ từng phút, từng ngày và theo từng mùa khác nhau. Tính chất này càng trở nên phức tạp hơn khi ở gần điểm cực từ của trái đất.
Như vậy, nếu có thể hiểu và kiểm soát được những thay đổi của tầng điện ly, con người hoàn toàn có thể chi phối quá trình thay đổi thời tiết trên mặt đất.
“Tội đồ” của nước Mỹ, Edward Snowden đã tiết lộ trên tờ Chronicle rằng, HAARP chính là một chương trình tạo ra siêu vũ khí của Mỹ, chính nhờ cơ chế kiểm soát tầng điện ly.
Những thay đổi được các nhà khoa học ghi nhận lại khi HAARP hoạt động (ở phía trên) và tốc độ gió của bão Ophelia (ở dưới). Ảnh: Apollo.
Nhận định trên trở nên có cơ sở khi Tiến sĩ khoa học Bernard Eastlund, một trong những thành viên gắn liền với sự hình thành của HAARP tiết lộ rằng, ông đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1987 cho công trình nghiên cứu “Phương pháp và thiết bị để làm thay đổi một vùng khí quyển thông qua tầng điện ly”.
Tiết lộ của ông đã cho thấy rằng, tuyên bố HAARP là một chương trình nghiên cứu khoa học đơn thuần chỉ là một trò bịp của Mỹ. Cơ sở nghiên cứu của HAARP được xây dựng ở một khu vực hẻo lánh ở bang Alaska cho thấy Mỹ đang cố gắng che đậy mục đích thực sự của chương trình này.
Tiến sĩ Michel Chossudovsky và tiến sĩ Nick Begich thuộc Đại học Ottawa và Đại học Alaska cho rằng, việc kích thích tầng điện ly có thể gây ra những tác động lớn thậm chí là tai hại. Các nhà khoa học còn đưa ra những bằng chứng cho thấy rối loạn ở tầng điện ly có thể gây nên những trận động đất hay sóng thần.
Đồng quan điểm trên, Tiến sĩ vật lý Bernard Eastlund cho rằng: “Chương trình HAARP là một lò vi sóng lớn nhất từng được chế tạo. Người Mỹ đang cố gắng tác động vào tầng điện ly nhằm tạo ra sự thay đổi thời tiết nhằm làm gián đoạn thông tin liên lạc và hoạt động của radar trên toàn cầu”.
Tương lai con người có khả năng điều khiển thời tiết có thể là một tín hiệu tích cực đối với biến đổi khí hậu, nhưng nếu con người biến nó thành vũ khí thì thảm họa sẽ ập đến. Ảnh minh họa: Boing Boing.
Các nhà nghiên cứu khoa học độc lập trên thế giới đã nhiều lần đặt câu hỏi về sự liên quan của HAARP với những thảm họa gần đây của nhân loại. Một tuần trước khi xảy ra trận siêu bão Katrina, các nhà khoa học đã ghi nhận được những thay đổi bất thường của không khí mà có thể do thay đổi ở tầng điện ly tạo ra.
Năm 2005, bão Ophelia di chuyển một cách bất thường và đây là cơn bão hoạt động lâu nhất từng được ghi nhận. Hệ thống dự báo thời tiết tối tân của Mỹ đã không thể dự đoán đường đi của cơn bão này. Nó di chuyển giống như có ai đó đang điều khiển chứ không phải đi theo quy luật của tự nhiên.
Một số nhà nghiên cứu khoa học khác cũng đặt câu hỏi về “sự nhúng tay” của HAARP vào trận động đất ở Haiti, sóng thần ở Indonesia.
Mặc dù sự liên quan của HAARP đến các thảm họa nói trên vẫn chỉ là giả thuyết và chưa có bằng chứng cụ thể nhưng tiềm năng để tạo ra siêu vũ khí thời tiết bằng các tác động vào tầng điện ly hoàn toàn có cơ sở khoa học.
Các hiện tượng tự nhiên đều được vận hành theo một quy luật nhất định. Đó chính là cơ sở để các nhà khoa học khám phá và nghiên cứu nó. Việc con người có thể kiểm soát được thời tiết sẽ góp phần giảm nhẹ hậu quả do biến đổi khí hậu tạo ra. Nhưng nếu con người biến nó thành một thứ vũ khí thì đó sẽ là thảm họa.

CHỦ TRƯƠNG QUÂN ĐỘI THAM GIA XÂY DỰNG KINH TẾ GẮN VỚI QUỐC PHÒNG - AN NINH

Trong hình ảnh có thể có: 16 người


Gần đây, trên các trang mạng xã hội xuất hiện một loạt bài viết có nội dung chống lại việc Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động sản xuất, xây dựng kinh tế. Những người này viện dẫn việc quân đội nước này nước nọ là quân đội có tính chuyên nghiệp cao, được nhà nước chu cấp đầy đủ, không phải tham gia vào các hoạt động mà theo họ nói là “quân đội làm kinh tế” như Quân đội Nhân dân Việt Nam. Những người này còn lớn tiếng hô hào giải thể các doanh nghiệp quốc phòng, đòi sục vào những vấn đề quốc phòng kết hợp với kinh tế, thậm chí đòi công khai cả những bí mật quân sự.
Những người đó muốn gì ? Mục đích của họ có thật sự là muốn xây dựng một quân đội vững mạnh, tiến lê chính quy hiện đại, đủ sức bảo về độc lập tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc không ? Họ có thật sự muốn xây dựng một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, vì Tổ quốc mà chiến đấu không ? Chúng ta hãy thử tìm hiểu vấn đề kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng trên thế giới và ở Việt Nam ra sao.
1- Tất cả các nước có nền công nghiệp phát triển trên thế giới đều gắn kinh tế với quốc phòng – an ninh.
Ngay từ Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước lớn của cả phe Trục (Đức, Ý Nhật) và Đồng Minh (Liên Xô, Mỹ, Anh) đều có một nền sản xuất gắn chặt kinh tế với quóc phòng. Đơn cử một doanh nghiệp sản xuất máy kéo lớn nhất nhì ở Liên Xô thời đó là nhà máy Cheliabinsk. Thời bình, doanh nghiệp này sản xuất các loại máy kéo bánh hơi và bánh xích, máy gặt đập liên hợp và các máy động lực khác cung cấp cho nền sản xuất nông nghiệp. Khi có chiến tranh, nhà máy này chuyển sang sản xuất các loại xe tăng nổi tiếng thời đó là KV-1, KV-2, T-34 và sau này là IS-1, IS-2. Khi cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại kết thúc thắng lợi, tổ hợp công nghiệp chế tạo Cheiabinsk lại làm ra những máy kéo, máy gặt đập liên hợp, máy động lực trong khi vẫn cung cấp đều đặn những xe tăng kiểu mới nhất, hiện đại nhất cho quân đội. Không chỉ riêng Cheliabinsk mà các tổ hợp công nghiệp chế tạo ô tô của Liên Xô cũng là các doanh nghiệp vừa chế tạo phương tiện vận tải cho dân sự, vừa chế tạo phương tiện vận tải cho quân sự như các tổ hợp công nghiệp chế tạo máy Minsk, Kharkov, Gorky, Likhachov, Lvov .v.v…
Cũng như vậy, người Nga hiện nay vẫn duy trì các doanh nghiệp quốc phòng cỡ lớn nhất nhì thế giới như các tổ hợp hàng không – vũ trụ Yakovlev (OKB-115), Ilyushin (OKB-29), Sukhoi (OKB-51), Klimov, Omsk-Motors (OKB-20), Tupolev (OKB-155), Myasishchev (OKB-23), MKB Raduga (OKB155-2), Lavochkin (OKB-301), Kamov (OKB-938), Moniya (OKB-4), Novator (OKB-8), Shvetsov (OKB-19), Kuznetsov (OKB-119), Turmasky (OKB-300); các tổ hợp hàng hải quân sự Sevmash, Krasnoye Sormovo, Zelenodolsk, Vladivosstok, Yaroslav, Khabarovsk; các tổ hợp sản xuất vũ khí Uraltransmash, Izmash Tula, Tula Arsenal, Izvetsk, Tulsky Oruzheiny Zavod v.v… Tương tự như Nga, ở Mỹ có các tổ hợp hàng không - vũ trụ như McDonnell Douglas, General Dynamics, Lockheed Martin, Chrysler Defence, Boeing; các tổ hợp đóng tàu quân sự Newport News Shipbuilding, Huntington Ingalls, Northrop Grumman, các tổ hợp sản xuất súng đạn Arma Lite, Colt Defense, FN Herstal, H & R Firearms .v.v… Trung Quốc có các tổ hợp công nghiệp hàng không quân sự Tây An, Thẩm Dương, Nam Xương, Thành Đô; Tập đoàn hàng không vũ trụ CMSEO, Tập đoàn vũ khí Norinco, các tổ hợp đóng tàu quân sự Wuzhang, Qiuxi, Hudong, Jiangnan, Liêu Ninh. .v.v… Các nước Đức, Anh, Pháp, Nhật Bản cũng đều có các tổ hợp công nghiệp quốc phòng. Các tổ hợp này, ngoài việc sản xuất vũ khí, khí tài, trang thiết bị quân sự đều tham gia vào sản xuất các mặt hàng phục vụ quốc kế dân sinh.
Có một thực tế hiển nhiên là trong thời bình, các cơ sở công nghiệp quốc phòng chỉ hoạt động từ 20% đến 30% công suất danh định, đủ để cung cấp cho các hoạt động huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu ở cấp thường xuyên. Phần công suất còn lại là dự trữ chiến lược để phòng khi chiến tranh xảy ra. Nếu để đến khi chiến tranh xảy ra rồi mới đầu tư để nâng công suất lên mức đủ đảm bảo cho các hoạt động chiến đấu ở cường độ cao thì khi đó đã quá muộn. Tuy nhiên, nếu để phần công suất dự trữ này không hoạt động thì riêng việc bảo trì, bảo dưỡng chúng đã tiêu tốn một khoản tài chính không nhỏ. Vì vậy, nhiều nước vẫn tận dụng một phần công suất dự trữ chiến lược ấy để sản xuất các mặt hàng dân dụng, vừa phục vụ cho quốc kế dân sinh, vừa tự túc kinh phí bảo trì, bảo dưỡng máy móc, trang thiết bị.
2- Quân đội tham gia sản xuất và xây dựng nền kinh tế ở Việt Nam trong truyền thống và hiện đại.
Quân đội Việt Nam có truyền thống tham gia sản xuất và xây dựng nền kinh tế của quốc gia từ thời xa xưa. Từ thế kỷ thứ X, triều đại Nhà Đinh đã thực thi chính sách “NGỤ BINH Ư NÔNG”, nghĩa là “gửi binh ở nông”, gửi quân vào nông nghiệp, cho binh sĩ lao động, sản xuất tại địa phương trong một khoảng thời gian xác định. Chính sách này được phát triển với quy mô lớn trong các triều đại Nhà Lý, Nhà Trần. Sang đến thời kỳ Nhà Hậu Lê, chính sách “ngụ binh ư nông” còn được áp dụng cả với cấm quân bảo vệ kinh thành Thăng Long.
Từ lịch sử xa xưa đến nay, nhu cầu bảo vệ đất nước cần một lực lượng quân đội hùng hậu. Tuy nhiên, nhu cầu nhân lực để sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế cũng rất lớn. Vì vậy việc đưa quân đội về địa phương luân phiên cày cấy giúp lực lượng này tự túc được về lương thực, giảm bớt gánh nặng về lương thực nuôi quân. Ngụ binh ư nông là việc liên kết hài hòa giữa việc quân sự và nông nghiệp, giữa kinh tế và quân sự, chuyển hóa nhanh từ thời bình và sang thời chiến khi cần. Nhờ chính sách này, đất nước Việt Nam có được lực lượng quân đội hùng mạnh, đông đảo trong khi sản xuất nông nghiệp vẫn được duy trì và phát triển.
Ngay từ buổi đầu giành được độc lập sau gần 1.000 năm Bắc thuộc, chính sách “ngụ binh ư nông” của Nhà Tiền Lê đã kết hợp rất tốt hai mục tiêu quốc phòng và kinh tế, đã đưa lại hiệu lực quốc phòng mạnh mẽ. Quân đội Nhà Tiền Lê đã chống Tống, phạt Chiêm thắng lợi. Khi đất nước đã ra khỏi tình trạng chiến tranh sau năm 982, thì các vua Tiền Lê – từ Lê Hoàn đến Long Đĩnh, đều huy động quân sĩ cùng nhân dân tham gia một số công việc kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, đặc biệt là công việc bảo đảm và phát triển giao thông vận tải, như đóng thuyền, đào sông, đắp đường quốc lộ, có năm huy động đến 5.000 lính của Châu Hoan (Nghệ An – Hà Tĩnh), đi sửa sang đường đất từ Nghệ An – Hà Tĩnh đến giáp đèo Ngang, mở một thủy lộ quan trọng cả về kinh tế và quốc phòng ở Bắc Trung Bộ. Đến nay, dấu tích Kênh Nhà Lê vẫn còn tại các tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Với tổng chiều dài lên đến 500 km, được quân và dân Đại Việt xây dựng từ năm 983 (thời Tiền Lê) đến cuối thế kỷ XV (Thời Hậu Lê), Kênh Nhà Lê là một kỳ tích và đã được Nhà nước ta hiện nay công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia (đoạn đi qua Nghệ An). Trong kháng chiến chống Mỹ, Kênh nhà Lê được coi như tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên sông, góp phần to lớn cho sự nghiệp chống ngoại xâm, thống nhất đất nước. Việc xây dựng Kênh Nhà Lê thể hiện tầm nhìn chiến lược của cho ông ta trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Chính sách “ngụ binh ư nông” là điểm sáng rất đặc sắc trong chiến lược phòng thủ quốc gia của truyền thống quân sự Việt Nam. Nó phản ánh tư duy "nông binh bất phân" (không phân biệt quân đội và nông dân). Ở đâu có dân là ở đó có quân, rất phù hợp với điều kiện xây dựng nền quốc phòng của một nước đất không rộng, người không đông, cần phải huy động tiềm lực cả nước vừa sản xuất, vừa đánh giặc. Vào thời kỳ Nhà Nguyễn, chính sách này được phát triển sang cả lĩnh vực ngư nghiệp khi nhu cầu bảo vệ chủ quyền biển đảo phát sinh. Phương châm xây dựng các đội Hoàng Sa, kiêm quản Bắc Hải của Nhà Nguyễn đáp ứng được yêu cầu “khi bình là ngư, khi biến là quân”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn giữ bản chất là một đội quân vừa đánh giặc, vừa sản xuất. Trong suốt những năm tháng chiến đấu, trên các tuyến đường mòn Hồ Chí Minh băng qua Trường Sơn có rất nhiều trại sản xuất tại các binh trạm nghỉ chân của các đoàn quân Nam tiến. Cây trồng chủ yếu tại các trại này là sắn (củ mỳ) và các loại rau xanh. Mỗi một đơn vị đi qua và nghỉ lại đều có thể nhổ sắn làm lương ăn, nhổ rau nấu canh cho bữa cơm đỡ xót ruột. Cứ nhổ bao nhiêu cây thì lại lấy hom sắn, nhánh rau trồng lại bấy nhiêu cây để các đơn vị đến sau có cái mà ăn. Ở miền Bắc, các nhà máy quốc phòng không chỉ sản xuất hàng hóa cho quân đội mà còn cung cấp nhiều mặt hang phục vụ dân sinh như chăn, màn, giày, dép .v.v…
Trong thời kỳ khó khăn 1975-1990, khi nước ta bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận về kinh tế, các nhà máy quốc phòng đã có đóng góp rất to lớn đối với nền kinh tế và đời sống dân sinh. Những ai đã sống qua thời đó đều biết đến những gói mỳ tôm do Công ty Quốc phòng 120 (Nhà máy 120 – Tổng tục Hậu cần) sản xuất mà đến nay, di duệ của những gói mỳ tôm ấy vẫn lưu hành trên thị trường với nhãn hiệu “Micoem”. Những ai đã sống qua thời đó đều biết đến những đôi dép nhựa nổi tiếng thường được gọi là “dép rọ”, một sản phẩm của Công ty Quốc phòng 32 (Nhà máy 32 – Tổng cục Hậu cần) cung cấp cho đời sống dân sinh. Trên miền Bắc, ngay từ khi đế quốc Mỹ mở các chiến dịch Sấm rền, đánh phá ác liệt, các đơn vị công binh không chỉ sát cánh cùng với thanh niên xung phong và nhân dân khôi phục lại những tuyến giao thông bị đánh phá mà còn tham gia đào đắp các công trình thủy lợi, đắp đê ngăn lũ lụt .v.v…
Những hoạt động trên đây của Quân đội Nhân dân Việt Nam thể hiện đúng đắn tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh về quân đội: “Quân đội ta là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân lao động sản xuất”. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, Quân đội Nhân dân Việt Nam có mặt trên tuyến đầu, tiêu diệt quân xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đó là đội quân chiến đấu.
Khi đất nước hòa bình, Quân đội nhân dân luôn giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân, là một trong các lực lượng nòng cốt tham gia công tác vận động quần chúng, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở. Các đơn vị quân đội đã tích cực thực hiện công tác dân vận, đi đầu trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa biên giới, hải đảo; tích cực tham gia phòng chống lụt, bão, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, giảm nhẹ tác hại của thiên tai và bảo vệ tài nguyên, môi trường… Các đơn vị trong quân đội nhân dân đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương còn nhiều khó khăn trên địa bàn đóng quân, tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp nhân dân. Đó là đội quân công tác.
Khi đất nước có hòa bình, các đơn vị quân đội tận dụng mọi tiềm năng, nguồn lực lao động, đất đai, kỹ thuật..., đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo nguồn thực phẩm bổ sung tại chỗ, góp phần giữ ổn định và cải thiện đáng kể đời sống vật chất cho bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được một số loại vũ khí, trang bị khí tài phù hợp, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại, yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế của quân đội đã sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, trở thành các tổ chức, tập đoàn kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước… Đó là đội quân sản xuất.
Tại cuộc Tọa đàm “Kết hợp kinh tế với quốc phòng vì sự phát triển đất nước và lợi ích của nhân dân” tổ chức ngày 6-7 tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Thiếu tướng Phạm Văn Huấn, Bí thư Đảng ủy, Tổng biên tập Báo Quân đội Nhân dân, Tiến sĩ, chuyên gia kinh tế Nguyễn Minh Phong, Phó vụ trưởng, Phó trưởng ban Tuyên truyền lý luận của Báo Nhân Dân đánh giá cao sự nhất quán của chủ trương quân đội tham gia sản xuất, phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng và cho rằng, đây là nhiệm vụ truyền thống của Quân đội ta, thể hiện tư tưởng chiến lược kinh tế - quốc phòng hết sức sâu sắc của dân tộc ta, đã cho thấy những hiệu quả trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ ấy xuất phát từ nhu cầu, yêu cầu của đất nước trong việc phát triển quân đội, xây dựng sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, hết sức cần thiết và cũng hết sức khách quan.
Ông Nguyễn Minh Phong phát biểu: “Thật ra tư tưởng kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng cũng không phải là điều gì khác lạ so với các nước trên thế giới. Ngay trong các công ty của Mỹ cũng kết hợp rất hài hòa các mảng quân sự và mảng dân sự”. Nói tóm lại, kết hợp kinh tế với quốc phòng là nhiệm vụ chiến lược của Quân đội Nhân dân Việt Nam vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của nhân dân.
3- Những người phản bác chủ trương quân đội tham gia sản xuất và xây dựng kinh tế muốn gì ?
Nói một cách đơn giản như nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan thì đừng vì mấy chuyện sân golf trong sân bay Tân Sơn Nhất hay sân Bay Gia Lâm mà hiểu sai vấn đề. Trong việc làm kinh tế của quân đội, nhiệm vụ sản xuất là chính, còn nhiệm vụ kinh doanh xếp hàng thứ hai. Đặc biệt là quân đội gánh vác những nhiệm vụ chính trị xã hội mà không ai có thể làm được. Đơn cử như chúng ta quan niệm doanh nghiệp nhà nước làm những cái mà doanh nghiệp tư nhân không làm thì quân đội cũng phải làm những việc mà ngay cả doanh nghiệp nhà nước không làm. Vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng là vấn đề chiến lược bảo vệ Tổ Quốc trong tình hình mới và là vấn đề cực kỳ quan trọng. Việc tổ chức các tập đoàn kinh tế của quân đội đứng chân trên những địa bàn vùng sâu vùng xa, những nơi trắng dân, trắng chính quyền, trắng đảng viên là điều cực kỳ quan trọng bởi mỗi khi đất nước có nguy cơ bị xâm lược, chính những đơn vị này sẽ là lực lượng tại chỗ có thể chuyển trạng thái chiến đấu một cách nhanh nhất để bảo vệ Tổ Quốc.
Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng việc xây dựng các tuyến đường tuần tra biên giới dài tới gần 10.000 km thực hiện trong 10 năm qua vừa có vai trò cực kỳ quan trọng trong phòng thủ quốc gia, vừa có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa. Nhưng không một doanh nghiệp tư nhân Việt Nam nào có thể đảm nhận. Ngay cả doanh nghiệp nhà nước cũng không dám đăng ký đấu thầu vì thời gian thu hồi vốn là rất dài. Sử dụng hình thức BOT thì không thể vì đây là công trình phục vụ quốc phòng – an ninh là chính. Gọi đầu tư nước ngoài lại càng không ổn vì bản chất của tuyến đường này phục vụ cho mục đích quân sự. Vì thế, các tổng công ty xây dựng của Quân đội phải vào cuộc và Ban Quản lý dự án 147 của Bộ Quốc phòng đảm nhận quản lý thi công, giám sát, kiểm tra và nghiệm thu các công trình này. Một số Đoàn kinh tế - Quốc phòng đứng chân trên các địa bàn Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên… không những đảm bảo cho việc phòng thủ quốc gia trên những vùng chiến lược mà còn góp phần to lớn tạo công ăn việc làm cho nhân dân địa phương, phát triển kinh tế xã hội ở đó.
Để tái cơ cấu các doanh nghiệp quốc phòng thì Đảng đã có Nghị quyết số 520-NQ/QUTW ngày 25-9-2012 của Quân ủy Trung ương về đổi mới và sắp xếp lại các doanh nghiệp Quốc phòng. Theo đó, Bộ Quốc phòng sẽ sắp xếp chỉ còn 17 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, 12 công ty cổ phần có vốn Nhà nước do Bộ Quốc phòng quản lý (Nhà nước giữ trên 51% cổ phần đến năm 2019); thực sự là các doanh nghiệp cần thiết cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Các công ty quốc phòng được cổ phần hóa sẽ không được hưởng sự bù lỗ từ Nhà nước, buộc phải cạnh tranh lành mạnh với các doanh nghiệp khác.
Việc đã rõ như ban ngày nhưng nhiều người vẫn không hiểu. Vì sao vậy ?
Ở luồng ý kiến thứ nhất, đó là những người thiếu thông tin về đường lối chính sách bảo vệ Tổ quốc của Đảng và Nhà nước ta. Đường lối chính sách về kết hợp kinh tế với quốc phòng – an ninh đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, có luận cứ khoa học, có khảo sát thực tiễn chứ không phải cứ thích là ban hành chủ trương. Những người có ý kiến theo hướng này trước hết vì họ lo ngại việc tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế sẽ tạo ra nguy cơ tham nhũng trong quân đội. Họ cũng có cơ sở nhất định khi nhắc đến một số sai phạm của vài doanh nghiệp quốc phòng cũng như liên hệ với những “chuyện động trời” xảy ra với Quân đội Trung Quốc (PLA) trong thời gian vừa qua.
Về chuyện minh bạch tài chính trong hoạt động kinh tế của Quân đội Nhân dân Việt Nam thì Cục Đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch đầu tư đã công khai rõ: Đến hết năm 2016, doanh thu đầu tư nước ngoài năm 2016 của các doanh nghiệp quốc phòng đạt hơn 1 tỷ USD, tổng doanh thu lũy kế đến hết năm 2016 đạt hơn 4,8 tỷ USD. Số tiền chuyển về Việt Nam đến hết năm 2016 đạt hơn 475 triệu USD. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài này của các doanh nghiệp quốc phòng không chỉ mang lại lợi ích về kinh tế cho đất nước, mở đường để các doanh nghiệp khác của Việt Nam có thêm dũng khí chiếm lĩnh thị trường nước ngoài thời kỳ hội nhập, mà còn giúp tạo mối quan hệ hữu hảo với các nước, là cơ sở để bảo vệ đất nước từ xa.
Còn việc chống tham nhũng trong các doanh nghiệp quốc phòng thì việc đương nhiên phải làm là xây dựng những hành lang pháp lý hữu hiệu sao cho vừa phát huy được sức mạnh của các doanh nghiệp quốc phòng, vừa kiểm soát chặt chẽ về quản lý tài chính, tài sản nhưng không trói chân trói tay các doanh nghiệp này. Tóm lại, đó là những ý kiến của những người có thiện ý. Đối với những người này, cần tuyên truyền giải thích thêm về chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước để họ hiểu.
Ở luồng ý kiến thứ hai, đó là những người cố tình không hiểu biết, thậm chí là viện dẫn quân đội của nước nọ, nước kia để biện bạch cho lập trường sai trái của họ mà lập trường ấy có thể tạo nên dư luận chống lại quân đội, phi chính trị hóa quân đội, làm suy yếu quân đội, chia rẽ quân đội với nhân dân, chia rẽ quân đội với công an và các ngành khác, gây bất lợi cho chủ trương, chính sách quốc phòng – an ninh của ta.
Không những thế, những người này tiếp tục đặt “nhân quyền” cao hơn “chủ quyền” của quốc gia – dân tộc. Họ đem cái nhân quyền của cá nhân họ và một số ít người đối lập với lợi ích của cả dân tộc, của toàn thể nhân dân Việt Nam. Họ đòi được biết cả những bí mật quân sự, bí mật quốc gia tối cao có liên quan đến sự tồn vong của dân tộc, sự an nguy của đất nước. Việc làm của họ chính là sự tiếp tay cho các thế lực phản động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam. Ngay cả những tên gián điệp thượng thặng của nước ngoài cũng không thể nghĩ ra cách hay hơn để làm suy yếu nền quốc phòng toàn dân của đất nước ta.
Những lập luận của họ dựa trên sự phân tích và học đòi quân đội của các nước tư bản, của các đội quân xâm lược chuyên đánh thuê cho các ông chủ. Ở những đội quân đấy, không có việc chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc mà chỉ có sự chém giết, không có lý tưởng chiến dấu mà chỉ có việc trả công cho các cuộc giết chóc ấy bằng những đồng dollar tanh máu người. Ở những đội quân ấy, không có việc bảo vệ dân hay huy động sức dân để cùng với nhân dân chiến đấu giữ nước. Ở những qhân đội ấy, chỉ có thái độ lạnh lùng, vô cảm của một lũ kiêu binh và loạn binh.
Những người cố tình phản bác lại chủ trương quân đội tham gia sản xuất và xây dựng kinh tế thừa biết rằng việc quân đội tham gia tích cực vào phát triển kinh tế chính là làm gia tăng sức mạnh của bản thân quân đội, gia tăng sức mạnh tổng hợp của quốc gia; từng bước nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam thông qua kinh tế quốc phòng; đồng thời góp phần tận dụng tiềm lực, tiềm năng của đất nước về mọi mặt, con người, vật chất, trí tuệ. Quân đội tham gia sản xuất và xây dựng kinh tế phục vụ trước hết cho nhiệm vụ quân sự-quốc phòng, đồng thời phát huy tính lưỡng dụng. Quân đội có nhiều năng lực vật chất và trí tuệ để nghiên cứu để tận dụng thành tựu công nghiệp quốc phòng sang công nghiệp dân sự và ngược lại, có thể tận dụng thành tựu của công nghiệp dân sự sang công nghiệp quốc phòng. Sự kết nối này sẽ tăng sức mạnh cho nền kinh tế rất nhiều. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp quốc phòng còn có thể liên doanh, liên kết với dân dụng cả trong nước và nước ngoài. Những người chống lại chủ trương để quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế dã mong muốn điều ngược lại với những tác dụng tích cực kể trên.
Từ một vài những sai lầm, tiêu cực phát sinh trong quá trình quản lý sản xuất và hoạt động kinh tế của một vài doanh nghiệp, đơn vị quân đội, những kẻ chống đối đã thổi phồng lên, xuyên tạc đi, thậm chí là bịa đặt, dựng chuyện để tạo dư luận không tốt đối với quân đội nói riêng và lực lượng vũ trang Việt Nam nói chung. Những thủ đoạn tuyên truyền của họ được các hãng truyền thông của Mỹ, của phương Tây và những cái loa chống cộng trong số người Việt ở nước ngoài bơm thổi lên thành cái mà chúng gọi là dư luận. Hung hăng nhất trong số các hãng truyền thông phương Tây về vấn đề Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia sản xuất và xây dựng kinh tế phải kể đến BBC Việt ngữ và RFA. Trong một tuần kể từ ngày 6-7-2017, BBC Việt ngữ có đến 7 bài về vấn đề này. Thậm chí BBC Việt ngữ còn tổ chức cả một cuộc tọa đàm qua mạng. Không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện trong cuộc tọa đàm này những gương mặt chống phá Việt Nam một cách có hệ thống như Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân Nghĩa…
Để kết thúc bài viết này, tôi xin dẫn lời nhà báo người Mỹ Neil Sheehan (tác giả cuốn sách “Lời nói dối hào nhoáng về Việt Nam”) từ năm 1989 khi ông viết một bài về Trung tá, Anh hùng lao động Trần Văn Cường, Phó chỉ huy trưởng Đoàn kinh tế quân đội N65, đơn vị tham gia từ đầu đến cuối việc xây dựng Nhà máy thủy điện Hòa Bình: “Có rất nhiều điểm khác nhau giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân đội Mỹ. Nhưng có một điều tôi phát hiện ra là: Quân đội Mỹ sinh ra để tiêu phí tiền của, trong đó có những việc vô ích và có hại; còn Quân đội Nhân dân Việt Nam thì lại làm ra được tiền và lúc nào cũng có ích cho đất nước. Dư luận Mỹ cần phải biết điều này”./.
Nguồn: Fb Nguyễn Minh Tâm
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm một đơn vị quân đội đang tham gia xây dựng khu công nghiệp Việt Trì, Vĩnh Phú (1963).

'Không ai ngăn cản được Mỹ ở biển Đông'

Bộ trưởng Quốc phòng Mark Esper cảnh báo Bắc Kinh rằng “không ai ngăn chặn được Mỹ ở biển Đông”, phát biểu mới nhất trong một loạt những tuyên bố cứng rắn về vùng biển chiến lược này.


'Không ai ngăn cản được Mỹ ở biển Đông'

Hôm thứ Ba (giờ Mỹ), ông Esper phát biểu tại một sự kiện của Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế có trụ sở ở Mỹ rằng Trung Quốc “tiếp tục tham gia các hoạt động phá vỡ quy tắc có hệ thống, ép buộc và các hoạt động hung hăng khác, và đáng quan ngại nhất đối với tôi, là quân đội Trung Quốc tiếp tục các hành vi hung hăng ở biển Hoa Đông và Biển Đông”.
“Chúng tôi hy vọng [Trung Quốc] sẽ thay đổi, nhưng chúng tôi phải chuẩn bị cho phương án thay thế”, ông nói thêm, theo tường thuật của Business Insider. “Chúng ta phải duy trì hệ thống tự do và cởi mở, bảo đảm hòa bình và thịnh vượng cho hàng triệu người và bảo vệ các nguyên tắc làm nền tảng cho điều đó.”
Bộ trưởng Esper nói rằng quân đội Mỹ đang triển khai các lực lượng để chống lại hành vi của Trung Quốc và hỗ trợ các chính sách của Mỹ, rằng Mỹ đã tiến hành các hoạt động tự do hàng hải thách thức các hạn chế đi lại bất hợp pháp và yêu sách quá mức của Trung Quốc trong năm 2019 nhiều hơn so với bất kỳ năm nào trong bốn thập kỷ qua. “Chúng tôi sẽ duy trì tốc độ này trong năm nay,” ông nói.
Thứ Ba tuần trước, tàu khu trục USS Ralph Johnson của hải quân Mỹ đã tiến hành chuyến đi “tự do hàng hải” (FONOP) lần thứ sáu trong năm nay tại biển Đông. Và, hai lần trong tháng này, ông Esper lưu ý, Hải quân Mỹ đã vận hành hai nhóm tàu sân bay tấn công cùng lúc.
Trung Quốc tỏ ra nổi giận với sự hiện diện của các tàu sân bay của hải quân Mỹ ở biển Đông. Thời báo Hoàn Cầu của Trung Quốc viết hồi đầu tháng này rằng “biển Đông hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của quân đội Trung Quốc (PLA)” và “bất kỳ hoạt động nào của tàu sân bay Mỹ trong khu vực đều nằm trong ý đồ của PLA”. Hải quân Mỹ cho biết tại thời điểm đó họ không hề “bị đe dọa”.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ nói ông “không biết người Trung Quốc có ý gì khi tuyên bố rỗng tuếch về việc các tàu sân bay Mỹ ở đó là ý muốn của PLA hay gì đó”.
“Tàu sân bay Mỹ đã ở biển Đông, ở Ấn Độ-Thái Bình Dương kể từ Thế chiến II và sẽ tiếp tục ở đó, và chúng tôi sẽ không bị ai ngăn chặn”, ông Esper nói.
“Chúng tôi sẽ di chuyển trên biển, bay trên trời và hoạt động ở những nơi luật pháp quốc tế cho phép”, ông Esper nói, "và chúng tôi làm điều đó, một lần nữa, để khẳng định luật pháp và quyền quốc tế, để bảo lưu chủ quyền của bạn bè và đối tác của chúng tôi, đảm bảo với họ rằng chúng tôi sẽ ở đó để bảo vệ”.
Nhận xét của ông Esper về biển Đông xuất hiện sau tuyên bố của ngoại trưởng Mike Pompeo hôm thứ Hai tuần trước bác bỏ “hầu hết” yêu sách biển của Trung Quốc.
“Thế giới sẽ không cho phép Bắc Kinh coi biển Đông là đế chế hàng hải của mình”, ông Pompeo tuyên bố.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc gọi tuyên bố của Mỹ về biển Đông là “vô trách nhiệm”.
“Nó vi phạm và bóp méo luật pháp quốc tế, cố tình châm ngòi các tranh chấp lãnh thổ và hàng hải, và làm suy yếu hòa bình và ổn định khu vực", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên tuyên bố hôm thứ Ba tuần trước.
Bất chấp những lời lẽ cứng rắn về Trung Quốc, ông Esper nói dự định đến thăm Trung Quốc trước cuối năm nay để "thiết lập các hệ thống truyền thông cần thiết trong trường hợp có khủng hoảng”.
Mỹ đã yêu cầu lãnh sự quán Trung Quốc tại Houston đóng cửa trong ba ngày với lý do bảo vệ sở hữu trí tuệ và thông tin của người Mỹ, theo tin của Reuters. Bắc Kinh lên án động thái này và đe dọa sẽ trả đũa. Một nguồn tin nói Trung Quốc đang cân nhắc việc yêu cầu đóng cửa lãnh sự quán Mỹ ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc.

Australia tham gia tập trận hải quân với Mỹ và Nhật Bản

Australia tham gia tập trận hải quân với Mỹ và Nhật Bản


Ngày 22-7, 5 tàu chiến của Australia tiến hành các cuộc tập trận quân sự ở biển Philippines cùng với hải quân Mỹ và Nhật Bản.


Theo hãng tin ABC của Australia, nhóm công tác chung của Australia do chiến hạm HMAS Canberra dẫn đầu đã tham gia cùng nhóm tàu sân bay USS Ronald Reagan của Mỹ và một tàu khu trục Nhật Bản trong một cuộc tập trận ba bên để chuẩn bị cho cuộc tập trận quy mô lớn hơn ở Hawaii - Tập trận vành đai Thái Bình Dương (RIMPAC).
Trong ngày 23 và 24-7, hải quân ba nước sẽ tiến hành các cuộc tập trận khác nhau nhằm nâng cao khả năng tương tác trong khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Cuộc tập trận ba bên diễn ra trong bối cảnh tàu sân bay Mỹ USS Nimitz vừa có cuộc tập trận với các tàu hải quân Ấn Độ hôm 20-7 ở Ấn Độ Dương.

Thứ Ba, 21 tháng 7, 2020

Hoàn Cầu Thời Báo: VN sẽ ‘trắng tay’ nếu đu dây Mỹ để tăng cường sức mạnh ở Biển Đông

Không có mô tả ảnh.


VOA Tiếng Việt
17/07/2020
•Hôm 16/7, Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc cảnh báo mối quan hệ chiến lược Việt-Mỹ mà Hà Nội đang theo đuổi, nói rằng Việt Nam sẽ “trắng tay” nếu sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Biển Đông tạo thêm căng thẳng hay phá vỡ sự cân bằng của mối quan hệ Trung-Việt-Mỹ. Trong khi giới quan sát trong nước nói với VOA rằng, "xét trong hai mối quan hệ, quan hệ với Mỹ phải được ưu tiên."
-Bài báo có tựa “Hoa Kỳ và Việt Nam thân cỡ nào?” của tác giả Li Jiangang thuộc Viện nghiên cứu Nam và Đông Nam Á và Châu Đại Dương thuộc Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại Trung Quốc, tố cáo rằng Washington “không quan tâm đến đạo đức và công lý,” và đã can thiệp vào các vấn đề của các nước Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam.
“Việt Nam từ lâu đã là một quốc gia mà Hoa Kỳ muốn tận dụng để ngăn chặn địa chính trị Trung Quốc,” bài báo viết.
-Tờ Hoàn cầu viết: “Hà Nội hy vọng sẽ đu dây theo Washington để tăng cường sức mạnh chiến lược ở Biển Đông. Đây là một lựa chọn chiến lược mà Việt Nam đưa ra trước nhu cầu về sức mạnh quốc gia và tình hình khu vực.”
“Nhưng nếu sự can dự của Mỹ vào Biển Đông làm gia tăng căng thẳng khu vực hoặc phá vỡ sự cân bằng giữa Trung Quốc, Việt Nam và Mỹ, thì sự phát triển của Việt Nam sẽ bị gián đoạn. Tổn thất của Việt Nam sẽ lớn hơn những gì nước này có được,” bài báo viết.
Tờ báo còn viết rằng chắc hẳn Việt Nam đã “quá quen” với các “thủ đoạn” của Mỹ, cho rằng Washington chưa bao giờ từ bỏ nỗ lực thúc đẩy “các cuộc cách mạng màu” tại Hà Nội, hay “lợi dụng”các vấn đề xã hội khác nhau như dân chủ và nhân quyền, để “khuấy động mạnh mẽ các cuộc xung đột tại Việt Nam.”
Từ thành phố Hồ Chí Minh, nhà bình luận chính trị Quang Hữu Minh phân tích với VOA lý do vì sao Trung Quốc không muốn Mỹ – Việt ký kết đối tác chiến lược như Thời báo Hoàn cầu đề cập.
“Trung Quốc có nhu cầu ngăn cản việc Việt - Mỹ có thể trở thành Đối tác Chiến lược. Hiện giờ thì quan hệ Việt – Mỹ đang thấp hơn quan hệ Việt – Trung: Quan hệ Việt – Mỹ là Đối tác toàn diện, còn quan hệ Việt – Trung là Đối tác Chiến lược.”
“Nếu như Trung Quốc để cho Việt Nam yên ổn trong việc hợp tác quốc phòng với Mỹ thì có khả năng là tàu Trung Quốc bị trục xuất ra khỏi Biển Đông, hay trên vùng biển của Việt Nam là rất lớn. Vì một khi Việt Nam ký kết hợp tác quốc phòng với Mỹ thì tàu chiến của Mỹ sẽ hiện diện thường xuyên trong vùng biển của Việt Nam. Mà như vậy, về mặt chiến lược thì Trung Quốc bị bất lợi.
“Trung Quốc bịa ra chuyện Mỹ muốn lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam hay gây xáo trộn nội tình Việt Nam. Tôi nghĩ Trung Quốc còn giựt dây để gây làn sóng người Việt công kích Tổng thống Mỹ Donald Trump, hơn là người Việt Nam có nhu cầu thật sự đi công kích một Tổng thống Mỹ.”
“Xét ba lý do vừa nêu trong bối cảnh hiện nay, Hoàn cầu Thời báo hoàn toàn có động cơ để làm như vậy.”
Từ Hà Nội, nhà hoạt động nhân quyền Trần Bang nhận định rằng Trung Quốc từ lâu nay “chưa bao giờ từ bỏ âm mưu phá hoại hay xâm chiếm” Việt Nam và việc họ ngăn cản mối quan hệ ngày càng thắt chặt hơn giữa Hà Nội và Washington cũng nằm trong các thủ đoạn của Bắc Kinh. Chính vì vậy, ông nói rằng Việt Nam nên ưu tiên mối quan hệ với Mỹ.
“Xét trong hai mối quan hệ, thì quan hệ với Mỹ phải được ưu tiên.Như vậy không phải là không nên quan hệ với Trung Quốc, vẫn làm ăn thương mại với họ, nhưng chọn thể chế chính trị thì không nên chọn Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng nâng cấp quan hệ ngoại giao, chính trị, quân sự với Mỹ là điều tốt cho Việt Nam.”
Vào đầu tuần, Tổng Biên tập Thời báo Hoàn Cầu Hồ Tích Tiến viết bài nói rằng “chúng tôi sẽ phản đối việc sử dụng quan hệ Việt – Mỹ để chống Trung Quốc dưới bất kỳ hình thức nào.”
Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội hôm 13/7 đăng lên trang Facebook chính thức của họ bài viết của Hồ Tích Tiến, với đại ý nói rằng việc Mỹ xây dựng quan hệ tốt đẹp với Việt Nam là có mục đích “ly gián quan hệ Trung– Việt,” cũng như nhằm biến Việt Nam thành “con cờ phục vụ cho chiến lược Mỹ chèn ép Trung Quốc.”
-Hôm 16/7, trả lời câu hỏi đề nghị cho biết quan điểm của Việt Nam về bài báo của Hồ Tích Tiến, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định: “Trong một thế giới hội nhập phát triển như ngày nay, Việt Nam cho rằng việc các quốc gia thể hiện thiện chí và phát triển quan hệ hữu nghị với nhau là xu thế tất yếu và đóng góp cho hòa bình, ổn định chung ở khu vực và thế giới. Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển hợp tác với tất cả các đối tác trên cơ sở cùng có lợi, tôn trọng luật pháp quốc tế, vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới. Chúng tôi mong các nước chia sẻ quan điểm này của chúng tôi,” bà Hằng nói.
Theo báo Tiền Phong, bài viết của Hồ Tích Tiến nhanh chóng bị gỡ bỏ khỏi trang của Đại sứ quán Trung Quốc, sau khi nhận được hàng loạt bình luận phản đối gay gắt.

TÌNH HÌNH HIỆN TẠI Ở BIỂN ĐÔNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA VIỆT NAM


(Tác giả: Dmitry Mosyakov, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Giám đốc Trung tâm Đông Nam Á, Úc và Châu Đại Dương thuộc Viện Nghiên cứu Phương Đông của Viện Hàn lâm Khoa học Nga)
"Chúng tôi thấy rằng, với trật tự thế giới đang thay đổi, sự cạnh tranh giữa các trung tâm quyền lực hiện tại tiếp tục tăng cường và cuộc chiến giành quyền lãnh đạo trong tương lai cũng vậy. Thật không may, mối đe dọa do coronavirus gây ra đã không làm giảm những căng thẳng địa chính trị này, mà còn làm trầm trọng thêm chúng. Chúng tôi muốn nhắc lại rằng, theo quan điểm của chúng tôi, đại dịch COVID-19 đã trở thành chất xúc tác bổ sung tăng tốc những thay đổi này".
Tuyên bố nói trên, do Thứ trưởng Ngoại giao Liên bang Nga Sergei Ryabkov đưa ra, mô tả rất chính xác cách thức tình hình đang diễn ra ở Biển Đông. Và ngay cả trong quá trình lây lan coronavirus trên toàn thế giới, ở mức độ này hay mức độ khác, đã có tác động đến tất cả các quốc gia ven Biển Đông, tình hình trong khu vực đang trở nên biến động và căng thẳng hơn. Hành động của Washington đặc biệt đáng báo động khi các tàu Hải quân Hoa Kỳ, với số lượng lớn, tập trung trên Biển Đông. Gần đây, rõ ràng với mục đích khiêu khích Trung Quốc, tàu tấn công đổ bộ USS America, tàu tuần dương tên lửa dẫn đường Bunker Hill và tàu khu trục USS Barry đã được tăng cường vào khu vực. Họ đi cùng với tàu khu trục của Hải quân Hoàng gia Úc HMAS Parramatta.
Trong bối cảnh căng thẳng nảy sinh do cuộc đối đầu giữa hai cường quốc toàn cầu là Hoa Kỳ và Trung Quốc đang diễn ra ở Biển Đông, các chính sách mà Việt Nam, quốc gia có ảnh hưởng nhất trong khu vực, đang tuân theo và phản ứng của họ đối với các sự kiện đang diễn ra là điều có ảnh hưởng quan trọng nhất. Rốt cuộc, lập trường mà Việt Nam, với quân đội hùng mạnh của mình, sẽ có tác động đáng kể đến cách thức cuộc xung đột sẽ diễn ra và sẽ có ảnh hưởng quyết định liệu nó có dẫn đến một cuộc chiến toàn diện mới hay không.
Tuy nhiên, không thể so sánh sức mạnh của Hải quân Nhân dân Việt Nam với Hải quân Trung Quốc hay lực lượng Hải quân Hoa Kỳ. Nhưng rõ ràng là Hà Nội chắc chắn có khả năng bảo vệ lợi ích của mình và gây ra những tổn thất đáng kể cho kẻ thù nếu một cuộc xung đột vũ trang xảy ra. Đối với chính sách liên quan đến cuộc đối đầu trên Biển Đông, lãnh đạo Việt Nam đã quyết định hành động có trách nhiệm, giữ gìn hòa bình và ổn định bằng cách cố gắng giải quyết cuộc đối đầu đang diễn ra chỉ bằng các biện pháp hòa bình.
Trên thực tế, đó là con đường được chọn làm cơ sở cho chính sách đối ngoại của Việt Nam. Một khía cạnh quan trọng khác của chính sách đối ngoại của họ là Hà Nội sẵn sàng tranh thủ các đối tác ở xa để đối đầu với kẻ thù gần hơn, đó là một chiến lược đã có hiệu quả trong quá khứ. Trong cuộc chiến chống lại cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, người đồng minh của Việt Nam từ xa là Liên Xô, mà sau này, vào năm 1979, đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với Việt Nam. Hiện tại, thì Washington đang tìm cách hợp tác với quốc gia Đông Nam Á này, nơi họ đang tích cực thúc đẩy quan hệ trong lĩnh vực kinh tế và quốc phòng. Tuy nhiên, Việt Nam hiểu rõ ràng cần có những giới hạn nhất định trong sự hợp tác đó, từ góc độ duy trì sự cân bằng quyền lực và lợi ích nhất định, đóng một vai trò quan trọng đối với sách lược của Hà Nội. Việt Nam cần phải thận trọng trong việc phát triển các mối quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ. Rốt cuộc, Washington đã có khả năng lợi dụng tình hình hiện tại để tạo ra lợi thế cho mình, đặc biệt, bằng cách gây áp lực cho các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản và chính phủ Việt Nam phải có lập trường cứng rắn hơn đối với Trung Quốc và hợp tác chặt chẽ hơn nữa với Washington trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh.
Chính sách phức tạp của Việt Nam ở Biển Đông cũng đòi hỏi sự tham gia đầy đủ của các quốc gia thành viên ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) nhằm khuyến khích sự ổn định và giảm bớt biến động trong khu vực Biển Đông. Về vấn đề này, nhiều hy vọng được đặt vào việc ký kết Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông trong tương lai. Việc soạn thảo tài liệu này đã mất một thời gian dài, rõ ràng là do những khó khăn phức tạp gặp phải trong quá trình này. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn luôn ủng hộ việc hoàn thành và áp dụng nó.
Hà Nội coi việc hợp tác với các quốc gia hùng mạnh khác ở châu Á và trên thế giới là rất quan trọng, điều này cũng có thể giúp giảm bớt căng thẳng ở Biển Đông. Ở đây tôi đang đề cập đến Ấn Độ, Úc, Nhật Bản và Nga, những quốc gia mà Việt Nam hiện đang được hưởng mức độ hợp tác cao. Sự tham gia chính trị và kinh tế của các nước trên trong tình trạng Biển Đông hiện nay có thể thúc đẩy sự cân bằng hướng tới hòa bình và ổn định.
Như chúng ta có thể thấy, các chính sách của Việt Nam ở Biển Đông theo nhiều cách là nhằm mục đích quốc tế hóa cuộc xung đột và giải quyết nó thông qua sự hợp tác với các cường quốc khu vực và toàn cầu, cũng như các tổ chức quốc tế. Tất cả những nỗ lực này đang đóng một vai trò quyết định trong việc giữ gìn hòa bình và ngăn chặn một cuộc chiến toàn diện nổ ra trong khu vực.
Không thể không khen ngợi sự sáng suốt của lãnh đạo Việt Nam vì sự kiên trì của họ khi tiếp tục đi theo con đường hướng tới hòa bình bất chấp mọi thách thức, như áp lực từ bên trong và khiêu khích từ bên ngoài. Các nguyên tắc chính của chính sách này được thể hiện trong nhiều tài liệu. Chúng được mô tả rất chi tiết trong tuyên bố chung nổi tiếng, ban hành vào cuối chuyến thăm của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Nga vào tháng 9 năm 2018. Theo tài liệu này, cả hai bên đã thống nhất trong sự tin tưởng chung rằng mọi tranh chấp, bao gồm cả lãnh thổ, biên giới của Việt Nam và các quốc gia khác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều phải được giải quyết một cách hòa bình mà không dùng đến vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực, kể cả bằng cách thông qua Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 để hỗ trợ hòa bình và ổn định cũng như hàng hải và an toàn trên biển. Tuyên bố chung cũng nói rằng Nga và Việt Nam đống tình và ủng hộ việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, và khẳng định ủng hộ việc áp dụng Bộ quy tắc ứng xử này của các bên một cách hợp pháp với các tài liệu ràng buộc.
Kể từ khi công bố tuyên bố, nhiều sự kiện xảy ra đã làm tăng đáng kể sự biến động ở Biển Đông và có nguy cơ gây ra một cuộc xung đột toàn diện, đôi khi, dường như không thể tránh khỏi đã xảy ra trong khu vực. Mặc dù phải đối mặt với những thách thức khó khăn nhất, giới lãnh đạo Việt Nam đã cố gắng tuân thủ chính sách cốt lõi của mình là thúc đẩy hòa bình và ổn định, từ đó thể hiện cam kết đầy đủ của họ trong việc ngăn chặn xung đột, giảm căng thẳng và tìm ra giải pháp cho các tranh chấp hiện có. Lập trường như vậy đã làm cho Việt Nam trở thành một trong những nước bảo đảm hòa bình và ổn định hiện nay ở khu vực Biển Đông.